Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích đoạn trích Cảnh Ngày Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.32 KB, 5 trang )

Cảnh ngày xuân
* Đề bài: Phân tích đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”
Dàn ý
1. Mở bài:
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ
không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả
đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong
đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam.
Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim
bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân",
chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác
xúc cảm của tác giả:
2. Thân bài:
a. Khái quát:
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của
"Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng
tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên
mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn
thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là
khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh
minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng
chiều buông xuống.
b. Phân tích:
- Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã phác họa được khung cảnh thiên nhiên ngày xuân
đẹp như một bức tranh :
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng của
mùa xuân để khắc họa bức tranh mùa xuân. Chim én vốn là loài chim nhỏ bé gần
gũi đến thân thương của đồng quê Việt Nam, là dấu hiệu đặc trưng của mùa xuân
đất Việt. Hình ảnh “con én đưa thoi” giàu chất tạo hình. Hai chữ “đưa thoi” đã


gợi ra hình ảnh trước mắt người đọc một không gian cao rộng với những cánh én
chao liệng rộn ràng. Nhà thơ Nguyễn Du học tập cách nói dân gian :


“Thời gian thấm thoắt thoi đưa”
Bởi thế câu thơ này không chỉ gợi không gian mà còn gợi thời gian. Thời gian mùa
xuân đang trôi rất nhanh. Mới đó mà đã bước sang tháng thứ ba, những ngày cuối
cùng của mùa xuân đang đến rất gần.
- Nhà thơ còn điểm vào bức tranh xuân ấy chút ánh sáng của ngày xuân, khi thời
gian mùa xuân đã “ngoài sáu mươi” tức là trời đã sang tháng ba. Nếu như trước
kia, trong thơ của Trần Nhân Tông ta thấy hình ảnh những cánh bướm bay thì ở
đây Nguyễn Du lại chọn biểu tượng của mùa xuân này là ánh nắng ấm áp. Hai chữ
“ thiều quang” gợi ra màu hồng của nắng xuân, sự ấm áp của khí xuân và cả cái
mênh mang của đất trời.
- Bức tranh ngày xuân ấy còn có thêm sắc xanh của cỏ non mơn mởn :
Có non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Nguyến Du là người rất am hiểu văn chương của các bậc tiền nhân. Trong câu thơ
này ông đã tiếp thu yếu tố miêu tả trong thơ cổ.
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh. Trên cành lê có vài bông hoa)
- Cả thơ cổ và thơ ND đều lấy cỏ mùa xuân làm phông nền cho bức tranh. Trên bức
tranh xuân ấy đều có sự xuất hiện của những bông hoa lê trắng. Tuy nhiên, nếu thơ
cổ chú ý đến hương vị thì thơ ND chú ý đến sắc sắc của cỏ non mơn mởn. Sắc
xanh non ấy kéo dài từ chân mây đến mặt đất tạo thành một màu xanh bát ngát. Có
lẽ nhà thơ muốn gợi kên sức sống mạnh mẽ của mùa xuân từ sắc xanh bất tận ấy.
- Chỉ bằng hai câu thơ, Nguyễn Du đã thể hiện được cái thần thái của mùa xuân.
Nhà thơ đã khéo léo dùng phép đảo ngữ để dựa tính từ “trắng” lên trước cụm từ
“vài bông hoa” đối xứng với từ “xanh” ở câu thơ trên để tạo thành bức họa với

gam màu tươi tắn. Trên cái nền xanh bát ngát của cỏ non ấy điểm xuyết một vài
bông hoa lê trắng như tuyết. Hai màu “xanh - trắng” tạo cảm giác mênh mông mà
không hề quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Hai chữ
“trắng điểm” đã trở thành nhãn tự của câu thơ, làm cho bức tranh xuân trở nên sinh
động


=> Bốn câu thơ ngắn gọn cùng với những nét chấm phá tài hoa, ND đã vẽ lên một
bức tranh xuân với không gian khoáng đạt, rộng mở, màu sắc tươi tắn, hương vị
ngọt ngào. Một bức tranh trong trẻo, mới mẻ, tinh không và ngập tràn sức sống.
* Cảnh lễ hội :
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân
tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những
hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê
kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó chị em Thúy Kiều đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi
viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo
mộ" là đến "hội đạp thanh", một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy
vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự
diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng
thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tải tử giai nhân
Ngựa xư như nước áo quần như nêm
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ. Sự xuất
hiện của hàng loạt các danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài

tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ
hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều
được ngắt nhịp 2/2 cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội.
Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân
như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân",
Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời thông báo mà còn giúp người đọc cảm nhận
được những trông mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn
nhịp nhát là những nam thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân
nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân",
"ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ.


Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai
nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng
đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng
mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng
đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc "như
nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác
thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương
Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không
chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc
quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong
tục dân gian cổ truyền:
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần
lại. Những người còn sống đang đốt giấy vàng gửi cho người đã khuất. Họ mong
cho người đã khuất có được c/s đủ đầy. Đây là một việc làm thể hiện niềm tin
thánh thiện của con người vào những hành động tốt đẹp trong c/đ chứ không hoàn

toàn là mê tín.
Cảnh ra về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
- Lời thơ gợi ra khung cảnh hoàng hôn vào thời điểm chiều tà. Hai tiếng “tà tà”
như kéo dài ánh nắng chiều tạo ra một cảm giác se buồn. Nhịp câu thơ chậm rãi
diễn tả nhịp sống như ngừng trôi. Chị em Thúy Kiều bây giờ mới có thể “lần xem
phong cảnh”. Cảnh vật hiện lên thật cụ thể :
Nao nao dòng nước uống quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
- Khung cảnh mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân : Nắng nhạt, khe suối
nước trong veo,một dịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển động hết
sức nhẹ nhàng : mặt trời từ từ ngả bóng, bước chân người chầm chậm thơ thẩn,
dòng nước róc rách uốn quanh... không gian đang tĩnh lặng dần. Sự nhộn nhịp của
cảnh lễ hội không còn nữa .Những từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao ...


không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà con bộc lộ tâm trạng của con người.
Hai chữ “nao nao” đã nhuốm màu tâm trạng. Đó là cảm xú bâng khuâng, lưu
luyến, nuối tiếc về một ngày vui vừa tàn. Cảm xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội
mùa xuân để lại cho mỗi người vừa mới đây thôi. vậy mà nó như chưa đựng một
linh cảm về một điều gì đó đáng buồn sắp xảy ra. Và dòng nước uốn quanh đã dẫn
Thúy Kiều tới nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và sau đó nàng sẽ gặp chàng Kim
phong tư tài mạo tót vời. Nguyễn Du đã từng viết: "Ngư ời buồn cảnh có vui đâu
bao giờ?". Vì vậy, khivào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ
hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm
đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong
tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du
không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn
bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã

biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm
Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một
linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế
thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.

=> Qua đoạn trích ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du.
Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa tả và kể, sử dụng từ ngữ giàu tính tạo hình để
miêu tả cảnh ngày xuân. Qua đó làm hiện lên bức tranh xuân đẹp và đẹp trong
trẻo, tinh khôi. Đặc biệt bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế đãkhiến cho cảnh thấm
màu tâm trạng. Miêu tả cảnh nhưng gợi được tâm trạng nhân vật chính là cái tài
điêu luyện của ND.
3. Kết bài:
...........................................................................



×