Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI QUI HOẠCH GIỮA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỚI CÁC TỈNH TRONG VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.22 KB, 15 trang )

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI QUI HOẠCH
GIỮA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỚI CÁC TỈNH TRONG VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
Huỳnh Đức Thiện
1. Tổng quan về vị thế của TP.HCM và các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (VKTTĐPN) ban đầu bao gồm TP.HCM và 3 tỉnh
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, có tổng diện tích 12.661 km2 với dân số khoảng
10,5 triệu người, nhưng với nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và sự năng động trong phát
triển kinh tế, nên có mức đóng góp đến hơn 35% GDP của cả nước1.
Do điều kiện tự nhiên, sự phân bổ về tài nguyên và nguồn lực giữa các vùng trong nước
nên mỗi nơi đều có những lợi thế vượt trội. VKTTĐPN nằm ở vị trí độc đáo, có lợi thế vượt trội
về mặt địa lí, về nguồn lực và tiềm năng trên nhiều mặt, có ý nghĩa trong cả nước và khu vực
Đông Nam Á. Vì vậy, Vùng đã chủ động hợp tác và phân công sản xuất để mở rộng thị trường
trong nước, đồng thời thúc đẩy sự phát triển theo hướng đồng đều giữa các vùng:
- Phía tây và tây nam nằm kề cận ĐBSCL, vùng kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là lương
thực - thực phẩm, trù phú nhất đất nước.
- Phía đông và đông nam, kề cận vùng biển, giàu tài nguyên thủy sản, dầu mỏ, khí đốt và
là nơi duy nhất khai thác dầu khí của đất nước hiện nay. Vùng còn nằm kề cận hành lang hàng
hải quốc tế dọc theo biển Đông nhộn nhịp nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Phía nam có cảng biển lớn và có điều kiện thuận lợi để xây dựng hệ thống cảng biển
nước sâu (cảng Vũng Tàu - Thị Vải).
- Phía bắc và đơng bắc kề cận vùng cao nguyên tây nam có ý nghĩa chiến lược đối với cả
nước, có đất đai màu mỡ, phù hợp cho cây cơng nghiệp dài ngày và ngắn ngày, có dự trữ rừng,
trữ lượng khống sản và thuỷ sản lớn.
- Có TP.HCM là đô thị và trung tâm nhiều chức năng lớn nhất nước, có lực lượng lao
động dồi dào, tay nghề khá, có nhiều cơ sở giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, cơng nghệ,
đang đóng góp tích cực cho phát triển của Vùng và cả khu vực phía Nam.
- Có Vũng Tàu, là thành phố cảng và dịch vụ cơng nghiệp nằm ở “Mặt tiền dun hải” ở
phía Nam, sẽ là cầu nối và “cửa ngõ” lớn để giao thương với thế giới.
- Có thị xã Thủ Dầu Một và khu vực nam Bình Dương, TP.Biên Hồ và khu vực dọc theo


quốc lộ 51, nơi có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển công nghiệp.
Nhận rõ tiềm năng, thế mạnh và đánh giá cao vai trò của VKTTĐPN, trong kế hoạch
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian dài đến 2010, Chính phủ đã xác định là nơi ưu tiên phát
triển công nghệ cao, dịch vụ tài chính ngân hàng, khoa học cơng nghệ, các dịch vụ chế biến khai
thác dầu khí, khai thác ni trồng thủy sản…
Qui hoạch này nhằm hướng đến mục tiêu trước mắt là đến năm 2010, VKTTĐPN sẽ phải
chiếm 39,7% GDP của cả nước, với cơ cấu là công nghiệp và xây dựng chiếm 59%, dịch vụ
chiếm khoảng 36,5% và nông lâm ngư nghiệp chiếm 4,5%2.


ThS, NCS chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cận – hiện đại
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006, Báo cáo tổng hợp đề án Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Vùng
Đơng Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, Hà Nội, tr.35.
2
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg ngày 23/02/1998 về phê duyệt qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội Vùng KTTĐPN đến năm 2010, tr.2.
1


Theo qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế đến năm 2010 thì địa bàn kinh tế gồm TP.
HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu được coi là địa bàn kinh tế trọng điểm phía
Nam bởi vì địa bàn có nhiều lợi thế so với các địa phương khác trong cả nước về kinh tế - xã hội,
vị trí địa lí và tài nguyên. Đồng thời, đây cũng là bộ phận của đất nước, có quan hệ chặt chẽ về
nhiều mặt với Nam Bộ và cả nước. Theo định hướng chung cho sự phát triển kinh tế địa bàn đến
năm 2010: “VKTTĐPN tiếp tục giữ vai trò trung tâm phát triển kinh tế về công nghiệp, thương
mại - dịch vụ nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững không chỉ cho những khu vực lân cận
(ĐBSCL và Tây Ngun) mà cịn xun suốt tồn quốc gia. Sự bền vững được xác định dựa trên
cơ sở phát triển tồn diện kinh tế, phát triển mơi trường đơ thị, cơ sở hạ tầng vững chắc, nguồn
nhân lực dồi dào về chất và bảo vệ tốt môi trường thiên nhiên”3.
Xét trên bình diện tổng thể thì VKTTĐPN là nơi có nhiều lợi thế so với các vùng khác

trong cả nước.
- Về tự nhiên, VKTTĐPN thích hợp cho sự phát triển và mở rộng đơ thị; có hệ thống
cảng nước sâu và đường thuỷ phát triển; tài nguyên nước và tài nguyên năng lượng dồi dào; ít bị
tác động bởi thiên tai; dễ dàng tiếp cận với các trung tâm đô thị lớn trong khu vực Đông Nam Á.
- Đặc biệt, VKTTĐPN có một lực lượng lao động trẻ và có kĩ năng cao hơn hẳn các vùng
khác của Việt Nam.
Trong nội bộ của VKTTĐPN, thì TP.HCM có vai trị trung tâm rất quan trọng về nhiều
mặt, nhưng các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay cũng đã và đang tận
dụng được rất nhiều lợi thế về thị trường, nguồn nhân lực, tài chính và cơ sở hạ tầng kĩ thuật - xã
hội, ngay bên cạnh TP.HCM.
1.1. Thành phố Hồ Chí Minh
Với những lợi thế là một đô thị lớn nhất nước, một trung tâm nhiều chức năng, có đội ngũ
chất xám dồi dào, với các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, các sản phẩm có hàm lượng khoa học
kĩ thuật chiếm tỉ trọng lớn; các loại dịch vụ hiện đại,…
Quyết định số 532/TTg ngày 12/07/1997 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt qui
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến năm 2010, cho thấy kinh tế TP.HCM
được định hướng trong giai đoạn 1996-2010 như sau:
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình qn năm là 13%. Trong đó, khu vực dịch vụ khoảng
14,4%, công nghiệp và xây dựng khoảng 14%; khu vực nông - lâm - ngư và khai thác khoảng
4%.
- Cho đến năm 2010, vẫn là một trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước, là trung
tâm chuyển giao cơng nghệ và thúc đẩy q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá các địa phương
lân cận trong địa bàn. Tuy nhiên, vai trị trung tâm về cơng nghiệp sẽ giảm dần từ sau năm 2010
sau khi quá trình cơng nghiệp hố ở các tỉnh trong địa bàn như Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu và ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã đạt bước phát triển đáng kể. Vai trị ngành
cơng nghiệp của Thành phố trong thời gian này chủ yếu hướng về công nghiệp kĩ thuật cao
- Trong khi đó, từ nay đến năm 2010, vai trò trung tâm thương mại - dịch vụ, đầu mối
giao lưu quốc tế đối với khu vực và cả nước vẫn chưa có nơi nào vượt qua được vị thế của
TP.HCM. Đặc biệt, TP.HCM sẽ trở thành trung tâm tài chính và thương mại của khu vực
ASEAN sau năm 2010.


