Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ĐỊNH DẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SAU TÁI CƠ CẤU: THÔNG LỆ QUỐC TẾ VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.77 KB, 23 trang )

ĐỊNH DẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SAU TÁI
CƠ CẤU: THÔNG LỆ QUỐC TẾ VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn và Nhóm nghiên cứu
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội1

Mở đầu
Vào đầu năm 2012 hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM)
Việt Nam đã bắt đầu quá trình tái cơ cấu theo Đề án được ban hành
(Quyết định số 254/QÐ-TTG, ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính
phủ: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015").
Đề án 254 đã đưa ra các mục tiêu chung đến năm 2020 và các mục tiêu
cụ thể đến năm 2015, xác định rõ các quan điểm, định hướng, giải pháp
và lộ trình thực hiện tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCCD) Việt Nam
trong giai đoạn 2011-2015. Riêng đối với các NHTM, đề án chia các
ngân hàng thành 02 nhóm đối tượng: Ngân hàng thương mại Nhà nước
(NHTMNN) và NHTM cổ phần, trong đó NHTM cổ phần lại được chia
thành 03 nhóm: Nhóm ngân hàng lành mạnh, nhóm ngân hàng thiếu
thanh khoản tạm thời và nhóm ngân hàng yếu kém. Trên cơ sở đó, Đề
án cũng đã đưa ra các định hướng và giải pháp tái cơ cấu khác nhau đối
với từng nhóm ngân hàng83.
Sau gần 3 năm thực hiện, các lộ trình của quá trình tái cơ cấu ngân
hàng (NH) được đặt ra rất rõ ràng. Đây là thời điểm cần thiết để các nhà
hoạch định chính sách, lãnh đạo ngân hàng và nhà nghiên cứu đánh giá,
tổng kết lại những kết quả đạt được ban đầu, đồng thời chỉ rõ những
hạn chế còn chưa giải quyết được, dưới góc nhìn khách quan. Để đánh
giá kết quả tái cơ cấu NH, cũng có khá nhiều nghiên cứu và báo cáo đề
83Xem

cụ thể: Đề án: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015”. http://
www.NHNN.gov.vn, trong bài viết này gọi là Đề án 254.


409


cập, trong đó, một trong những ẩn số của quá trình tái cơ cấu ngân hàng,
được một số nghiên cứu trước đây (Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh
Tú, 2012, Nguyễn Đức Thành, 2012) đã chỉ ra là định dạng hệ thống
NH sau tái cơ cấu như thế nào chưa được đề cập một cách toàn diện và
thấu đáo? Các NHTM Việt Nam sẽ hoạt động theo mô hình đa năng hay
chuyên doanh? Mô hình ngân hàng đầu tư có phù hợp không? Cấu trúc
về sở hữu của các nhóm NH sẽ như thế nào?
Bài viết sẽ tập trung trả lời các câu hỏi trên theo cấu trúc sau: Sau
phần mở đầu, phần II sẽ nghiên cứu thông lệ quốc tế về định dạng hệ
thống NH, phần III sẽ phân tích, đánh giá cấu trúc hệ thống NHTM Việt
Nam hiện nay, trên cơ sở đó, phần IV sẽ đề xuất và đưa ra một số gợi ý
để định dạng hệ thống NHTM Việt Nam sau tái cơ cấu.
I. Định dạng hệ thống ngân hàng - Thông lệ
quốc tế
1.1. Mô hình ngân hàng đa năng và chuyên doanh
Với mô hình ngân hàng đa năng, các ngân hàng vừa hoạt động
như một NHTM, với nghiệp vụ cho vay thương mại, đồng thời hoạt
động như một ngân hàng đầu tư với việc bảo lãnh phát hành chứng
khoán và tham gia vào thị trường cổ phiếu sơ cấp và thứ cấp. Ngoài ra,
ngân hàng đa năng còn tham gia vào các dịch vụ tài chính khác như dịch
vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn đầu tư, kinh doanh bất động sản… Một đặc
điểm của mô hình này là quan hệ mật thiết và lâu dài giữa các ngân hàng
và các công ty do các ngân hàng không chỉ là người vay vốn và giám
sát các khoản vay mà đồng thời là cổ đông của các công ty thông qua
việc mua cổ phiếu, hay tham gia vào các hoạt động khác. Mô hình ngân
hàng đa năng có ưu thế là thông tin và tính kinh tế theo quy mô, nhưng
có nhược điểm là khi kết hợp các hoạt động kinh doanh này có thể gây

ra những xung đột về lợi ích và nếu những xung đột này không thể dung
hòa có thể đe dọa tới sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Ngược lại, mô hình ngân hàng chuyên doanh là mô hình ngân
hàng thể hiện đặc trưng khác biệt về mặt pháp lý giữa hai ngành ngân
410


hàng và ngành chứng khoán, tiêu biểu là mô hình ở Mỹ sau năm 1929,
Canada, Hàn Quốc và Nhật Bản. Theo mô hình này, hoạt động kinh
doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong
lĩnh vực chứng khoán đảm nhận. Các ngân hàng không được tham gia
vào việc kinh doanh chứng khoán, hay nói cách khác, công ty chứng
khoán là công ty chuyên doanh độc lập, không có nghiệp vụ ngân hàng.
Ưu điểm của mô hình này là sự tách biệt giữa hoạt động kinh doanh
tiền tệ và hoạt động kinh doanh chứng khoán, qua đó hạn chế được rủi
ro cho hệ thống ngân hàng. Nhược điểm của mô hình kinh doanh này là
không tận dụng được những dịch vụ tiện ích mà hệ thống ngân hàng có
thể cung cấp cho công ty chứng khoán.
1.2. Mô hình cho hoạt động ngân hàng đầu tư
Về cơ bản, ngân hàng đầu tư có thể tồn tại ở dạng độc lập hoặc kết
hợp với hoạt động NHTM, công ty bảo hiểm hình thành nên các tập
đoàn tài chính tổng hợp. Ở Mỹ, xu hướng hình thành các tập đoàn tài
chính tổng hợp xuất phát từ sự ra đời của Đạo luật Gramm-Bliley 2000
thay thế Đạo luật Glass-Steagall 1933. Mỗi mô hình có những ưu nhược
điểm nhất định và phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử.
Khi cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ lên tới đỉnh điểm của sự tàn
phá vào tháng 9/2008 với sự sụp đổ của Lehman Brothers và hàng loạt
các định chế tài chính khác, các ngân hàng đầu tư độc lập còn sót lại
bao gồm Goldman Sachs và Morgan Stanley đã phải chuyển sang mô
hình ngân hàng tổng hợp với việc phát triển mảng ngân hàng thương

