Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Trong truyện ngắn Làng nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc Em hãy phân tích để làm rõ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.74 KB, 6 trang )

Trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh
tế diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
Em hãy phân tích để làm rõ.
Gợi ý
1. Yêu cầu về nội dung :
* Đề bài yêu cầu người viết phải vận dụng kiến thức đã học về nghị luận một tác
phẩm tự sự để phân tích, làm rõ nghệ thuật thể hiện sinh động, tinh tế diễn biến
tâm trạng của nhân vật. Tâm trạng của nhân vật cần làm rõ ở đây là ông Hai trong
truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân với diễn biến đầy phức tạp khi nghe tin
làng quê mình theo giặc.
* Để làm rõ diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc, ta
phải chú ý một số nội dung sau :
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm hoàn cảnh sáng tác
- Nhấn mạnh: Ngòi bút miêu tả tâm lí đã thể hiện chân thực, sinh động diễn biến
tâm trạng ông Hai khi tin làng theo giặc.
2. Thân bài :
a. Trước khi nghe tin dữ : ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông hai hoà nhập với
tình yêu nước.
- Xa làng, ở nơi tản cư ông nhớ làng da diết. Nỗi nhớ làng khiến ông thay tâm
đổi tính: “Lúc nào ông cũng thấy bực bội, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm,
hơi một tí là gắt, hơi một tý là chửi”.
- Khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường “Hai con mắt
ông sáng hắt lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của
quân ta.


+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm
cầm quốc kỳ trên tháp rùa.
+ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu


đạn cuối cùng.
+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sóng được tên
quan hai bốt ngay giữa chợ mà “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên” -> đó là niềm vui
của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc,
niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.
=> Nghe tin quân ta thắng lớn, ông Hai vui mừng “ náo nức”, “ ruột gan ông lão
cứ múa cả lên”
b. Khi nghe tin làng Dầu theo giặc:
+ Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông, ông sững sờ “Cổ ông lão nghẹn
ắng lại, da mặt tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”.
+ Khi trấn tĩnh được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những
người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông
không thể không tin.
+ Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một
nỗi ám ảnh, day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà
đi”. Về đến nhà, ông “nằm vật ra giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước
mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó
cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”.
- Ông nắm tay lại và rít lên “ Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà
đi làm cái giống
Việt gian bán nước để nhục nhã thế này -> Niềm tự hào về làng như sụp đổ. Trong
ông, không chỉ có sự đau đớn mà có cả sự căm thù với những kẻ làm tay sai cho
giặc.


+ Giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội, nhưng lòng yêu làng, tin
những người cùng làng khiến ông lão bán tín bán nghi.
- Đêm xuống, ông trằn trọc không ngủ được. Cuộc nói chuyện cùng bà Hai với
những câu cộc lốc, nhát gừng “ gì?, Biết rồi”đã diễn tả tâm được tâm trạng đau
khổ, buồn bực, bất an của ông. Tâm trạng bất an của ông Hai được bộc lộ rõ khi

ông Hai nghe thấy “ tiếng léo xéo ở gian trên”. Cái âm thanh ấy đã khiến ông Hai “
lặng đi, chân tay nhủn ra tưởng chừng như không cất lên được” và “ trống ngực
đập thình thịch…ông lão nín thở…”
-> Tin làng theo Tây không chỉ là sự đâu đớn mà đã biến thành nỗi lo lắng, sợ hãi.
- Mấy ngày sau:
+ Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp, hễ
thấy đám đông nào tụ tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “Cam nhông” thì ông lại tự
nhủ “Thôi lại chuyện ấy rồi”.
=> Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường
xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình
theo giặc.
. + Ông Hai tiếp tục bị đặt vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt. Đó
là khi mụ chủ nhà biết chuyện, có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông đã rơi
vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước
của ông Hai đã có một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Đi đâu bây giờ? Không ai
muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian. Ông thoáng có ý nghĩa “Hay là trở về
làng”. Tuy nhiên ông đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là
rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”. Mối mâu thuẫn
trong nội tâm và tình thế của nhân vật như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được
giải quyết. Tuy chưa biết đi đâu nhưng ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo cách
của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”. Nhưng dù xác


định như thế, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng
đau xót, tủi hổ.
+ Đau khổ, ông không biết tâm sự cùng ai ngoài đứa con bé bỏng. Yêu làng Dầu,
ông muốn khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến,
với Cụ Hồ, đó cũng chính là tấm lòng thuỷ chung “trước sau như một” với cách
mạng của ông. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu
xa, bền chặt, chân thành của ông Hai – một người nông dân – với quê hương, đất

nước, với cách mạng và kháng chiến. Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ ròng
ròng khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy mới đáng trân trọng làm sao bởi đó là nỗi đau
của một con người danh dự của Làng như chính bản thân mình.
c. Khi tin đồn được cải chính:
+ Thái độ của ông thay đổi hẳn “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui,
rạng rỡ hẳn lên”. Ông lại chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt
nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi
đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.
d. Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Truyện khắc hoạ thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng,
yêu nước tha thiết.
+ Đặc biệt, việc đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách,
diễn biến tâm trạng nhân vật một cách chân thực, sinh động. Qua ngòi bút miêu tả
têm lí của Kim Lân, từng cung bậc cảm xúc của nhân vật hiện lên một cách rõ nét.
+ Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần
nhuỵ mà đặc sắc, gợi cảm.
-> Chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng
chiến.
3. Kết bài:


- Ông Hai đã trở thành linh hồn của truyện ngắn “ Làng”. KL đã đưa vào văn học
một bức chân dung sống động, đẹp một vẻ đẹp riêng về người nông dân VN trong
những năm đầu cuộc k/c chống Pháp. Với sự hiểu biết sâu sắc về người nông dân
và cuộc sống nông thôn, với tấm lòng trân trọng yêu mến họ, KL giúp chúng ta
hiểu và yêu quý hơn những người nông dân luôn thường trực tình yêu làng yêu
nước sâu sắc, mãnh liệt.
- Phân tích hoàn cảnh của ông Hai: rất yêu làng, tự hào, hay khoe về làng, nhưng
lại phải xa làng chợ Dầu thân yêu để đi tản cư.
- Tình yêu làng của ông lão lại bị đặt vào một hoàn cảnh gay cấn, đầy thử thách:

tin làng chợ Dầu theo giặc, phản bội lại Cách mạng, kháng chiến.
- Ông Hai đã phải trải qua tâm trạng đầy dằn vặt, đau đớn phải đấu tranh tư
tưởng rất quyết liệt để lựa chọn con đường đi đúng đắn cho mình.
Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trải qua các tình cảm, thái độ
khác nhau
+ Thoạt đầu nghe tin làng chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà tản cư nói ra, ông
lão bàng hoàng, sững sờ, nghi ngờ, không thể tin được.
+ Khi cái tin ấy được khẳng định chắc chắn, ông lão buộc phải tin. Tâm trạng
ông Hai bị ám ảnh, day dứt với mặc cảm là kẻ phản bội.
+ Luôn sống trong tâm trạng nơm nớp, lo sợ, xấu hổ, nhục nhã nên chốn biệt ở
trong nhà.
+ Tủi thân, thương con, thương dân làng chợ Dầu và thương thân mình phải
mang tiếng là dân làng Việt gian.
- Ông Hai tiếp tục bị đặt vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt hơn
khi mụ chủ nhà báo sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu khỏi nơi sơ tán.
+ Ông lão cảm nhận hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống.
+ Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng vô cùng bế tắc. Mâu thuẫn nội tâm được đẩy
đến đỉnh điểm.


+ Giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội, nhưng lòng yêu làng, tin
những người cùng làng khiến ông lão bán tín bán nghi.
+ Định quay về làng, nhưng hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội cụ Hồ.
+ Tâm sự với đứa con để củng cố niềm tin vào cách mạgn, kháng chiến; tự nhủ
mình “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
+ Giữ được tình cảm trung thành với cách mạng, kháng chiến, cụ Hồ.
- Tâm trạng nhân vật được miêu tả cụ thể, gợi cảm qua diễn biến nội tâm, ý nghĩ
hành vi, ngôn ngữ nên rất sinh động.
- Ngôn ngữ kể, ngôn ngữ nhân vật đặc sắc, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của
nhân vật.

- Tình huống truyện giúp nhân vật bộc lộ tâm trạng cụ thể, đa dạng.
* Đề 3: Ông Hai ("Làng" - Kim Lân) là một hình tượng nông dân rất mới.
Em hãy chứng minh.
Gợi ý: Hs so sánh với những nhân vật nông dân đã học như Chị Dậu, lão Hạc để
thấy cái mới trong tình cảm, suy nghĩ, tính cách của nhân vật ông Hai.
- Những người nông dân trong các tác phẩm hiện thực thân phận nô lệ, nghèo khổ,
bất hạnh, suốt cuộc đời bị miếng cơm manh áo ghì sát mặt đất.
- Nhân vật ông Hai có địa vị làm chủ, có sự chuyển biến trong tình cảm, suy nghĩ,
những mối quan tâm, tham gia kháng chiến, có tình yêu làng, yêu nước..
- Đánh giá về sự thành công trong việc xây dựng nhân vật của tác giả.
* Đề 4: Phân tích nhân vật ông Hai

Gợi ý: Đảm bảo các luận điểm chính:

- Là lão nông thật thà, chất phác, hay chuyện

- Là người có tình yêu làng sâu

sắc, mãnh liệt
- Yêu nước, yêu k/c -> Nét mới trong tình cảm của người nông dân.
…………………………………………….



×