3

Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg ngày 23/02/1998 về phê duyệt qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội Vùng KTTĐPN đến năm 2010, tr.3


Như vậy, so với qui hoạch thì TP.HCM vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế để trở
thành đầu tàu mạnh mẽ cho nền công nghiệp và dịch vụ VKTTĐPN nói riêng và của cả nước nói
chung.
1.2. Đồng Nai
Đồng Nai nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, là trọng điểm đầu tư của
Chính phủ. Trung tâm của tỉnh là thành phố Biên Hoà, cách TP.HCM 30 km về phía Tây, cũng
là một trung tâm kinh tế - kĩ thuật - văn hoá giáo dục lớn. Với dân số trên 3 triệu người, Đồng
Nai sẽ là thị trường tiêu thụ rộng lớn và nguồn cung cấp lao động dồi dào, đạt chất lượng cao cho
nền sản xuất cơng nghiệp của tỉnh.
Đồng Nai có hệ thống giao thơng rất thuận lợi với các quốc lộ có tổng chiều dài 244,5
km, đã và đang được nâng cấp theo tiêu chuẩn đường cấp I, II đồng bằng (Quốc lộ 1, Quốc lộ
51), cấp III đồng bằng (Quốc lộ 20); có nhiều tuyến đường liên tỉnh, tuyến đường sắt Bắc - Nam
và hệ thống các cảng ở Đồng Nai cùng với cảng ở TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu và sân bay quốc
tế Tân Sơn Nhất… đáp ứng tốt cho nhu cầu lưu thơng hàng hố.
Tài ngun đất và nước của Đồng Nai thích hợp với các loại cây trồng có giá trị kinh tế
cao như cao su, cà phê, điều… có thể phát triển thành vùng chun canh nơng sản đặc thù cung
cấp cho công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu; và còn nhiều vùng có kết cấu đất
bền vững, thuận lợi để bố trí các cơng trình xây dựng - cơng nghiệp.
Cơ cấu kinh tế của Đồng Nai hiện nay là công nghiệp - dịch vụ - nơng nghiệp. Q trình
chuyển dịch cơ cấu diễn ra hoàn toàn theo hướng gia tăng tỉ trọng công nghiệp, trong khi tỉ trọng
của cả nông nghiệp lẫn dịch vụ đều giảm mạnh. Hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh gắn
liền với quá trình hình thành các khu và cụm công nghiệp tập trung. Khu vực công nghiệp của
Đồng Nai hiện chiếm đến 52% GDP của tỉnh, tiếp theo là dịch vụ (25%) và nông nghiệp (23%)4.
Nền cơng nghiệp hiện có là lợi thế lớn để tỉnh tiếp tục thu hút đầu tư từ các nguồn khác nhau

phục vụ cho quá trình phát triển.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, cũng tương đối phát triển với các trục giao
thông quan trọng như Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, Quốc lộ 20 và đường sắt Bắc - Nam. Tuy nhiên, lợi
thế về giao thông của Đồng Nai còn phụ thuộc nhiều vào các dự án trong tương lai như đường
sắt Biên Hoà - Bà Rịa - Vũng Tàu, sân bay quốc tế Long Thành, hệ thống các cảng Thị Vải, Bến
Đình, Sao Mai.
Về tài ngun khống sản, Đồng Nai cũng có một số khống sản như đá xây dựng, cát
xây dựng, sét gạch ngói phục vụ cho công nghiệp sản xuất vật liệu phi kim loại.
Với những lợi thế so sánh hiện có, hướng phát triển chủ yếu của Đồng Nai trong những
năm qua và sắp tới vẫn là ngành công nghiệp sử dụng ngun liệu tại chỗ.
1.3. Bình Dương
Vị trí địa lí thuận lợi, gần các trung tâm kinh tế lớn (TP.HCM, Đồng Nai), gần các cảng
biển, sân bay, ga tàu hoả, đường giao thông lớn… thuận tiện và hiệu quả kinh tế trong việc vận
chuyển nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và vận chuyển sản phẩm đến các thị trường tiêu
thụ trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt, trong lĩnh vực chế biến nông sản phẩm xuất khẩu sẽ được
khuyến khích, ưu đãi vì Bình Dương là cửa ngõ đầu mối giao lưu của các tỉnh miền Trung và
Tây Nguyên là những tỉnh có nguồn nơng sản ngun liệu dồi dào.

4

Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia TP.HCM, năm 2007, Những luận cứ khoa học và giải pháp chủ yếu cho việc phát
triển kinh tế bền vững Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam trong hội nhập quốc tế, Kỉ yếu Hội thảo khoa học,
TP.HCM, tr.39.


Nhờ vào vị trí tiếp giáp với TP.HCM, nên giá thuê đất là một lợi thế so sánh của Tỉnh đối
với các vùng lân cận; các dịch vụ cung ứng cho các khu công nghiệp và các dự án đầu tư như:
điện, nước, lao động, thơng tin… đã được Bình Dương đầu tư, bảo đảm nguồn cung cấp cho các
nhà đầu tư. Đây là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước so sánh lựa chọn.
Đầu tư trên địa bàn tỉnh, các nhà đầu tư sẽ được hưởng giá cho thuê đất ưu đãi này.

Tỉnh Bình Dương có cơ sở hạ tầng kĩ thuật tốt, thuận lợi cho phát triển cơng nghiệp nói
riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Với lợi thế và mặt bằng rộng thoáng, độ cao và nền đất thích hợp cho các cơng trình cơng
nghiệp và đơ thị, có các đầu mối giao thơng đường bộ, sắt, thủy và hệ thống cấp nước, điện thuận
lợi,…. Bình Dương cũng như Đồng Nai, được định hướng là trung tâm của VKTTĐPN và khu
vực dọc theo Quốc lộ 51 sẽ là nơi đầu tư lí tưởng cho các loại hình, các ngành công nghiệp đa
dạng. Cơ cấu kinh tế vùng này chủ yếu là công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp, trong đó có
cơng nghiệp ngun liệu, sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến nông, ngư, lâm sản, sản xuất hàng
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Công nghiệp của vùng này vừa tạo ra khả năng tăng trưởng
vững chắc, vừa có tác động thúc đẩy q trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn và khu vực
phía Nam, đặc biệt là sau 2010 khi được trao nhiệm vụ là trung tâm cơng nghiệp chính của
VKTTĐPN.
Bình Dương hiện là địa phương tăng trưởng nhanh nhất trong cả nước và cũng đang là
nơi thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất.
Cũng như Đồng Nai, quĩ đất là thế mạnh của Bình Dương, phục vụ cho cả phát triển nông
nghiệp và công nghiệp - xây dựng. Đặc biệt, diện tích đất bằng chưa sử dụng cịn nhiều, thuận lợi
cho việc phát triển phi nơng nghiệp theo hướng bộ trí các khu và cụm công nghiệp. Giá đất rẻ
hơn so với TP.HCM cũng là lợi thế rất lớn của Bình Dương trong việc thu hút đầu tư từ các
nguồn trong nước và ngoài nước.
Một lợi thế rất lớn nữa của Bình Dương là bộ máy quản lí hướng vào việc hỗ trợ doanh
nghiệp, tạo lập môi trường kinh doanh với chi phí thấp. Đây chính là một trong những nguyên
nhân cho sự thành cơng của Bình Dương trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngồi, Bình Dương đã nhiều lần phối hợp với Cơ
quan xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, Trung tâm
Nhật Bản - ASEAN và các nhà tài trợ tổ chức nhiều hội thảo giới thiệu thế mạnh và tiềm năng
của tỉnh.
Các biện pháp mà Bình Dương đang tiếp tục thực hiện để cải thiện mơi trường đầu tư, là
hồn thiện cơ sở hạ tầng, đơn giản hoá thủ tục cấp phép và thực hiện các chế độ ưu đãi đối với
nhà đầu tư, coi trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Cơ cấu kinh tế của Bình Dương hiện nay là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Tuy

nhiên, khác với Đồng Nai, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Bình Dương trong 10 năm qua chủ
yếu diễn ra giữa khu vực nông nghiệp dịch vụ, trong khi tỉ trọng của khu vực công nghiệp - xây
dựng không thay đổi. Những ngành cơng nghiệp chủ lực của Bình Dương hiện nay là công
nghiệp chế biến nông lâm sản thực phẩm (chiếm 36% GTSX cơng nghiệp), cơ khí (15%), dệt
may và da giày (11%), gốm sứ và vật liệu xây dựng (10%), và hố chất 26%5. Trong những
ngành này, Bình Dương đang có lợi thế so sánh cao ở ngành gốm sứ, vật liệu xây dựng, dệt may
và da giày.