mại. Mô hình mới cho phép ngân hàng đầu tư tận dụng được nguồn vốn
ổn định của ngân hàng thương mại để đối phó với khủng hoảng, đồng
thời nhận được sự hỗ trợ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trong trường
hợp khó khăn. Hiện tại, còn rất ít ngân hàng ở Mỹ đi theo mô hình ngân
hàng đầu tư độc lập. Tuy nhiên, có thực sự mô hình này không còn phù
hợp nữa hay không và liệu các ngân hàng đầu tư sẽ đi theo mô hình nào
trong tương lai vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp.
411


Ngày nay, với xu thếtự do hóa tài chính tại nhiều quốc gia, mô hình
ngân hàng đầu tư đã phát triển phức tạp và đa dạng. Ngân hàng đầu tư
có thể tồn tại dạng độc lập hoặc chỉ là một mảng kinh doanh của một
ngân hàng tổng hợp. Xét về các ngân hàng đầu tư độc lập, trên thế giới
tồn tại 2 mô hình ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư toàn diện và ngân
hàng đầu tư chuyên sâu.
Ngân hàng đầu tư toàn diện: Cung cấp các dịch vụ đa dạng bao
gồm bảo lãnh phát hành chứng khoán, đầu tư chứng khoán, cung cấp
các khoản tín dụng, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, môi giới chứng
khoán, quản lý đầu tư và nghiên cứu. Có thể lấy ví dụ về mô hình ngân
hàng đầu tư toàn diện thuộc nhóm các ngân hàng lớn như: Goldman
Sachs, Merrill Lynch và Morgan Stanley. Cả 3 ngân hàng này có doanh
thu ròng trong năm 2006 khoảng 33-38 tỷ USD.
Goldman Sachs tập trung phục vụ các khách hàng tổ chức, những
người giàu có và chính phủ hơn là các dịch vụ bán lẻ cho khách hàng cá
nhân thông thường. Trong khi đó, Merrill Lyuch và Morgan Stanley lại
có thiên hướng chung cấp các dịch vụ bán lẻ. Cuối năm 2006, Merrill
Lyunch mua 49% sở hữu của Tập đoàn Black Rock là tập đoàn quản lý
đầu tư lớn nhất thế giới với số tài sản quản lý lên tới 1.100 tỷ USD.
Bảng 1. Các lĩnh vực kinh doanh chính của 3 ngân hàng đầu tư toàn diện

Goldman Sachs

Merrill Lynch

Morgan Stanley

Ngân hàng đầu tư

Ngân hàng đầu tư

Ngân hàng đầu tư

Chứng khoán vốn

Chứng khoán vốn

Sản phẩm có thu nhập cố định Thị trường toàn cầu

Sản phẩm có thu nhập cố định

Ngân hàng bán buôn

Ngân hàng bán buôn

Quản lý tài sản

Quản lý tài sản

Quản lý tài sản


Dịch vụ chứng khoán

Dịch vụ nhà môi giới chính

Dịch vụ nhà môi giới chính

Nguồn: www.goldmansachs.com, www.merrilllynch.com, www.morganstanley.com

Ngân hàng đầu tư chuyên sâu: Chỉ cung cấp một số mảng dịch vụ
lựa chọn nhất định hoặc tập trung khai thác một mảng thị trường nhất

412


định. Một số ngân hàng chuyên về tư vấn mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp, một số tập trung phục vụ các khách hàng định chế tài chính, một
số tập trung vào đầu tư mạo hiểm dựa công nghệ cao như ở thung lũng
Silicon. Ví dụ về các ngân hàng đầu tư chuyên sâu bao gồm Sandler
O’Neill là ngân hàng đầu tư của Mỹ thành lập năm 1988 chuyên phục
vụ các khách hàng là các định chế tài chính. Lazard LLC là ngân hàng
đầu tư của Mỹ thành lập năm 1848, chuyên về quản lý tài sản và tư vấn
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Các ngân hàng đầu tư chuyên sâu không cung cấp đầy đủ các loại
dịch vụ của ngân hàng đầu tư và thường không bị rơi vào tình huống
xung đột lợi ích như các ngân hàng đầu tư toàn diện. Dưới đây là 3 ví
dụ về mô hình ngân hàng đầu tư chuyên sâu.
Bảng 2. Chuyên môn hóa của 3 ngân hàng đầu tư chuyên sâu tiêu biểu
Sandler O’Neil
Chuyên cung cấp các dịch vụ cho
khách hàng là các định chế tài

chính và các công ty bảo hiểm

Greenhill
Chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp,
tái cơ cấu tài chính và tham gia đầu
tư ngân hàng bán buôn.

Lazard
Chuyên cung cấp dịch vụ tư
vấn về mua bán, sáp nhập và
quản lý tài sản

Nguồn: www.sandler.com, www.greenhill.com, www.larzard.com

1.3. Đánh giá cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay
1.3.1 Vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong hệ thống tài
chính
Cũng giống như các quốc gia khác trong khu vực như Singapore,
Malaysia, Việt Nam là một quốc gia mà hoạt động ngân hàng vẫn đang
là hoạt động chủ chốt trong việc cung ứng và phân bổ vốn cho nền kinh
tế. Trong khi tỷ lệ về mức cung ứng tín dụng ngân hàng cho khu vực tư
nhân so với GDP của thế giới của các nước Đông Á Thái Bình Dương,
cũng như của các nhóm nước có thu nhập thấp và trung bình đều ở mức
trên dưới 40%, tỷ lệ này ở các nước Đông Nam Á đều trên 100%. Điều
này chứng tỏ vai trò rất lớn của khu vực ngân hàng đối với nền kinh tế
các quốc gia này, trong đó có Việt Nam.
413



Hình 1: Tín dụng ngân hàng đối với khu vực tư nhân/GDP

Nguồn: Worldbank Data, 2014.

