Tải bản đầy đủ (.ppt) (14 trang)

Bài giảng sự tiến hóa của kinh tế học vi mô trong nửa sau thế kỷ 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.5 KB, 14 trang )

CHỦ ĐỀ 7

SỰ TIẾN HÓA CỦA KINH TẾ HỌC VI MÔ
TRONG NỬA SAU THẾ KỶ XX


7.1. LÝ THUYẾT CÂN BẰNG KINH TẾ TỔNG THỂ

KENNETH ARRAW GENERARD DEBREU

Lợi ích kinh tế biểu hiện tập trung ở thu
nhập. Thu nhập là động lực kinh tế kích
thích con người nâng cao hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn
Sự đa dạng trong đời sống KT-XH làm
cho các nguồn thu nhập cũng đa dạng;
quan điểm về chất và về lượng của các
nhà kinh tế đối với các nguồn thu nhập
cũng khác nhau


• Lý thuyết cân bằng tổng thể
Là một nhánh của Kinh tế học lý thuyết,
được xem là thuộc Kinh tế học vi mô và được
Léon Walras phát triển từ những năm 1870.
Lý thuyết này tìm cách giải thích cung, cầu
và giá của tổng thể một nền kinh tế với rất
nhiều thị trường của rất nhiều mặt hàng. Khi
giá thị trường của tất cả các mặt hàng đạt tới
trạng thái cân bằng thì nền kinh tế đó đạt tới
cân bằng tổng thể.




• Trạng thái cân bằng tổng thể là trái ngược với
trạng thái cân bằng từng phần.
• Lý thuyết này là có tính chất trừu tượng, nhưng
là một lý thuyết có ích nếu xét các giá cả cân
bằng trong dài hạn và nhìn nhận giá cả thật như
là một độ lệch của điểm cân bằng.
• Lý thuyết cân bằng tổng thể định nghĩa hàng
hóa khác biệt nhau bởi vị trí của nó (như
trong giao dịch quốc tế), thời điểm cung cấp
và tình trạng môi trường kinh doanh.


Tổng quát
Giả thiết các tác nhân của nền kinh tế
là những người chấp nhận giá đưa đến
hai khái niệm về sự tồn tại của điểm cân
bằng:
Cân bằng Walras hay cân bằng cạnh
tranh và cân bằng giá (có tính đến chuyển
nhượng).


• Những hướng phát triển gần đây của lý thuyết
cân bằng tổng thể, cụ thể:
Những khái niệm mới về cân bằng tổng thể
được phát triển bởi Kenneth Arrow, Gerard
Debreu và Lionel W. McKenzie vào những
năm 1950.

Debreu giới thiệu mô hình này trong "Lý
thuyết về giá trị" (1959) như là một mô hình
tiền đề suy ra từ công trình toán học của
Bourbaki.


• Các phát triển gần đây của lý thuyết này chú ý
đến các thị trường không hoàn hảo mà không có
các hợp đồng với đầy đủ chi tiết để hoàn toàn
tạo thuận lợi cho các tác nhân kinh tế phân bổ
tiêu dùng và nguồn lực giữa các thời kỳ. Với loại
thị trường này, tuy rằng vẫn tồn tại điểm cân
bằng, nhưng điểm này không phải là điểm tối ưu
Pareto
• Các câu hỏi cơ bản của lý thuyết cân bằng tổng
thể là với điều kiện nào thì điểm cân bằng là
hiệu quả, tức là khi nào điểm cân bằng tổng thể
tồn tại, là duy nhất và ổn định.


- Lý thuyết cơ bản thứ nhất của Kinh tế học phúc lợi
• Kinh tế học phúc lợi khẳng định rằng các điểm cân bằng
thị trường là hiệu quả Pareto. Trong một nền kinh tế trao
đổi, điều kiện đủ để định lý thứ nhất đúng đó là ý thích
được thỏa mãn với mọi mức độ.
• Định lý thứ nhất cũng đúng đối với mọi nền kinh tế sản
xuất với những hàm sản xuất có tính chất khác nhau.
Đối với các thị trường chịu ảnh hưởng bởi tác động bên
ngoài, vẫn đạt điểm cân bằng nhưng điểm này không
hiệu quả.

• Định lý này chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến không hiệu
quả của các thị trường. Với các giả thiết ở trên, bất cứ
điểm cân bằng thị trường nào cũng hiệu quả. Điểm cân
bằng nào không hiệu quả là do thất bại thị trường.