5

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2007, Báo cáo rà soát, điều chỉnh Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng
Đông Nam bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, Hà Nội, tr.31.


1.4. Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu có vị trí là cửa ngõ của VKTTĐPN hướng ra biển Đơng, với nguồn
tài ngun dầu khí đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong việc tạo nguồn lực cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước. Nói chung, Bà Rịa - Vũng Tàu hội tụ được nhiều điều kiện để
đẩy mạnh sự phát triển của các ngành kinh tế biển bao gồm công nghiệp khai thác dầu khí, cảng
biển và vận tải biển, khai thác chế biến hải sản và du lịch. Tuy nhiên, các ngành kinh tế chủ lực
này của Bà Rịa - Vũng Tàu còn phụ thuộc nhiều vào khả năng thiết lập đồng bộ một hệ thống
giao thông đường biển, đường bộ, đường sắt và đường ống.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời gian qua đã và đang khẳng định thế mạnh của một
thành phố có lợi thế cao về sản xuất công nghiệp, về giao thương và hội nhập quốc tế. Tỉnh chú
trọng phát triển năng lực đánh bắt hải sản nên tổ chức đóng mới các loại tàu, tiếp tục thành công
trong các dự án khai thác quĩ đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, cơng trình thủy lợi, giao thơng, văn
hố - giáo dục,… Tuy nhiên, về lâu dài, địa bàn này cần tiến hành những biện pháp hiệu quả thu
hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố của Vùng.
Thành phố Vũng Tàu đã và đang hình thành một nền “kinh tế mở” ở mặt tiền duyên hải
phía Nam, một cửa ngõ rộng thoáng, một đầu mối giao lưu quan trọng và hấp dẫn để mở rộng

quan hệ và giao lưu hội nhập với thế giới bên ngoài. Ngồi ra với lợi thế về phát triển cơng
nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, các dịch vụ và công nghiệp hàng hải, du lịch… Kinh tế khu
vực Bà Rịa - Vũng tàu được định hướng như sau:
- Cho đến năm 2010, tỉ trọng trong GDP của địa bàn Bà Rịa - Vũng Tàu so với cả
VKTTĐPN sẽ là 40% và sẽ là mũi nhọn tăng trưởng của cả địa bàn .
- Tuy diện tích có hạn chế nhưng Vũng Tàu sẽ là cảng biển lớn nhất của đất nước cùng
với một nền công nghiệp và dịch vụ phát triển.
Tóm lại, về tương quan vị thế và lợi thế so sánh trong VKTTĐPN, TP.HCM và ba tỉnh
cịn lại có vai trò bổ sung cho nhau hơn là cạnh tranh lẫn nhau. Thực tế là có nhiều ngành cơng
nghiệp như dệt may, da giày, chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất vật liệu phi kim loại mà
TP.HCM và ba tỉnh đều có lợi thế so sánh. Nhưng vấn đề không phải là các địa phương cạnh
tranh với nhau hay địa phương này làm thì địa phương khác khơng làm, mà các ngành trên vẫn
có thể cùng được phát triển theo hướng khai thác lợi thế qui mô tăng dần của địa phương, của
một ngành và của một doanh nghiệp. Chính ở đây, vấn đề bố trí các khu và cụm cơng nghiệp có
ý nghĩa rất quan trọng và sẽ được trình bày trong chương chính sách, giải pháp.
Xét về lợi thế so sánh động, trong tương lai các tỉnh Đồng Nai và Bình Dương sẽ ngày
càng có lợi thế so sánh trong các ngành chủ yếu khai thác chi phí lao động rẻ và tài nguyên đất
đai như dệt may, sản xuất vật liệu phi kim loại, gốm sứ và cả hoá chất, cao su. TP.HCM, với lợi
thế về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng kĩ thuật, xã hội và thị trường, sẽ hướng mạnh vào các ngành
cơng nghiệp cơ khí, điện tử, thiết bị thơng tin, công nghệ phần mềm và các dịch vụ cao cấp như
thương mại, xuất nhập khẩu, tài chính - ngân hàng, tư vấn, viễn thông, khoa học công nghệ, giáo
dục và y tế. Sự hợp tác và phối hợp giữa TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu là cơ sở để phát triển
hoạt động du lịch trong VKTTĐPN.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của Vùng và từng địa phương so với qui hoạch đã dịch
chuyển đúng hướng, tăng dần tỉ trọng cơng nghiệp và dịch vụ tuy cịn khá chậm chạp. Tuy nhiên,
do một số nguyên nhân khách quan hay chủ quan, VKTTĐPN nói chung và TP.HCM nói riêng
vẫn chưa phát huy được vai trị hạt nhân, đầu tàu của mình đối với khu vực Nam bộ và cả nước.


2. Thực trạng qui hoạch của TP.HCM và các tỉnh trong VKTTĐPN

Thực tế đã và đang đặt ra một vấn đề lớn là khi Thủ tướng Chính phủ quyết định cho
thành lập VKTTĐPN thì hầu hết các tỉnh trong vùng đều đã được duyệt qui hoạch chi tiết. Các
tỉnh vẫn đang phát triển một cách tự phát theo qui hoạch chi tiết của tỉnh mình, chưa có qui
hoạch đồng bộ hợp lí trong tồn Vùng nên đầu tư chồng chéo gây lãng phí.
Chính phủ đã nhiều lần thể hiện sự lo lắng cho tốc độ tăng trưởng của VKTTĐPN qua
các chỉ thị, vì như thế sẽ có ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nước, nếu Vùng
tăng trưởng được 1% thì cả nước tăng được 0,3%. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các tỉnh phải
chủ động xây dựng kế hoạch phát triển trong từng năm, phải đạt mức tăng trưởng tối thiểu là
14% - 15%.
Nhiệm vụ rất nặng nề khi mà những yếu kém trong Vùng đang bộc lộ, địi hỏi cần phải có
những biện pháp rất quyết liệt và đồng bộ mới có thể đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trong thời
gian tới. Nhiều hội nghị, hội thảo đã được tổ chức, mà vấn đề thường xuyên được nêu lên, như là
vấn đề chủ yếu, chính là việc rà sốt lại qui hoạch cho đồng bộ và phù hợp cho toàn Vùng.
- Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường cho rằng, biện pháp hàng đầu là phải tiến hành
qui hoạch lại toàn bộ vùng kinh tế trọng điểm, qui hoạch này phải tính đến sự thống nhất trong
tồn Vùng và có qui hoạch chi tiết cụ thể; trong qui hoạch cần thể hiện vùng đất nào cần giải
phóng mặt bằng thì tính ln việc tập trung đầu tư dạy nghề cho người lao động trong khu vực
đó để bảo đảm tình hình chính trị xã hội vùng mới chuyển sang đơ thị hố ổn định. Qui hoạch
này cũng phải tính đến các nguồn nguyên liệu, mơi trường, khai thác khống sản .
- Bộ trưởng Bộ Thương mại cho rằng Chính phủ nên có cái nhìn hồn tồn mới trong q
trình điều chỉnh qui hoạch VKTTĐPN theo hướng đặt tính liên kết vùng thật cao, làm rõ lợi thế
so sánh và gắn qui hoạch đầu tư với thị trường trong điều kiện hội nhập.
- Các Bộ Giao thơng Vận tải, Bộ tài chính và các Bộ, ngành khác cũng bày tỏ khá cụ thể
công việc qui hoạch tới đây sẽ là qui hoạch toàn bộ tuyến đường bộ, trong đó có các tuyến đường
vành đai 4 của TP.HCM nối với các tỉnh trong khu vực kinh tế trọng điểm và các tỉnh lân cận;
qui hoạch tuyến đường sắt cần thiết từ những khu vực tổng kho lớn để vận chuyển hàng hoá tới
các cụm cảng nước sâu và cảng biển; qui hoạch cụm cảng số 5 có trọng tải vận chuyển 100 triệu
tấn, chiếm 50% trọng tải của cả nước vào năm 2010 và có tính đến kế hoạch di dời cụm cảng của
TP.HCM…
- UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã báo cáo Chính phủ là Bà Rịa - Vũng Tàu đang trong