Ở những quốc gia kể trên, lượng tiền gửi ngân hàng của dân cư và
các tổ chức kinh tế cũng chiếm một tỷ lệ cao so với GDP: Việt Nam là
117%, Singapore là 131.4% và Malaysia là 114%, trong khi tỷ lệ trung
bình của thế giới chỉ là 44.9%. Các nhà đầu tư nói chung hay những
người có nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế Việt Nam vẫn đang coi
ngân hàng là kênh đầu tư an toàn và chủ yếu.
Hình 2 cho thấy giá trị tài sản của các tổ chức phi ngân hàng của
Việt Nam chưa được World Bank (2014) thống kê. Hoạt động của các tổ
chức phi ngân hàng là yếu tố làm tăng tính đa dạng cho hoạt động của
hệ thống tài chính, sự phân bổ và cung ứng nguồn lực trong nền kinh
tế được đa dạng hóa và có nhiều sự lựa chọn hơn. Tỷ trọng tài sản của
các tổ chức phi ngân hàng (thể hiện hoạt động và vai trò của của chúng
trong hệ thống tài chính) rất khác nhau giữa các quốc gia và các nhóm
nước, trong khi tỷ lệ của thế giới chỉ là 4.9% thì tỷ lệ này của các nước
Đông Á Thái Bình Dương là 17.9%; Singapore chỉ là 2.7% và Malaysia
lại là 74.7%. Sự khác nhau trong phát triển và quy mô của các tổ chức
phi ngân hàng phụ thuộc lớn vào đặc tính dân cư cũng như các thói quen
đầu tư của người dân từng quốc gia.

414


Hình 2. Một số chỉ số tài chính cơ bản của các quốc gia Đông Nam Á và trên thế giới

Nguồn: Worldbank Data, 2014.


Một chỉ số cũng giúp thể hiện sự phát triển đa dạng của các kênh
huy động và phân phối vốn trong hệ thống tài chính của các quốc gia là
giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động 14 năm
nhưng vẫn chưa khẳng định được vai trò của mình trong hệ thống tài
chính. Điều này đã được thể hiện thông qua giá trị vốn hóa của thị
trường chứng khoán Việt Nam chỉ đạt mức 15.4% so với GDP, trong khi
mức trung bình của thế giới là 31.5%, của nhóm nước thu nhập thấp và
trung bình là 23.8%, của các nước Đông Á Thái Bình Dương là 58.7%.
Riêng đối với Singapore, một quốc gia hàng đầu trong khu vực Đông
Nam Á về hoạt động đầu tư chứng khoán, Sàn Giao dịch chứng khoán
Singapore là sàn giao dịch được coi là ngưỡng chuẩn cho các đánh giá
phân tích và niêm yết giao dịch của các quốc gia trong khu vực. Chỉ số
vốn hóa của thị trường chứng khoán Singapore đạt mức 145.2% so với
GDP, trong khi Thái Lan có mức 81.7%.

415


Hình 3. Giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán/GDP ở một số quốc gia
Đông Nam Á và trên thế giới

Nguồn: WorldBank data, 2014
Những phân tích ở trên cho thấy, ở nhiều quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á, hệ thống tài chính đã có sự phát triển vượt bậc với sự đa
dạng hóa trong các kênh đầu tư và phân phối. Chẳng hạn, Singapore
có sự phát triển mạnh về thị trường chứng khoán bên cạnh hoạt động
ngân hàng; Malaysia có sự phát triển mạnh về hoạt động phi ngân hàng
song song với hoạt động ngân hàng và hoạt động của thị trường chứng
khoán. Trong khi đó, cấu trúc hệ thống tài chính của Việt Nam chưa đa

dạng, hoạt động ngân hàng vẫn là hoạt động chủ đạo và các hoạt động
tài chính phi ngân hàng khác chưa phát triển. Điều này dẫn đến những
rủi ro và hạn chế đối với các hoạt động đầu tư và phân bổ nguồn lực
trong nền kinh tế.
Quy mô vốn cung ứng cho nền kinh tế của các tổ chức tài chính
Việt Nam (06/2014) đạt 4.57 triệu tỷ đồng (xấp xỉ 152% GDP), trong
đó hệ thống ngân hàng chiếm 80.5%, thị trường chứng khoán 18.5%,
thị trường bảo hiểm 0.5%, bảo hiểm xã hội 1% (Xem bảng 3); Tổng
dư nợ tín dụng khoảng 3.5 triệu tỷ đồng (100% GDP), quy mô của thị
trường chứng khoán khoảng hơn 1 triệu tỷ đồng (28.6% GDP), quy
mô thị trường bảo hiểm khoảng 70 ngàn tỷ đồng (2% GDP) (Cấn Văn
Lực,2014).
416


417

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(SSC)
Chính phủ, NHNN quản lý chưa
đầy đủ

0.5%
11%
1%
n.a
n.a

Bảo hiểm: 53 Công ty Bảo hiểm


Chứng khoán:
• 106 Công ty chứng khoán, 47 công ty quản lý Quỹ, 24 Quỹ đầu tư
• 6 ngân hàng lưu ký và 01 ngân hàng thanh toán chỉ định
• 419 công ty và 583 cổ phiếu được niêm yết trên 2 sàn chứng khoán

Khác: Bảo hiểm xã hội
• Cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
• Hệ thống Tài chính không chính thức

Nguồn: Trích lại từ Cấn Văn Lực (2014).