• Định lý thứ hai của kinh tế học phúc lợi
Với mọi điểm cân bằng hiệu quả, ta có thể
kết luận ngược lại rằng mọi sự phân bổ nguồn
lực hiệu quả đều đạt tới điểm cân bằng, trong
điều kiện phân bổ lại của cải sẵn có trước khi
phân bổ nguồn lực bằng các lực cạnh tranh của
thị trường.
Có nghĩa là hiệu quả và công bằng là hai
khái niệm tách rời và không nhất thiết phải
đánh đổi hiệu quả lấy công bằng và ngược lại.


Như vậy, định lý thứ hai chặt chẽ hơn định lý thứ
nhất vì chỉ ra sở thích của người tiêu dùng phải là
hàm lồi (gần như tương đương với khái niệm tỷ lệ
thay thế biên giảm dần và khái niệm "sở thích vừa
phải thì tốt hơn sở thích cực độ").
Mặc dù nếu như tất cả các điểm cân bằng đều đã
hiệu quả, hai định lý trên vẫn không phát biểu gì về
sự tồn tại của điểm cân bằng. Điều kiện đủ để đảm
bảo điểm cân bằng tổng thể tồn tại là hàm sở thích
tiêu dùng là hàm lồi. Tính lồi không bao gồm hiệu
quả kinh tế theo quy mô.



• Hàm sản xuất là một hàm số biểu thị sự phụ thuộc
của sản lượng vào các yếu tố đầu vào. Nói cách khác,
trong hàm sản xuất, biến số phụ thuộc (hay biến số
được thuyết minh) là sản lượng, còn biến số độc
lập (hay biến số thuyết minh) là các mức đầu vào.
• Trong kinh tế học vi mô, hàm sản xuất biểu thị lượng
sản phẩm được nhà sản xuất tạo ra từ những yếu tố
sản xuất mà anh ta có như vốn, lao động v.v... Trong
kinh tế học vi mô, hàm sản xuất biểu thị giá trị GNP
phụ thuộc vào số lượng lao động, lượng vốn, công
nghệ của một nền kinh tế.


• Chủ nghĩa đế quốc kiểu cũ
Là sự thành lập và duy trì một nền kinh tế, văn
hóa, lãnh thổ bất bình đẳng giữa những quốc gia và
thường là hình thức của các đế quốc dựa trên sự
thống trị và lệ thuộc.
Thuật ngữ chủ nghĩa đế quốc thường đề cập đến
những lãnh thổ địa lý và chính trị như Đế quốc Ba
Tư, Đế quốc La Mã, Đế quốc Ottoman, Đế quốc Bồ
Đào Nha, Đế quốc Tây Ban Nha, Đế quốc Đế quốc
Đế quốc Đế quốc Đế quốc Đế quốc Đế quốc Đế quốc
Hà Lan, Đế quốc thực dân Pháp, Đế quốc Nga, Đế
quốc HT, Đế quốc Anh, Đế quốc Mỹ, Đế quốc Nhật.


• Chủ nghĩa đế quốc kinh tế
Trong kinh tế đương đại, đề cập đến các khía cạnh

như phi kinh tế, trong đó phân tích những vấn đề
ngoài cuộc sống, như tội phạm, pháp luật, gia đình,
thành kiến, thị hiếu, …
• Sự xuất hiện phân tích những vấn đề tưởng như phi
kinh tế nhưng thật ra lại ảnh hưởng đến kinh tế trên
nhiều phương diện khác nhau, nhất là yếu tố nguồn
lực con người.
• Người ta đã khẳng định những điều này và tập trung
vào nghiên cứu sự ảnh hưởng của nó đến hiệu quả
kinh tế và “cho phép” dùng kinh tế để xâm chiếm
lãnh thổ trí tuệ mà trước đây được coi là bên ngoài
lĩnh vực của ngành kinh tế học.


• Gary Stanley Becker (02 tháng 12 năm 1930)
Ông có đóng góp quan trọng đối với kinh tế gia
đình, ông còn là một trong những nhà kinh tế đầu tiên
đi vào nghiên cứu các chủ đề truyền thống được coi
là thuộc về xã hội học, trong đó có phân biệt chủng
tộc, tội phạm, tổ chức, gia đình, nghiện ma túy.
Ông được biết đến với lập luận rằng nhiều loại
hành vi khác nhau của con người có thể được coi là
hợp lý và tiện ích tối đa. Cách tiếp cận của ông có thể
bao gồm các hành vi vị tha bằng cách xác định lợi ích
cá nhân thích hợp. Ông cũng nghiên cứu về nguồn
nhân lực.
HET




×