chương trình phát triển dịch vụ, du lịch nên cần phải di dời toàn bộ các cơ sở sản xuất thủy sản
trong thành phố Vũng Tàu ra ngoài. Tỉnh đã qui hoạch hai địa điểm tại huyện Long Sơn, nhưng
lại giẫm chân với qui hoạch đầu tư xây dựng nhà máy chế biến dầu khí của Chính phủ. Nhiều
vấn đề rất đáng lo trong khu vực, đó là sự ơ nhiễm đáng báo động trong tình hình cơng nghiệp
hố - hiện đại hoá.
- UBND TP.HCM cũng đưa ý kiến là đã đến lúc cần phải cấp bách qui hoạch lại tổng thể
khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, qui hoạch chi tiết và từng tiểu khu. Bởi vì khơng thể lãng
phí nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực… khi mà yêu cầu hội nhập đã đến.
Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan bộ, ngành tham gia làm qui hoạch,
trong đó giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm chính, phải có cái nhìn dài hơi hơn đối
với sự phát triển của đất nước, trong đó cần hết sức chú trọng đến đầu tư hệ thống vận tải bánh
sắt, bởi khi lượng hàng hoá trong vùng ĐBSCL tăng lên trên 10 triệu tấn thì khơng có tuyến
đường bộ nào có thể bảo đảm lưu lượng vận chuyển bằng xe ôtô và giá thành tăng lên rất cao.


Để phát huy hết tiềm năng sẵn có của Vùng và tạo động lực cho Vùng phát triển nhanh
trong thời gian tới cần thực hiện nhiều giải pháp, nhưng tiên quyết là phải đánh giá lại qui hoạch
Vùng và cập nhật qui hoạch Vùng với hai nội dung chính là qui hoạch ngành với các sản phẩm
công nghiệp chủ lực và qui hoạch hạ tầng kinh tế - xã hội.
Nhắc đến những tỉnh trong VKTTĐPN, điều được biết đến nhiều nhất là những khu công
nghiệp (KCN) hơn những ngành hay lĩnh vực nào khác - ngoài cảng biển và dầu khí ở Vũng Tàu.
Có lẽ KCN là điểm mạnh của VKTTĐPN trong giai đoạn hiện nay.
Tính đến cuối năm 2006, cả nước có 156 KCN, rải rác ở 3 vùng kinh tế trọng điểm, trong
đó VKTTĐPN chiếm trên 43% về số lượng và gần 65% diện tích. Bình qn, mỗi khu rộng gấp
rưỡi ở Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và gấp đơi Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Kinh
tế Vùng biểu hiện rõ nhất ở các khu công nghiệp, và ngay tại những khu này cũng đã tồn tại
nhiều vấn đề bất cập. Có những khu cơng nghiệp chỉ cách nhau một con đường, nhưng lại thuộc
hai tỉnh khác nhau nên chính sách thuê đất, giá nhân công khác nhau. Điều này khiến các khu
công nghiệp cạnh tranh lẫn nhau mà không tạo điều kiện để hợp tác trong lĩnh vực thu hút vốn,
sắp xếp ngành nghề...

Nguyên nhân chính cũng chỉ vì khơng có qui hoạch tổng thể vùng và liên kết vùng phát
triển khu công nghiệp, dẫn tới không gian phát triển của các khu công nghiệp bị cắt khúc, phân
đoạn bởi ranh giới địa lí hành chính. Tồn tại thứ hai của sự phát triển các khu công nghiệp là chất
lượng dịch vụ cho sản xuất kinh doanh cịn yếu. Ví dụ, điện chập chờn, dịch vụ bưu chính viễn
thơng chậm, chi phí cao... Thêm nữa là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển của các khu công nghiệp.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, các KCN phát triển mạnh ở Vùng này và đóng
góp tích cực đối với nền kinh tế vùng. Nhưng các chuyên gia cũng tỏ ra lo ngại về sự cạnh tranh
thu hút dự án đầu tư và thiếu qui hoạch tổng thể vùng, khi thực tế ở đây còn tồn tại nhiều vấn đề
cạnh tranh, qui hoạch và định hướng phát triển. Các KCN trong Vùng cũng đang phát triển tự
phát ở mỗi tỉnh, thành, không theo qui hoạch tổng thể vùng, “không gian phát triển bị cắt khúc,
phân đoạn bởi ranh giới hành chính”, dẫn đến “hai chính sách thuê đất, giá nhân công khác
nhau... ở hai KCN láng giềng, cạnh tranh nhau mà không tạo ra điều kiện hợp tác để thu hút vốn,
sắp xếp ngành nghề và phát triển các dịch vụ hỗ trợ”.
Một quan chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói rằng, bao nhiêu tỉnh thành ở Việt Nam có
KCN thì có bấy nhiêu "thảm" được trải để thu hút đầu tư. "Thảm" trải quá nhiều dẫn đến cạnh
tranh không lành mạnh giữa các KCN. Riêng với các KCN trong VKTTĐPN thì sự cạnh tranh
khơng lành mạnh đó diễn ra rất mạnh, chủ yếu là ở giá thuê đất và thuế được quyết định bởi
chính sách vĩ mơ của từng tỉnh, thành.
Từng tỉnh, thành phố trong Vùng đều có qui hoạch tổng thể phát triển KCN, nhưng các
tỉnh thành này khơng có qui hoạch chung của vùng nên mặc sức thu hút dự án đầu tư mà không
định hướng tập trung hay ưu tiên gì. Các KCN gần như giống nhau, trong đó chủ yếu phát triển
những ngành nghề truyền thống như giày dép, dệt may..., còn những ngành có tính hiện đại hố
cao, có tính chất lơi kéo sự phát triển kinh tế của tỉnh và vùng thì khơng có, hoặc khơng đáng kể.
KCN ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu “cái gì cũng làm”; từ sắt thép đến sản xuất bột mì, đều có
thể nằm ngay cạnh nhau trong một KCN. Điều này không phù hợp và không chấp nhận được đối
với qui hoạch kinh tế vùng.
Khi khơng có qui hoạch vùng, sự phát triển của các KCN cũng bị ảnh hưởng, nhất là trình
độ phát triển hạ tầng cơ sở. Các tiện ích như đường sá, điện nước, dịch vụ internet, bưu điện...
còn kém và không đồng bộ giữa các khu. Tỉnh thành nào tập trung cải thiện được tiện ích gì thì