Bộ Tài chính (MOF)

7%

Trái phiếu (Chính phủ, Công ty, Ngân hàng)

NHNN (SBV)

Cơ quan quản lý

80.5%

Tỷ trọng tổng tài sản trong hệ thống tài chính

Ngân hàng và TCTC phi ngân hàng
• 5 NHTM nhà nước là chủ sở hữu chính
• 2 NH chính sách/NH phát triển
• 34 NHTMCP
• 4 NH Đầu tư; 5 NH 100% vốn nước ngoài

• 50 Chi nhánh NH nước ngoài và 49 văn phòng đại diện
• 915 Hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng
• 18 Công ty tài chính; 12 Công ty cho thuê tài chính

Các tổ chức tài chính

Bảng 3. Hệ thống các tổ chức tài chính Việt Nam


1.3.2. Mức độ tập trung ngân hàng
Khái niệm mức độ tập trung ngân hàng (bank contrentration) được
các chuyên gia của World Bank định nghĩa là tỷ trọng tài sản được nắm
giữ bởi ba ngân hàng thương mại lớn nhất so với tổng giá trị tài sản
của hệ thống NHTM. Số liệu bảng 5 cho thấy, chỉ số phản ánh mức độ
tập trung trong ngành ngân hàng ở Việt Nam có xu hướng giảm rõ rệt
từ 84.3% (năm 2001) còn 45.9% (năm 2011). Nếu so sánh với một số
nước trong khu vực thì mức độ tập trung ngân hàng ở Việt Nam cũng
tương đương với Thái Lan (45.3); Indonesia (44.0), Trung Quốc (50.8)
và Nhật Bản (43.9).
Bảng 4. Chỉ số phản ánh mức độ tập trung ngân hàng của một số quốc gia
Quốc gia

Năm 2001

Năm 2006

Năm 2011

Việt Nam


84.3

67.2

45.9

Thái Lan

48.4

44.7

45.3

Indonesia

62.6

47.3

44.0

Trung Quốc

57.2

70.1

50.8


Singapore

97.8

85.2

90.0

Nhật Bản

38.5

38.3

43.9

USA

23.1

32.7

35.4

Nguồn: World Bank Data, 2014.

Xu hướng sụt giảm của mức độ tập trung ngân hàng cũng phù hợp
với thực tiễn ở Việt Nam. Đầu những năm 2000, một vài NHTM nhà
nước nắm giữ thị phần cũng như chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giá trị
tổng tài sản của toàn hệ thống; mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào

những ngân hàng này khá lớn. Sau hơn 10 năm phát triển của hệ thống,
cùng với sự gia tăng về số lượng và quy mô của hệ thống NHTMCP và
ngân hàng nước ngoài (NHNg) - Chi nhánh NHNNg và chương trình
cổ phần hóa hệ thống NHTM Nhà nước thì mức độ tập trung ngân hàng
đã giảm xuống tương đối. Đến năm 2011, mức độ nắm giữ tài sản của
Top 3 ngân hàng có giá trị tổng tài sản lớn nhất (Vietinbank, Agribank
và BIDV) là 45.9% so với giá trị tổng tài sản của hệ thống ngân hàng.
418


Rất khó để có thể đưa ra kết luận về mối quan hệ giữa mức độ tập
trung ngân hàng với khả năng xảy ra khủng hoảng. Đây cũng là chủ
đề còn nhiều ý kiến tranh luận trên thế giới. Một số ý kiến cho rằng hệ
thống ngân hàng ít tập trung (nhiều ngân hàng nhỏ lẻ) sẽ chịu nhiều tổn
thương khi khủng hoảng xảy ra. Lý do là những ngân hàng lớn thì khả
năng đa dạng hóa rủi ro cao; hệ thống ngân hàng tập trung cao giúp gia
tăng lợi nhuận từ đó giảm thiểu khả năng đổ vỡ; hệ thống ngân hàng với
một vài ngân hàng lớn tập trung thì dễ giám sát hơn là một hệ thống có
nhiều ngân hàng nhỏ lẻ. Ngược lại, tồn tại quan điểm cho rằng hệ thống
ngân hàng có mức độ tập trung lớn thì khả năng xảy ra khủng hoảng
cao hơn. Lý do được đưa ra là những ngân hàng lớn thường nhận được
nhiều hỗ trợ từ phía chính phủ - hiện tượng “quá lớn để đổ vỡ”; quy mô
và hoạt động của những ngân hàng lớn cũng phức tạp hơn so với ngân
hàng nhỏ (như tính chất phức tạp của hệ thống sản phẩm, mạng lưới,
tính sở hữu chéo và sự chi phối đến những NHTM khác); những ngân
hàng lớn có thể tận dụng sức mạnh thị trường của mình để đẩy chi phí
cho vay lên cao khiến các doanh nghiệp phải chấp nhận những dự án có
tỷ suất lợi nhuận không cao hơn lãi suất vay NH..
Tuy nhiên, một nghiên cứu khá uy tín của Beck và cộng sự (2003)
cho thấy, khủng hoảng có xu hướng ít xảy ra hơn ở những hệ thống ngân

hàng có mức độ tập trung cao; đồng thời việc áp đặt ít quy định giới hạn
về hoạt động hay sự gia nhập ngân hàng cũng làm giảm bớt sự bất ổn
ngân hàng. Nói cách khác, mức độ tập trung ngân hàng cao nhưng đi
kèm sự cạnh tranh lành mạnh sẽ giúp giảm bớt sự bất ổn của hệ thống.
Từ kết luận này cho thấy, mặc dù hệ thống NHTM Việt Nam chịu sự chi
phối của một số ngân hàng lớn, thuộc sở hữu của nhà nước nhưng nếu
hành lang pháp lý và quy định vẫn đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các ngân hàng trong hệ thống với nhau, nhà nước giảm bớt những
hỗ trợ mang tính hành chính đối với những ngân hàng thương mại nhà
nước thì sẽ khó xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
419


1.3.3 Số lượng và quy mô ngân hàng trong hệ thống NHTM
Việt Nam
Số lượng các ngân hàng trong hệ thống NHTM
Theo hình thức sở hữu, hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm NHTM
Nhà nước; NHTM cổ phần, NH 100% vốn nước ngoài, NH liên doanh
và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hình 4 và 5 cho thấy số lượng các
TCTD trong giai đoạn 2006-2013 và năm 2013. Nhìn vào xu hướng
chung, số lượng các NHTM gia tăng rõ rệt trong giai đoạn 2006-2010
(đây là giai đoạn nền kinh tế phát triển mạnh, nhu cầu nguồn vốn cho
sản xuất kinh doanh tăng cao và thị trường tài chính sôi động tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thành lập các NHTM mới). Tuy nhiên, giai đoạn
2012-103 lại chứng kiến sự sụt giảm nhẹ trong số lượng các NHTMgiai đoạn hệ thống NHTM sau quá trình tăng trưởng ồ ạt bắt đầu bộc lộ
những yếu kém và rủi ro mang tính bản chất dẫn đến hoạt động hợp nhất
và sát nhập ngân hàng để tái cơ cấu.
Trong giai đoạn 2006-2013 còn tồn tại một xu hướng vận động
ngược chiều giữa số lượng các NHTMCP và NHNNg và chi nhánh
NHNNg. Cụ thể số lượng của NHTMCP giảm từ 37 (2006) xuống còn