nhà đầu tư ở đó được hưởng, chứ chưa có sự chia sẻ để cùng hưởng giữa các tỉnh thành. Thiếu
qui hoạch vùng, quĩ đất dành cho phát triển KCN khơng hiệu quả và nhanh chóng bị cạn kiệt,
mơi trường ô nhiễm và đặc biệt là kéo theo sự phát triển của hệ dân cư, hiện tượng đang đeo bám
các KCN mà chưa có biện pháp khắc phục.
Để khắc phục những tồn tại ở các KCN, qui hoạch phải mang tính chất liên vùng và cần
phải có "nhạc trưởng" của Vùng để xây dựng cơ chế phối hợp phát triển.
Riêng TP.HCM, theo Quyết định số 123/1998/QĐ-TTg ngày 10/07/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh qui hoạch chung TP.HCM đến năm 2020 đã nêu rõ là Thành
phố sẽ phát triển chủ yếu về phía đơng bắc gắn với Thuận An (Bình Dương), Biên Hồ (Đồng
Nai); và về phía nam, đông nam tiến ra biển gắn với Nhà Bè, Bình Chánh, Hiệp Phước, Cần Giờ,
đơ thị mới Nhơn Trạch, Long Thành. Hướng phát triển phụ về phía Củ Chi, Hóc Mơn, dọc quốc
lộ 22 lên Tây Ninh.
Trung tâm thành phố được mở rộng qua Thủ Thiêm nhằm khai thác lợi thế về vị trí địa lí,
điều kiện tự nhiên, đất đai, môi trường.
Năm 2020, qui mô dân số thành phố khoảng 10 triệu người, trong đó khu vực nội thành
khống chế khoảng 6 triệu người.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng xác định các chỉ tiêu sử dụng đất, việc xây
dựng các phân khu chức năng, hệ thống các trung tâm dịch vụ, các trung tâm chuyên ngành; qui
định cả về kiến trúc và cảnh quan đô thị; qui hoạch về giao thông và cơ sở hạ tầng kĩ thuật.
Việc phê duyệt điều chỉnh qui hoạch chung TP.HCM đến năm 2020 đã khẳng định vị trí,
vai trị đặc biệt của Thành phố trong mối quan hệ với VKTTĐPN, với cả nước và quốc tế, đáp
ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH - HĐH, kết hợp tốt giữa xây dựng phát
triển với bảo đảm an ninh quốc phòng, giữa cải tạo và xây dựng mới, nhằm xây dựng TP.HCM
thành một thành phố hiện đại văn minh.
Hướng phát triển tương lai là như thế, cho nên giữ vững được tốc độ tăng trưởng cao, bền
vững của kinh tế thành phố không chỉ là sự vận động, năng lực sáng tạo tự mình, mà cịn phải đặt
trong qui luật liên kết, phối hợp, phân công của cả Vùng, mà TP.HCM là tác nhân có ý nghĩa tích
cực và phải ở thế chủ động nhất. Nghĩa là, về qui hoạch, cần liên tục phân tích, đánh giá thực

trạng kinh tế - xã hội của Vùng để tìm ra mặt được, mặt chưa được để điều chỉnh kịp thời, tạo ra
sự thống nhất giữa qui hoạch vùng với qui hoạch ngành, qui hoạch địa phương. Điều chỉnh cơ
cấu đầu tư thì phải hướng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững. Việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương phải thực sự gắn kết với quy hoạch
điều chỉnh đã được phê duyệt, có sự phối hợp chung, tránh tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm
theo địa giới hành chánh, gây lãng phí lớn nguồn vốn đầu tư, mà có khi lại triệt tiêu động lực thế
mạnh lẫn nhau.
Kết cấu hạ tầng là nền tảng cho sự phát triển về chất của kinh tế toàn Vùng, do đó cần
phải tập trung xây dựng, hình thành đồng bộ khung hạ tầng cơ sở, thống nhất về giao thơng, khắc
phục tình trạng chia cắt giữa các địa phương trong Vùng.
Tuy nhiên, sau nhiều lần qui hoạch, cho đến cuối năm 2007, nhiều chuyên gia cho rằng
sự gắn kết của các tỉnh và thành phố của Vùng vẫn còn lỏng lẻo. Các tỉnh trong Vùng đang ở
tình trạng phối hợp với nhau như một phép cộng chứ chưa phải là từ sự phối hợp này tạo ra cấp
số nhân của liên kết hiệu quả nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức về tầm quan trọng của VKTTĐPN, Chính phủ đã cho phép các bộ, ngành, địa
phương trong vùng cùng nhau nghiên cứu, đề xuất một số chính sách và cơ chế về đầu tư đáp
ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển ngành, sản phẩm mũi nhọn, làm cơ sở thúc


đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong mối quan hệ phối hợp nội tại của từng tỉnh trong Vùng và
tồn Vùng; đồng thời có thế mạnh để liên kết với vùng ĐBSCL và Tây nguyên. Cơ chế chính
sách về tài chính thì phải có tác dụng huy động nhanh và sử dụng có hiệu quản cao các nguồn
vốn trong và ngoài nước. Điều chỉnh bổ sung những qui định về đất đai có vị trí liền kề nhau, dù
khác tỉnh, để phát triển kinh tế - xã hội hài hoà lẫn nhau, tăng sức mạnh và hiệu quả toàn Vùng.
3. Thực trạng phối hợp giữa TP.HCM với các tỉnh VKTTĐPN
Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 23/02/1998 về việc phê
duyệt qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội VKTTĐPN giai đoạn từ 1998 đến năm 2010
đã nhấn mạnh các mục tiêu phát triển chủ yếu như sau:
- Xây dựng VKTTĐPN trở thành một trong những vùng kinh tế phát triển nhanh có tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao hơn so với các vùng khác trong cả nước;

- Phấn đấu nâng GDP cho thời kì 1998 đến năm 2010, đạt từ 13,5% đến 14,5% đi đầu
trong một số lĩnh vực quan trọng, tạo động lực cho quá trình phát triển Vùng Nam bộ và góp
phần thúc đẩy nền kinh tế cả nước;
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH của Vùng và tồn khu vực phía
Nam;
- Hồn thiện được bước đầu và hiện đại hoá đồng bộ dần dần hệ thống cơ sở hạ tầng;
- Giải quyết cơ bản việc làm cho những người trong độ tuổi lao động;
- Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ và cải thiện môi trướng sinh thái;
- Phát triển kinh tế phải gắn liền với tăng cường bảo đảm an ninh quốc phòng.
Thực tế trong thời gian qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của Vùng này đã đạt được nhiều
thành tựu rất quan trọng, qua báo cáo kết quả thực hiện các chủ trương phát triển VKTTĐPN của
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương trong Vùng; Thủ tướng
Chính phủ đã kết luận tại Hội nghị Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ngày 10/06/2006.
Sự phát triển của VKTTĐPN đã có tác động tích cực lên sự phát triển của Nam bộ nói
riêng và cả nước nói chung. Nhờ vào phát triển nhanh nên VKTTĐPN đóng góp cho ngân sách
quốc gia cũng tăng nhanh, tạo điều kiện hỗ trợ cho các vùng khác phát triển. Nếu như ĐBSCL là
trung tâm nơng nghiệp lớn nhất nước, thì VKTTĐPN là trung tâm công nghiệp lớn nhất nước.
Khoảng cách không xa, giao thông thuận lợi nên khối lượng kinh doanh hàng hoá rất lớn, và điều
này hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của khu vực Nam bộ.
Mối liên hệ kinh tế giữa VKTTĐPN với các vùng khác trong nước đã phát triển rất nhiều.
Vì mấu chốt của sản xuất cơng nghiệp là tìm thị trường tiêu thụ, với năng lực sản xuất ngày càng
tăng lên, các doanh nghiệp trong Vùng đã không ngừng mở rộng hoạt động ra phạm vi tồn
quốc. Do đó, chiến lược kích cầu chú trọng đến việc gia tăng thu nhập của nông thôn để thúc đẩy
sản xuất công nghiệp phát triển là hồn tồn đúng đắn. Khu vực cơng nghiệp phát triển đến lượt
nó lại hỗ trợ sự phát triển khu vực nơng nghiệp dưới các hình như đóng góp về ngân sách, cung
cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật, ...
VKTTĐPN, mà đặc biệt là TP.HCM, còn là một trung tâm cung cấp dịch vụ cho cả vùng
Nam bộ và cả nước. Các hoạt động dịch vụ quan trọng từ đây làn toả đi nhiều nơi như thương
mại, xuất nhập khẩu, tài chính - tiền tệ, vận tải, du lịch, ... đã góp phần tích cực vào sự phát triển
chung của cả nước.

Sự phát triển nhanh của VKTTĐPN cũng góp phần giải quyết lượng lớn lao động cho
khu vực và cả nước. Hiện nay tại các khu công nghiệp trên VKTTĐPN một phần lớn là lao động
từ các tỉnh khác đến. Nhưng điều này cũng đặt ra cho các đô thị trong VKTTĐPN một vấn đề


lớn cần phải giải quyết, liên quan đến các vấn đề phát sinh thuộc về xã hội, vì VKTTĐPN hiện
vẫn là trung tâm đào tạo và cung cấp nhân lực lớn nhất cho khu vực phía Nam.
Những thành tựu đạt được đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương phát triển
VKTTĐPN, là vùng kinh tế động lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triến của khu vực
miền Nam và cả nước, phù hợp với điều kiện thực tế theo định hướng cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, nhằm phát huy lợi thế của Vùng, tạo bước đột phá thúc đẩy kinh tế vùng và cả nước phát
triển.
Tuy vậy, bên cạnh các lợi thế, VKTTĐPN cũng đang gặp một số khó khăn mà nổi bật
nhất là những biểu hiện tiêu cực như tình trạng gian lận thương mại, buôn lậu qua biên giới… đã
bộc lộ sau gần 20 năm áp dụng cơ chế thị trường. Khó khăn tiếp theo là những sản phẩm công
nghiệp chủ lực trên địa bàn cho đến nay vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn “phát hiện”, trong khi đó cơ
cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn nặng tính ngun thơ. Tiếp đó, việc hợp tác, liên kết đầu tư thương
mại nội vùng và liên vùng vẫn mang tính tự phát, đơn phương theo kiểu “mạnh ai nấy làm” chưa
có được một qui hoạch, chiến lược tổng thể. Do đó, khoảng cách phát triển giữa các trung tâm
công nghiệp và sản xuất nông lâm ngư nghiệp ngày càng có xu hướng cách xa nhau.
Đến năm 2007, tức là gần 10 năm sau khi Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt qui
hoạch phát triển VKTTĐPN (1998-2010) vẫn chưa có một chương trình hành động cụ thể để
phát triển kinh tế vùng. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng chỉ đạt 70% kế hoạch.
Điều đáng lo ngại hơn nữa là trong mấy năm gần đây, khu vực dịch vụ sau thời gian tăng
trưởng nhanh đã chững lại và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng chung của tổng sản phẩm quốc
nội (GDP), làm giảm khả năng lan toả tác động tích cực của VKTTĐPN. Nếu xu thế này không
được điều chỉnh kịp thời trên cơ sở các chính sách ưu tiên đầu tư thúc đẩy phát triển thương mại,
dịch vụ, du lịch, ngân hàng… thì các yếu tố bất lợi cho phát triển kinh tế vùng sẽ nảy sinh, làm
giảm tốc độ tăng trưởng công nghiệp và kinh tế vùng.
Cơ chế quản lí hành chính hiện thời cịn nhiều hạn chế, nên các địa phương cũng khơng

nhiệt tình trong việc thúc đẩy hợp tác. Đồng thời, cũng cần thừa nhận là trong nền kinh tế kế
hoạch hố tập trung trước đây thì việc hợp tác giữa các địa phương dễ dàng thực hiện hơn vì quá
trình sản xuất được thực hiện theo mệnh lệnh của Nhà nước, nhưng trong điều kiện kinh tế thị
trường thì việc hợp tác này gặp rất nhiều khó khăn, với nhiều thành phần kinh tế tham gia, và
chủ yếu dựa trên cơ sở lợi ích đơi bên. Do đó, nếu muốn thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế
giữa các địa phương thì cần thiết phải có chính sách khuyến khích nhất định ở tầm vĩ mơ.
Thực tế nhìn lại sự phát triển kinh tế - xã hội của Vùng thời gian qua, những dấu hiệu tích
cực đã được phát huy và khẳng định; tuy nhiên so và yêu cầu phát triển theo qui hoạch và so với
tiềm lực to lớn của Vùng thì thực trạng phát triển kinh tế - xã hội như vừa qua là hãy còn khá
thấp.
Tồn tại chủ yếu hiện nay trong quan hệ kinh tế giữa VKTTĐPN với các địa phương khác
là chưa tìm ra được phương thức hợp tác hữu hiệu để khai thác tốt nhất lợi thế của mỗi địa
phương.
Bên cạnh đó, việc thiếu một cơ chế điều phối chính sách Vùng, một đầu mối pháp lí phối
hợp giữa các địa phương cũng là trở ngại lớn cho đầu tàu kinh tế cả nước.
Cơ chế điều phối chung cho tồn Vùng là rất cần thiết, ví như hoa tiêu của VKTTĐPN.
Cơ chế này, theo đề xuất của Viện Kinh tế TP.HCM, là các dự án đầu tư có liên quan đến sự phát
triển chung của cả vùng như giao thơng, cảng, khu cơng nghiệp tập trung… cần có sự phối hợp
giữa các chính quyền địa phương để xây dựng dự án trước khi phê duyệt.


Một ví dụ điển hình là hoạt động sản xuất công nghiệp của VKTTĐPN chưa thật sự gắn
kết được và có hiệu quả với vùng nguyên liệu của các trung tâm nông nghiệp khác như ĐBSCL,
các tỉnh Đông Nam Bộ khác, Tây Nguyên để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở các khu vực này phát
triển, nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản Việt Nam, và tạo một nguồn ngun liệu ổn định
cho sản xuất cơng nghiệp.
Ngồi ra, trong phát triển công nghiệp của VKTTĐPN với các địa phương trong cả nước
cũng chưa có sự hợp tác, trao đổi để tránh những đầu tư trùng lắp, kém hiệu quả, hợp tác để tăng
sức cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam,... Mối quan hệ trong khai thác các nguồn nguyên liệu
phục vụ sản xuất các ngành công nghiệp chế biến còn hạn chế. Nhiều vùng, tỉnh xuất khẩu

nguyên liệu hàng nông sản thô như tiêu, điều, cà phê, hải sản…, trong lúc thừa năng lực chế biến
ở một số vùng, tỉnh thành khác.
Đã có tình trạng chưa phát huy hết tiềm năng của Vùng, công nghệ thiết bị trong cơng
nghiệp cịn lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa cao, năng suất lao động còn thấp.
Sản phẩm lợi thế của Vùng, của từng địa phương chưa rõ, sản phẩm công nghiệp giữa các
địa phương cịn trùng lắp.
Cơng nghệ cao, cơng nghệ sạch chưa được hình thành, kể cả ở TP.HCM. Hoạt động
thương mại dịch vụ chưa phát huy được ưu thế của Vùng. Dịch vụ cao cấp như tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ chưa phát triển.
Đầu tư còn dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lí, chưa tập trung mạnh vào ngành và sản
phẩm mũi nhọn có lơi thế cạnh tranh.
Nguồn nhân lực hiện tại vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển do thiếu lao động có
trình độ cao, trong khi lao động thất nghiệp còn rất lớn. Giáo dục và đào tạo trong Vùng vẫn là
lĩnh vực cịn bất cập. Cơng tác đào tạo nghề nhất là đào tạo công nhân kĩ thuật có tay nghề cao
phục vụ cho khu cơng nghiệp, khu chế xuất cịn bất cập.
Tổng quan, có thể nhận thấy rằng ngay cả quĩ đất của Vùng cũng ngày càng bị thu hẹp do
phát triển đô thị và công nghiệp nhanh, giá cả nông sản không ổn định, chưa tạo được giá trị gia
tăng thông qua chế biến, nhất là chế biến tinh. Vì thế cần thiết có kế hoạch, qui hoạch phát triển
nông nghiệp Vùng trên cơ sở tính tốn các chỉ tiêu kinh tế - kĩ thuật và lợi thế so sánh gắn chặt
với thị trường tiêu thụ.
Về phát triển đô thị, TP.HCM là một trung tâm nhiều chức năng, tập trung chủ yếu là
thương mại, tài chính ngân hàng, thơng tin, giao dịch quốc tế, cơng nghiệp, khoa học công nghệ,
giáo dục đào tạo, y tế, văn hố du lịch, thể thao, giải trí....; thành phố Biên Hồ cùng tỉnh Đồng
Nai đã có các khu cơng nghiệp tập trung vào loại lớn nhất nước; thành phố Vũng Tàu của Bà Rịa
- Vũng Tàu đã là trung tâm dịch vụ dầu khí, cụm cảng nước sâu và du lịch; và thị xã Thủ Dầu
Một của tỉnh Bình Dương cũng sẽ có nhiều KCN.
Tình trạng đơ thị hố tự phát vẫn diễn ra hàng ngày, di dân tự do ngày càng lớn, từ đó tạo
nên sức ép về kết cấu hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội do vượt quá khả năng thực tế, gây ra
nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Hạ tầng kĩ thuật đơ thị chưa được phát triển đồng bộ, cịn nhiều bất
cập so với nhu cầu phát triển bình thường của các đô thị, kể cả TP.HCM và các đô thị khác.

Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các địa phương chưa thực sự gắn
với qui hoạch đã được phê duyệt, chưa có sự điều hoà, phối hợp chung, hiệu quả thấp.
Tại hội thảo “Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế vùng trọng điểm phía Nam”
từ năm 2003, ơng Nguyễn Văn Chinh, Phó giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, đã nhấn mạnh rằng “Đề nghị Trung ương khẩn trương thành lập một Ban chỉ đạo vùng. Các
cơ chế, qui hoạch đều phải được Ban chỉ đạo thông qua mới triển khai”.


Với dự báo tốc độ tăng trưởng của VKTTĐPN thời kỳ 2001-2010 là 12% (cả nước là
7,2%) và GDP của Vùng sẽ chiếm 50,4% GDP cả nước vào năm 2010, thì cần xây dựng một cơ
chế quản lý, thiết lập một cơ quan nghiên cứu tổng hợp chung cả Vùng để đạt được một thoả
thuận thống nhất. Cơ chế này phải có hình thức hợp lí như một đầu mối phối hợp các nỗ lực phát
triển ở các địa phương cũng như điều tiết và tư vấn cho các cấp trong quá trình triển khai, điều
chỉnh qui hoạch; và việc tổ chức giao ban định kì trong năm giữa các địa phương này là điều cần
thiết.
Đại diện tỉnh Đồng Nai cũng có nhận định tương tự, khi cho rằng mỗi tỉnh đều đang phát
triển theo kiểu tự phát, mạnh ai nấy làm chứ khơng có cơ chế chung cho tồn Vùng. Nếu có một
Ban chỉ đạo và cơ chế quản lí chung, sẽ tránh lãng phí trong vấn đề đầu tư trùng lắp như hiện
nay.
Tại Hội nghị của Chính phủ được tổ chức vào năm 2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thừa
nhận rằng tuy VKTTĐPN có phát triển hơn so với những vùng khác trong cả nước, nhưng những
lợi thế so sánh, nguồn lực phát triển, tiềm năng thế mạnh của Vùng chưa được phát huy triệt để,
khai thác đúng mức.
Những tồn tại một số mặt yếu kém cần khắc phục để tăng tốc vẫn được nhắc lại. Đó là:
Một, cơ cấu kinh tế chưa tạo ra tiền đề cho tăng tốc và cạnh tranh quốc tế. Tỉ trọng của
ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP chưa hợp lí, làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế. Các ngành dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng
cơ cấu chưa hợp lí và khơng đồng bộ với kết cấu hạ tầng. Các ngành cơng nghiệp có cơng nghệ
cao chưa được phát triển thích đáng, cơng nghệ cơ khí chế tạo chưa phát triển để góp phần trang
bị cho nền kinh tế của Vùng. Cơng nghiệp chế tác đang có xu hướng chững lại. Sản phẩm làm ra

có chất lượng và khả năng cạnh tranh thấp. Hầu hết các ngành chủ lực chưa phát huy hết công
suất, như sắt thép chỉ khoảng 60%- 70%, gia công dệt may, da giày chỉ 50%- 60% cơng suất…
Hai, trình độ và cơ cấu cơng nghệ chưa đáp ứng yêu cầu, việc đổi mới và ứng dụng cơng
nghệ cao cịn chậm. Hầu hết doanh nghiệp tuy có chú ý áp dụng cơng nghệ tiên tiến, nhưng chủ
yếu là cơng nghệ gia cơng, lắp ráp và cịn chưa mạnh dạn đầu tư vào các ngành công nghệ cao
Ba, qui hoạch và quản lí đơ thị cịn nhiều bất cập, mơi trường cịn nhiều ơ nhiễm.
Bốn, cơ lao động chuyển dịch chậm, chất lượng lao động thấp (chỉ có 33% số lao động
đang làm việc là được đào tạo nghề). Nhiều KCN vẫn bị thiếu lao động.
Năm, nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra và phải được giải quyết cấp bách, như tình trạng
thiếu việc làm ở nông thôn, vấn đề ma túy, mại dâm, tai nạn giao thơng... diễn biến phức tạp và
có chiều hướng gia tăng.
Nghĩa là sau gần 10 năm hình thành, tình trạng “cắt khúc” và phát triển theo kiểu “tự
phát, mạnh ai nấy làm” vẫn chưa có dấu hiệu gì thay đổi, trừ việc đã nhìn thấy vấn đề.
Làm thế nào để phát triển kinh tế vùng và phát triển theo hướng nào là vấn đề đáng quan
tâm của các nhà hoạch lược chính sách vùng. Từ lí do này mà đại diện chính quyền của các tỉnh
thành thuộc VKTTĐPN đã cùng nhau họp tại TP.HCM, cùng với các chuyên gia kinh tế trong cả
nước. Các chủ tịch và phó chủ tịch tỉnh thành đã thừa nhận với nhau rằng, Vùng chưa phát triển
theo như mong muốn cũng như theo yêu cầu của Chính phủ, chính là do họ chưa có sự phối hợp
chặt chẽ với nhau, thay vào đó các tỉnh thành “mạnh ai nấy làm”.
4. Kết luận
Sau khi qui hoạch chủ trương xây dựng VKTTĐPN thành một vùng kinh tế động lực của
cả nước thì việc chỉ đạo thực hiện lại không đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của Vùng, chưa


tập trung giải quyết các điều kiện đủ để đáp ứng những điều kiện cần cho nền kinh tế Vùng cất
cánh.
Những điều kiện đủ là một hệ thống chính sách phù hợp qui luật khách quan và một
quyết tâm cao của Chính phủ để đưa nền kinh tế hướng về phía trước. Từ chủ trương đúng đắn,
khi tổ chức thực hiện thì các ngành, các cấp có biểu hiện “cắt khúc”, “khép kín”. Tình trạng này
nếu vẫn tiếp tục kéo dài thì mục tiêu biến VKTTĐPN thành động lực phát triển của cả nước khó

trở thành hiện thực.
Cơ chế chính sách bất cập, thiếu đồng bộ, đã gây nên một lực cản lớn tới sự phát triển của
Vùng. Cơ chế quản lí, điều hành, chính sách thu hút vốn đầu tư trong và ngồi nước, chính sách
khuyến khích xuất khẩu, chính sách kích cầu nền kinh tế chưa phù hợp và linh hoạt. Cơ chế phân
cấp trung ương địa phương, cơ chế Bộ chủ quản không được đổi mới càng tạo ra quá nhiều tầng
nấc, quá nhiều thủ tục ràng buộc khó thích ứng kịp thời với thị trường, làm cho sự phối hợp
không chặt chẽ và kém hiệu quả. Chính sách tài chính bình qn khơng đủ sức phát huy tiềm lực
kinh tế, không đủ sức khai thác vốn trong dân và thu hút vốn nước ngồi.
Cơng tác qui hoạch dã có nhiều cố gắng nhưng khi triển khai thực hiện qui hoạch thì
chưa đáp ứng yêu cầu. Khái niệm “Vùng kinh tế trọng điểm” phần nhiều vẫn còn trên giấy tờ,
các mục tiêu và kế hoạch thống nhất của Vùng chưa được điều hòa phối hợp, vai trò động lực
của Vùng chưa được phát huy. Các chủ trương chưa được quán triệt nhất quán ở các địa phương,
cả trong các Đảng bộ và trong nhân dân, sự chỉ đạo điều hành của các địa phương chưa theo kịp
yêu cầu của tình hình.
Nguồn vốn đầu tư xã hội đã thiếu so với yêu cầu của qui hoạch, nhưng cơ cấu vốn lại
phân bổ khơng hợp lí, khơng tập trung để tạo sự đột phá, tạo tiềm lực cho tăng trưởng và phát
triển bền vững. Qui luật phát triển không đều của nền kinh tế cả nước, nguyên tắc đầu tư vốn
theo hiệu quả đã không được coi trọng khi phân bổ ngân sách, sử dụng các nguồn vốn... mà với
nhận thức phải chia đều mỗi nơi một ít, làm cho hiệu quả đầu tư không được phát huy tốt và
chưa tạo được tiền đề cho kế hoạch tăng trưởng của các giai đoạn tiếp theo.
Đó là những nguyên nhân chủ quan do bất cập trong điều hành và thiếu một cơ chế chính
sách để bật dậy tiềm năng của Vùng nhằm làm tăng trưởng nhanh và mạnh hơn.
Chủ trương phát triển VKTTĐPN đã được Đảng ta chính thức nêu lên trong “Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” và sau đó đã được cụ thể hố trong các văn kiện của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Thực tiễn cũng cho thấy, VKTTĐPN là vùng phát triển năng động
nhất cả nước trong 10 năm qua, góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực của kinh tế - xã hội cả
nước, tạo nên cục diện cho đất nước phát triển. Như vậy, chủ trương tập trung phát triển
VKTTĐPN là đúng đắn.
Vấn đề bức xúc hiện nay là hồn chỉnh chủ trương đó bằng các chính sách và cơ chế điều
hành để thực hiện qui hoạch phát triển giai đoạn 2006 - 2010, tạo điều kiện để CNH - HĐH