33 (2013) trong khi con số của NHNNg - chi nhánh NHNNg không
ngừng gia tăng từ 31 (2006) đến 53 (2013). Diễn biến thị trường tài
chính cũng hoàn toàn giải thích được cho con số thống kê này: Khi các
NHTMCP trong nước trong quá trình tái cơ cấu thì các NHNNg và chi
nhánh NHNNg với nguồn vốn, quy mô quản trị tốt hơn nhìn thấy cơ hội
ở thị trường tài chính trong nước, đồng thời tận dụng cơ hội này để gia
tăng thị phần của mình trên thị trường.

420


Hình 4: Số lượng TCTD 2006-2013

Hình 5: Số lượng các TCTD
đến hết năm 2013

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.

Sự đa dạng về loại hình và số lượng các NHTM có ưu điểm là gia
tăng khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ ngân hàng của nhiều
thành kinh tế, đa ngành nghề của nền kinh tế (doanh nghiệp FDI, SMEs,
SOEs, tập đoàn kinh tế, cá nhân- hộ cá thể). Điều này cũng giải thích
cho việc hệ thống NHTM nói riêng và các TCTD nói chung là nơi cung
ứng chủ yếu nguồn vốn cho nền kinh tế so với kênh thị trường trái phiếu
và chứng khoán. Tuy nhiên, số lượng ngân hàng lớn trong khi quy mô
của nền kinh tế không lớn nên đã dẫn đến hiện tượng cạnh tranh thiếu
lành mạnh giữa các TCTD (Fullbright, 2013). Các NHTM do chạy theo
mục tiêu lợi nhuận mà bỏ qua yêu cầu đảm bảo an toàn kinh doanh nên
dẫn đến hiện tượng vi phạm quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng
thường hay xảy ra (điển hình là việc chạy đua lãi suất).

Theo khảo sát ngân hàng của KPMG (2013b) và theo quan điểm
của một số chuyên gia kinh tế, về cơ bản, số lượng các NHTM Việt
Nam cần phải giảm bớt (có ý kiến cho rằng giảm bằng ½ con số hiện
tại, xuống còn 15-17 ngân hàng). Những ngân hàng có quy mô lớn cần
chuyển đổi sang mô hình tập đoàn tài chính để tăng khả năng cạnh tranh
trước áp lực hội nhập. Những ngân hàng có quy mô nhỏ và yếu kém
cần đẩy mạnh sáp nhập để giảm bớt về số lượng. Đây cũng là một phần
trong kế hoạch tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiện nay.
Quy mô hệ thống NHTM Việt Nam - Theo tổng tài sản
Ở khía cạnh quy mô hệ thống NHTM về tổng tài sản, giá trị tổng
421


tài sản của hệ thống không ngừng gia tăng trong giai đoạn 2008-2013
(Hình 6).
Hình 6: Giá trị tổng tài sản hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2013 (tỷ đồng)

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.

Theo tính toán của nhóm tác giả, đến cuối năm 2013, tổng giá trị
tài sản của toàn hệ thống đạt 5,755,869 tỷ đồng (tăng 13.17% so với
năm 2012); trong đó tổng tài sản của hệ thống NHTM Nhà nước đạt
2,504,871 tỷ đồng (tăng 13.77% so với năm 2012); tài sản của hệ thống
NHTMCP đạt 2,463,445 tỷ đồng (tăng 14.08% so với năm 2012). Bên
cạnh đó, khối NHTMCP luôn giữ vững mức tăng trưởng qua các năm
cao hơn tương đối so với khối NHTM Nhà nước, do khối này có quy
mô tài sản nhỏ hơn nên dễ đạt được mức tăng trưởng cao hơn. Nếu so
sánh quy mô về tài sản thì hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn khá nhỏ
bé so với hệ thống NHTM quốc tế; Bảng 5 cho thấy một trong những
NHTM có quy mô lớn nhất Việt Nam thì giá trị tổng tài sản vẫn nhỏ hơn

rất nhiều so với các NHTM lớn ở các quốc gia khác.
Quy mô tín dụng/GDP
Nếu xét quy mô của hệ thống NHTM so với nền kinh tế (độ sâu tài
chính) thì quy mô hệ thống cũng đã có những thay đổi đáng kể (Bảng
6). Năm 2001, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam khá thấp so với các
nước trong khu vực như Thái Lan (101.2), Trung Quốc (107.9) hay
Singapore (109.8), Nhật Bản (151.8). Nhưng sau 10 năm tăng trưởng
422


tín dụng (đặc biệt tăng mạnh trong giai đoạn 2007-2009), tỷ lệ tín dụng/
GDP đạt 107.7% (năm 2011). Quy mô tín dụng gia tăng thể hiện vai
trò quan trọng của hệ thống NHTM trong việc cung ứng vốn cho nền
kinh tế.
Tuy nhiên khi tỷ lệ tín dụng/GDP lớn cũng sẽ khiến cho hệ thống
các NHTM dễ bị tổn thương từ những thay đổi bất lợi của nền kinh tế
và sự bất ổn của hệ thống các NHTM cũng sẽ có tác động lớn đến ổn
định kinh tế vĩ mô. Đây là lý do mà khá nhiều chuyên gia kinh tế đưa
ra khuyến nghị cần phát triển thêm những kênh huy động vốn khác như
thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán để giảm bớt sự phụ thuộc
của nền kinh tế vào hệ thống ngân hàng. Quan sát tỷ lệ tín dụng/GDP ở
một số quốc gia có thị trường tài chính phát triển như Mỹ thì tỷ lệ này
duy trì ở mức khá thấp (52.6).
Bảng 6. Tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP của Việt Nam và một số quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á và trên thế giới
Quốc gia

Năm 2001

Năm 2006


Năm 2011

Việt Nam

35.6

64.4

107.7

Thái Lan

101.2

93.9

101.9

Indonesia

17.2

22.5

25.4

Trung Quốc

107.9


104.5

121.5

Singapore

109.8

83.7

104.2

Nhật Bản

151.8

99.6

105.2

USA

51.1

57.5

52.6

Nguồn: World Bank Data, 2014.


2.4. Cấu trúc sở hữu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Sở hữu nhà nước trong hệ thống ngân hàng theo thông lệ quốc tế
được đo lường bằng tỷ lệ tài sản của các ngân hàng thương mại nhà
nước trên tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại. Một số
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong số 96 quốc gia mà chính phủ có sở hữu
ngân hàng thương mại, tính trung bình, các ngân hàng này sở hữu 21%
tổng tài sản của hệ thống ngân hàng. Nhóm các nước có sở hữu nhà
423


nước lớn bao gồm: Irag: 98%; Ấn độ 72%; Hy Lạp 50%; Nga 41%. Một
số nước có sở hữu nhà nước trong hệ thống ngân hàng dưới 10% gồm:
Italia, Nam Phi; Hungary; Pháp; Croatia;
Ở Việt Nam, tổng tài sản của các NHTMNN chiếm 41,8% tổng tài
sản của hệ thống ngân hàng thương mại, thuộc nhóm cao trên thế giới,
tương đương với Indonesia (40%), nhưng cao hơn nhiều so với Thái
Lan (21%), Phillippines (13%) và các nước Italia, Nam Phi; Hungary;
Pháp; Croatia. Nếu chỉ tính riêng 4 ngân hàng thương mại nhà nước
(như BIDV, Vietcombank, Vietinbank, Agribank) tỷ lệ sở hữu vốn nhà
nước đã chiếm tới 84.33%.
Bảng 7. Cơ cấu vốn sở hữu nhà nước tại 4 NHTM Nhà nước
Vốn và các quỹ (4/2014)
Ngân hàng

 

Vốn điều lệ (4/2014)

Tỷ lệ sở

Tổng vốn Trong đó:Vốn và
Tỷ lệ sở
Tổng vốn
hữu vốn
và các các quỹ thuộc Sở
hữu vốn
điều lệ
của nước
quỹ
hữu Nhà nước
nhà nước
ngoài

Tỷ lệ sở
hữu vốn
của cổ
đông khác

(Tỷ đồng)

(Tỷ đồng)

(Tỷ đồng)

 

 

 


1. BIDV

33,450

32,000

2 8,000

95.76%

0.00%

4.24%

2. Vietcombank

33,420

25,733

23,000

77.10%

15.00%

7.90%

3. Vietinbank


55,000

35,453

37,000

64.46%

19.73%

15.81%

4. Agribank

49,000

49,000

28,741

100.00%

0.00%

0.00%

5. Tổng 4 NHTM NN

170,870


142,186

116,741

6. Tỷ lệ trung bình

 

 
84.33%

8.68%

6.99%

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.

Cấu trúc sở hữu của hệ thống các tổ chức tài chính hiện tại cũng
rất phức tạp (sở hữu chéo, sở hữu tháp, sở hữu ngầm) là nguồn gốc sinh
ra cơ chế quản trị độc quyền cá nhân, lợi ích nhóm, biến NHTMCP đại
chúng thành những ngân hàng thực chất phi đại chúng, làm phân bổ
nguồn vốn không hiệu quả và tăng rủi ro hệ thống tài chính.

424


III. Định dạng hệ thống ngân hàng Việt Nam
sau tái cơ cấu - Một số gợi ý
3.1. Một số nhận xét và hàm ý cho mô hình hoạt động của ngân
hàng Việt Nam

Đề án tái cơ cấu các TCTD đang được ngành NH tích cực triển
khai với các hình thức hợp nhất, sáp nhập, tự tái cơ cấu và sẽ hoàn thành
giai đoạn đầu vào năm 2015. Một số chuyên gia cho rằng, cùng với việc
xây dựng các ngân hàng có quy mô tầm cỡ khu vực thì việc hình thành
những ngân hàng chuyên doanh, phục vụ chuyên ngành hay một lĩnh
vực cụ thể là điều cần thiết. Tuy nhiên, dựa trên lịch sử phát triển của
mô hình ngân hàng đa năng và chuyên doanh trên thế giới, có thể có
một số nhận xét và hàm ý sau:
Thứ nhất, mô hình hoạt động ngân hàng đa năng là xu thế phát
triển chung của các ngân hàng trên thế giới. Toàn cầu hóa và phát triển
của thị trường tài chính với sự đa dạng các dịch vụ và công cụ tài chính
đã xóa đi ranh giới giữa các dịch vụ chứng khoán và dịch vụ ngân hàng.
Tuy nhiên, mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng đa năng phụ thuộc
vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia.
Thứ hai, khi phát triển theo định hướng ngân hàng đa năng, cần
nhìn nhận rõ những nhược điểm lớn của hệ thống này là sự xung đột về
lợi ích và tính rủi ro của toàn hệ thống sẽ cao. Do vậy, lộ trình thích hợp
và các biện pháp giải quyết phòng ngừa các vấn đề này cần phải được
chú ý, đặc biệt các vấn đề liên quan đến giám sát cẩn trọng vĩ mô và an
toàn hệ thống.
Thứ ba, Cần xác định rõ cấu trúc sở hữu: nhà nước, tư nhân, nước
ngoài theo xu hướng giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước. Trong một số
nghiên cứu trong và ngoài nước, đã chỉ ra tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao
trong các DNNN cổ phần hóa hoặc trong các NHTM thì hiệu quả hoạt
động của tổ chức đó càng thấp (Nguyen Hong Son và cộng sự, 2014).
Chính phủ đã có chủ trương và chính sách thoái vốn trong các DNNN
cổ phần hóa. Tuy nhiên, hiện tỷ lệ vốn nhà nước trong các NHTMNN
425