Vùng và làm động lực phát triển cho cả nước.
Có thể nói rằng, ngồi các ngun nhân khách quan như ảnh hưởng và tác động do biến
động kinh tế khu vực và quốc tế, những nguyên nhân chủ quan chủ yếu làm chậm tốc độ tăng
trưởng của VKTTĐPN cũng cịn lớn, đó là:
- Về phía Nhà nước, mặc dù có Quyết định về vùng kinh tế trọng điểm, có qui hoạch phát
triển chung cả Vùng nhưng lại chưa có cơ chế chính sách cụ thể để khuyến khích, tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi các nhà đầu tư, các doanh nghiệp hoạt động.
- Về phía các địa phương trong Vùng, chưa chủ động cao trong việc triển khai nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội theo các qui hoạch đã được phê duyệt, chưa cụ thể hoá các mục tiêu


được giao để có biện pháp phấn đấu, bên cạnh đó, cũng chưa có sự phối hợp đồng bộ với nhau
nhằm tăng thêm năng lực giữa các địa phương trong Vùng và với các địa phương khác trong cả
nước.
Phải nhắc lại một sự thật từ thực tế, là ngay khi Thủ tướng Chính phủ quyết định cho
thành lập VKTTĐPN thì hầu hết các tỉnh trong vùng qui hoạch này đều đã được duyệt qui hoạch
chi tiết, do vậy điều cần thiết là phải có qui hoạch chung cho tồn Vùng, để từng tỉnh sẽ điều
chỉnh lại qui hoạch chi tiết riêng của mình đã có, để phát huy hết tiềm năng khu vực, khơng vì lợi
ích cục bộ mà khơng liên kết nhau, để rồi cạnh tranh lẫn nhau làm thiệt hại cho sự phát triển
chung.
“Kinh tế vùng” khái niệm được đề cập đã hơn 10 năm nay nhưng vẫn chưa hình thành.
Ngun nhân chính là chưa có một cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các vùng. Theo lãnh đạo các
tỉnh thành phố, cần tăng cường phối hợp với nhau và sớm có qui hoạch vùng dựa trên đặc tính
của từng vùng. Mỗi tỉnh thành phố có những lợi thế về xã hội, địa lí kinh tế... và qui hoạch vùng
cần phải dựa trên những lợi thế so sách này. TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu có lợi thế so sánh rõ
nét hơn các tỉnh thành khác. Các tỉnh thành lân cận có lợi thế so sánh ở đất đai và lao động, có
thể bổ sung cho "yếu điểm" của TP.HCM.
Vùng kinh tế trọng điểm là mơ hình phát triển mới, khi mà Chính phủ khơng đủ sức để
cùng lúc phát triển các khu vực trong cả nước, cũng như không thể tập trung phát triển cho một
tỉnh thành phố nào. Sự phát triển của một vùng hay một khu vực sẽ làm đòn bẩy cho những khu

vực lân cận, nơi mà nguồn lực quốc gia chưa thể tập trung đầu tư.
Có thể kết luận rằng nguyên nhân khiến vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được
tiềm năng, là do thiếu một sự chỉ huy thống nhất và đồng bộ. Nhưng vấn đề để chỉ huy thống
nhất và đồng bộ thì “nhạc trưởng” điều khiển chung là ai ? Và một thực tế đã diễn ra là “mạnh ai
nấy làm” theo kiểu tự phát, các qui hoạch của tỉnh gần giống như nhau; thậm chí ngay các cấp bộ
ngành trung ương cũng “thiếu trách nhiệm” khi xem xét hoặc cấp phép cho những dự án cụ thể
của các tỉnh, dẫn đến trùng lắp đan xen nhau, và cuối cùng là cạnh tranh lẫn nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Kinh tế Trung ương - Vụ Kinh tế phía Nam, 2000, Tình hình phát triển kinh tế - xã
hội Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - Định hướng, giải pháp và kiến nghị, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/08/2005 về phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đông Nam bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000, Báo cáo tổng hợp Tổng kết việc thực hiện các chủ trương
phát triển vùng của Việt Nam thời kỳ 1991 – 2000, Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000 Đề án xác định cơ chế phối hợp giữa các bộ địa phương
trong vùng kinh tế, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm, Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 6/2003, Báo cáo một số nét chủ yếu về tình hình kinh tế xã hội và các giải pháp thúc đẩy phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
6. Chính phủ, tháng 7 năm 2000, Dự thảo qui chế phối hợp giữa các địa phương trong vùng
kinh tế, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm, Hà Nội.
7. Chính phủ, tháng 9/2001, Dự thảo qui chế phối hợp giữa các Bộ ngành và các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương trong các vùng kinh tế trọng điểm, Hà Nội.


8. Nguyễn Thị Dung, 1998, Mở rộng quan hệ thương mại giữa TP.HCM và các tỉnh Đông
Nam bộ, TP.HCM.
9. Bùi Lê Hà, Phát triển quan hệ hợp tác kinh tế giữa TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía
Nam, đề tài cấp thành phố, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, nghiệm thu năm 2000.
10. Trần Du Lịch, 1996, Các chính sách và cơ chế vận hành cho mục tiêu phát triển Vùng

kinh tế phía Nam, Viện Kinh tế TP.HCM.
11. Trần Sinh, 2007, Những vấn đề chung về phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
Trung tâm Kinh tế miền Nam.
12. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM, 2008, Báo cáo tình hình thực hiện chương trình hợp
tác kinh tế - xã hội giữa thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đến tháng 12/2007.
13. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai, 2005, Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác với
thành phố Hồ Chí Minh.
14. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương, 2006, Báo cáo kết quả thực hiện liên kết, hợp
tác với thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị.
15. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 146/2004/QĐ-TTg ngày 13/08/2004 về phương
hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
16. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg ngày 10/10/2007 ban hành qui
chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm.
17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 519-TTg ngày 08/06/1996 về qui hoạch tổng thể
phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm
2010.
18. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 532/TTg ngày 12/07/1997 về phê duyệt qui hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010
19. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 855/TTg ngày 10/11/1997 về phê duyệt định hướng
qui hoạch chung đô thị Nam tỉnh Bình Dương
20. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 231/TTg ngày 12/01/1998 về phê duyệt qui hoạch
tổng thể phát triển trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia đến năm 2010.
21. Ủy Ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5/2001, Điều chỉnh qui hoạch kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010.
22. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2006, Báo cáo kết quả phối hợp công tác giữa
Sở Công nghiệp TP.HCM và Sở Công nghiệp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.




×