mặc dù đã CPH rồi vẫn còn quá cao (trên 90%), mức độ tập trung vốn
vào 3 NHTMNN lớn nhất dù có xu hướng giảm, song vẫn khá cao so
với khu vực (trên 45%). Việc giảm dần tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước trong
các NHTMNN sau khi cổ phần hóa vừa giảm áp lực đầu tư vốn của nhà
nước, vừa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư tư nhân trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng.
3.2. Tiềm năng ngân hàng đầu tư tại Việt Nam
Mặc dù đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính quốc
tế cũng như các khó khăn kinh tế vĩ mô trong nước, thị trường vốn
Việt Nam vẫn hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển: Số lượng tài khoản
của các nhà đầu tư cá nhân đã tăng nhanh chóng từ khoảng 50 ngàn tài
khoản năm 2005 lên khoảng 350 ngàn tài khoản vào cuối năm 2007 và
khoảng 500 ngàn tài khoản vào cuối 2008 (chiếm gần 0.6% dân số), đến
2013 là gần 1 triệu tài khoản. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) đang đi vào giai đoạn chất lượng hơn với các kế
hoạch cổ phần hóa các DNNN có quy mô lớn, có tầm ảnh hưởng lớn tới
nền kinh tế, đặc biệt là các tổng công ty 90-91 và các tập đoàn kinh tế
trực thuộc Chính phủ. Giai đoạn 2007 đến nay, Việt Nam đã tiến hành
cổ phần hóa một số doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam
(Bảo Việt), Tập đoàn bảo hiểm dầu khí Việt Nam, Công ty Tài chính
dầu khí (PVFC), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank),
NHTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam, và Ngân hàng Công thương
Việt Nam (Vietinbank). Các tập đoàn tài chính này cũng đang tái cơ cấu
theo hướng tập đoàn tài chính kinh doanh đa năng.
Với những thành tựu ban đầu, Việt Nam vẫn còn rất nhiều vấn đề
phải giải quyết cùng với quá trình phát triển của thị trường vốn. Việc
hoàn thiện các thể chế pháp lý, nâng cao tính minh bạch thị trường, tính
chuyên nghiệp hóa, đạo đức nghề nghiệp, áp dụng các chuẩn mực quản
trị doanh nghiệp tiên tiến, chuẩn mực kế toán quốc tế tại các công ty
nhằm tạo lòng tin của công chúng vào thị trường vốn sẽ đòi hỏi nhiều

426


nỗ lực và thời gian dài của không chỉ các cơ quan chức năng mà tất cả
các chủ thể tham gia thị trường mới có thể giải quyết được.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh của thị trường vốn Việt Nam đã
thu hút sự quan tâm của các ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới. Hầu
hết các tên tuổi lớn trong ngành ngân hàng đầu tư đã xuất hiện tại Việt
Nam cung cấp dịch vụ và kinh doanh như Credit Suise, Goldman Sachs,
Morgan Stanley, J.P.Morgan, Normura Securities và Daiwa Securities.
Các công ty chứng khoán liên doanh cũng bắt đầu xuất hiện từ 2007.
Theo cam kết gia nhập WTO, từ năm 2012, Việt Nam đã cho phép các
công ty chứng khoán và quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài thành lập
tại Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, theo xu hướng phát triển tất yếu của thị trường
tài chính Việt nam, trong bối cảnh tái cơ cấu và hội nhập môi trường
tài chính toàn cầu, tiềm năng hình thành và phát triển các định chế tài
chính theo mô hình ngân hàng đầu tư toàn diện là một thực tế khách
quan. Quan điểm của nhóm nghiên cứu là các nhà quản lý, giám sát thị
trường, các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu sớm để tạo dựng
hành lang pháp lý cho các định chế tài chính mới này, từ đó tạo sân chơi
bình đẳng, cạnh tranh và phát triển bền vững.
3.3. Một số gợi ý về định dạng hệ thống NH Việt Nam sau tái
cơ cấu
Xác định rõ cấu trúc sở hữu: Nhà nước, tư nhân, nước ngoài
theo xu hướng giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước.
Một số nghiên cứu trong và ngoài nước, đã chỉ ra rằng tỷ lệ sở
hữu Nhà nước càng cao trong các DNNN cổ phần hóa hoặc trong các
NHTM thì hiệu quả hoạt động của tổ chức đó càng thấp (Nguyễn Hồng
Sơn và cộng sự, 2014, Trần Thị Thanh Tú & Nguyễn Mạnh Hùng).

Chính phủ đã có chủ trương và chính sách thoái vốn trong các DNNN
cổ phần hóa. Tuy nhiên, hiện tỷ lệ vốn nhà nước trong các NHTMNN
mặc dù đã CPH vẫn còn quá cao (có ngân hàng lên tới trên 90%), mức
427


độ tập trung vốn vào 3 NHTMNN lớn nhất dù có xu hướng giảm, song
vẫn ở mức khá cao so với ở các nước khác trong khu vực (trên 45%).
Phát triển các mô hình tập đoàn tài chính đa năng.
So sánh với thời điểm trước khi cổ phần hóa, các NHTMNN, bao
gồm: VCB, BIDV và Vietinbank đều đã có sự thay đổi rõ ràng cả về
chất và lượng. Các NH này đều vào danh sách 1000 ngân hàng thế giới
năm 2014 do tờ tạp chí The Banker mới công bố. Điều này chứng tỏ,
khả năng cạnh tranh và quốc tế hóa của các NH này là hoàn toàn khả thi.
Chính các NH này cũng đều có chiến lược cạnh tranh trên thị trường khu
vực và thế giới thông qua việc mở các chi nhánh, văn phòng đại diện ở
nước ngoài. Song hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các NH này còn
tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro quốc gia. Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước cần nghiên cứu rà soát ban hành các qui định giảm thiểu rủi
ro đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Bên cạnh đó, với quy mô và phạm vi hoạt động lớn cả trong và
ngoài nước, cần có hệ thống giám sát an toàn lành mạnh tài chính của
các tập đoàn kinh tế tài chính này, đặc biệt cần tăng cường hơn nữa chức
năng và năng lực giám sát trên cơ sở rủi ro của các cơ quan quản lý và
giám sát thị trường.
Xây dựng các tiền đề để thành lập các ngân hàng đầu tư.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích các tiềm năng hình thành các ngân
hàng đầu tư ở Việt Nam ở phần trên. Thực tế là các Công ty chứng
khoán ở Việt Nam đã là một dạng manh nha của ngân hàng đầu tư
chuyên doanh do cung cấp các dịch vụ của ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên,

chính bản thân các Công ty chứng khoán cũng đang phải đối mặt với
rủi ro đạo đức khi các mâu thuẫn lợi ích phát sinh từ việc cung cấp các
dịch vụ tư vấn đầu tư, tự doanh, margin trong bối cảnh khung pháp lý
cho các hoạt động này cũng chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó, với quy mô
thị trường chứng khoán còn khiêm tốn như hiện nay, việc chuẩn hóa
các hoạt động của Công ty chứng khoán theo mô hình ngân hàng đầu tư
chuyên doanh là hoàn toàn hợp lý, tránh tình trạng để đối tượng bị quản
428


lý phát triển quá mức rồi cơ quan quản lý mới “đưa vào khuôn phép”.
Đề án tái cơ cấu các Công ty chứng khoán đang được Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước và Bộ Tài chính xây dựng sẽ nghiên cứu một cách cẩn
trọng mô hình hoạt động của Công ty chứng khoán trong giai đoạn hậu
tái cơ cấu.
IV. Kết luận
Quá trình tái cơ cấu các TCTD ở Việt Nam là một quá trình tái cơ
cấu chủ động (SBV, 2012), và đã đạt được một số kết quả ban đầu theo
lộ trình đặt ra, tránh được rủi ro hệ thống. Song, để đạt được các mục
tiêu dài hạn nhằm phát triển ổn định, bền vững, đáp ứng các yêu cầu của
hội nhập, cần nghiên cứu làm rõ các vấn đề liên quan đến định dạng của
hệ thống các TCTD - mà trọng tâm là các ngân hàng. Đây cũng là một
trong những vấn đề mấu chốt của việc đánh giá kết quả của tái cơ cấu
hệ thống NH. Nhóm nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng cấu
trúc hệ thống NH theo thông lệ quốc tế, từ đó đã chỉ ra những khoảng
cách giữa thông lệ quốc tế và thực tế ở Việt Nam. Các khuyến nghị của
nhóm tập trung vào: (i) giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các NHTMNN
đã cổ phần hóa, (ii) xây dựng các tiền đề cho việc hình thành các NH
đầu tư nhằm chuẩn hóa hoạt động của các CTCK và (iii) định dạng các
NHTM và tổ chức tài chính qui mô lớn phát triển theo mô hình tập đoàn

tài chính gắn với tăng cường năng lực và công cụ giám sát trên cơ sở rủi
ro đối với các tập đoàn này./.

429


Tài liệu tham khảo
1. Cấn Văn Lực, 2014, “Vai trò của của NHTM trong phát triển thị
trường vốn hiện đại”, Hội thảo “ Vai trò của thị trường vốn” do BIDV
tổ chức, tháng 4/2014.
2. Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2012), “Ẩn số của quá
trình tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng Việt nam hiện nay”, Diễn đàn
kinh tế mùa thu, 2012, UBKT của Quốc hội và UNDP tổ chức, tháng
9/2012.
3. Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2014), “Hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam - kết quả sau 2 năm tái cấu trúc”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, tháng 3 năm 2014.
4. Nguyen Hong Son et all, 2014 “Impact of ownership structure
on bank performance - an empirical test on Vietnamese banks”, 5th
Annual Maeeting of Business and Management, IPAG, France, July
2014.
5. Học viện chính sách phát triển, 2014, “Báo cáo đổi mới thể chế
hệ thống tài chính nhằm huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực”, MPI, 8/2014.
6. Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Thị Minh Huệ, 2014, “ Cấu trúc
hệ thống NHTM Việt nam - đánh giá theo thông lệ quốc tế”, Hội thảo
“ Phát triển Các thị trường vận hành theo nguyên tắc thị trường định
hướng XHCN”, Ban Kinh tế trung ương & Trường Đại học Kinh tế, Đại
học Quốc gia HN tổ chức 7/2014.
7. Nguyễn Đức Thành (2012), Tái cơ cấu kinh tế: những thách

thức phải đối mặt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Đức Huấn (2003). Mô hình hoạt
động ngân hàng đa năng trên thị trường chứng khoán. Ủy ban chứng
khoán Nhà nước.
9. Nguyễn Thu Trang, Trần Thị Thu Hòa (2012). Tái cơ cấu, cải
cách hoạt động ngân hàng trên thế giới - Thực tiễn và bài học cho Việt
Nam. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước.
430


10. Barth J.R. et al. (1997). Commercial banking structure,
regulation, and performance: An international comparison. Comptroller
of Currency, Working paper number 7.
11. The Economist. (1999). The business of banking. London,
Xuan Thanh và Thu Trinh (dịch)
12. Beck, T., Demirguc Kunt, A. và Levine, R, 2003, Bank
Concentration and Crisis, World Bank Policy Research working paper
3041 ( />13. Fullbright, 2013, Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống
ngân hàng Việt Nam 2011-2015
14. KPMG, 2013a, Mainland China Banking Survey (http://www.
kpmg.com/CN/en/IssuesAndInsights/ArticlesPublications/Documents/
Mainland-China-Banking-Survey-201312-v1.pdf)
15. KPMG, 2013b, Khảo sát ngành ngân hàng Việt Nam
năm
2013
( />ArticlesPublications/Documents/Advisory/Vietnam%20Banking%20
Survey%202013%20-%20VN.pdf)
16. European, Banking structure report, 2013
17. World Bank, 2014, The little Data book on Financial
Development.

18. />19. />emStructureInChinaAndIndia.pdf
20. />/File/China%20Financial%20%20Stability%20Report(1).pdf
21. />Assets/Documents/Industries/Financial%20services/cn_gfsi_China
Bankingtop10_280512.pdf.

431



×