Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận vận dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng để giải thích cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.95 KB, 25 trang )

Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

PHẦN I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
VÀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1.

Khái quát về thông tin bất cân xứng
Trong giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả
những gì anh ta hay chị ta cần biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự không
cân bằng về thông tin mà mỗi bên nhân được gọi là thông tin bất cân xứng.
Trong mọi nền kinh tế, các giao dịch về tài chính đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là
chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến những dự án đầu tư hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất có
thể. Khi sản xuất hàng hóa và dịch vụ của xã hội liên tục phát triển sẽ làm gia tăng không
ngừng giá trị thặng dư. Những chủ nhân của phần giá trị thặng dư đó luôn tìm các cơ hội đầu
tư tốt nhất nhằm giảm thiểu chi phía cơ hội của việc giữ tiền. Những người muốn thành lập
hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh luôn tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư có chi phí thấp nhất.
Sự gặp nhau của hai luồng nhu cầu trên tạo nên các giao dịch về tài chính và tổng hợp các
giao dịch tài chính đó hình thành thị trường tài chính. Tuy nhiên sẽ không đơn giản để các
giao dịch tài chính đạt đến mục tiêu cuối cùng trên. Nguyên nhân là do sự tương hợp về yêu
cầu giữa người đi vay và người cho vay không phải bao giờ cũng đạt được. Các giao dịch tài
chính luôn gặp phải một mâu thuẫn cơ bản, cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của
các điều kiện cho vay, đó là sự không cân xứng thông tin giữa người cho vay và người đi
vay. Tóm lại trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông tin giữa các bên
tham gia, đó chính là hiện tượng thông tin không cân xứng.
Như vậy bất cân xứng về thông tin có các đặc điểm sau:
+ Thứ nhất có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch
+ Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên
+ Thứ ba, trong hai bên một bên có thông tin chính xác hơn


Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì
không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó
Thông tin bất cân xứng là khái niệm mô tả các tình huống trong đó những người tham
gia tương tác trên thị trường nắm được thông tin khác nhau về giá trị hoặc chất lượngcủa một
tài sản đang được giao dịch (trao đổi) trên thị trường đó. Nói một cách khác, nếu như không
tồn tại tình trạng bất cân xứng đối với việc tiếp cận các thông tin về tài sản, thì các bên tham
gia thị trường được hiểu là "cân xứng" về thông tin. Tóm lại, thông tin bất cân xứng xảy ra
khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác hoặc có thông tin nhưng thông tin
không chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin hơn có những quyết định không
chính xác khi thực hiện giao dịch đồng thời bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có những
hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch. Hai hành vi phổ biến nhất
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 1


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn đối nghịch (adverseselection) và rủi ro đạo đức
(moral hazard)
1.2 Các hệ quả của thông tin bất cân xứng và tác động của nó đến thị trường
1.2.1. Sự lựa chọn đối nghịch
a. Khái niệm lựa chọn đối nghịch
Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra
cuộc giao dịch. Lựa chọn đối nghịch xảy ra trên thị trường tài chính khi những người đi vay
có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) – Tức là những rủi ro
không trả được nợ- là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được
lựa chọn nhất. Do vậy, lựa chọn đối lập khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện

cho nhưng trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể quyết định
không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Lựa chọn đối nghịch (hay còn gọi là lựa chọn ngược, lựa chọn trái ý, lựa chọn bất lợi)
là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói cách khác
trước khi ký hợp đồng. Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi thực hiện giao dịch
mà bên có nhiều thông tin có thể gây ra tổn hại cho bên có ít thông tin hơn. Lựa chọn bất lợi
là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp đồng; nó nảy sinh vì thông tin riêng mà
người thực hiện "giao dịch" có trước khi họ ký hợp đồng, trong lúc đang tính toán xem việc
thực hiện "giao dịch" thì có lợi hay không.
Lựa chọn đối nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng
thông tin bấtcân xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt. Trong điều kiện
thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau và đầyđủ về thứ được
giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ tương xứng vớicái giá mà họ
phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông tin phi đối xứng, nghĩa là một bên trong giao dịch
có nhiều thông tin về đối tượng giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về thông tin có thể
cung cấp những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế
thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận được
thứ không như mình mong muốn.
b. Tác động của lựa chọn đối nghịch đến thị trường
Trên thị trường hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại sản phẩm có mức
chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của bất cân xứng thông tin là yếu tố quan trọng kìm
hãm giao dịch. Người bán luôn có thông tin tốt hơn người mua nên sự nghi ngờ về chất
lượng sản phẩm của người mua là không thể tránh khỏi. Điều đó đẩy người mua đến hai con
đường: hoặc là chọn mặt hàng thay thế hoặc là tìm cách có thêm thông tin về hàng hóa đó
(mua thông tin, thuê chuyên gia thẩm định…). Tuy nhiên, việc làm này tăng chi phí giao
dịch mà người mua phải trả thêm. Những yếu tố này làm giảm nhu cầu của người mua và kết
quả là trên những thị trường như thế doanh số giao dịch sẽ không cao.
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 2



Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Chẳng hạn như trên thị trường tín dụng, người cho vay thường không thể nắm bắt đầy
đủ thông tin về người vay tiền nên sẽ tính một mức lãi suất cho vay có phần bù rủi ro. Những
dự án kinh doanh có rủi ro thấp, lợi nhuận sẽ không đủ trả lãi, chỉ còn lại những dự án có rủi
ro cao mới có thể chấp nhận mức lãi suất cao. Chính vì tình trạng thông tin không cân xứng
về dự án kinh doanh giữa người cho vay và người đi vay nên cuối cùng người cho vay chỉ
toàn cho vay những dự án rủi ro cao hoặc sẽ không chấp nhận cho vay. Điều này làm thu hẹp
thị trường tín dụng. Khi đó, người cho vay đã thực hiện một lựa chọn đối nghịch thay vì cho
vay những khách hàng có mức tín nhiệm cao thì họ lại chọn những khách hàng có mức tính
nhiệm thấp vay.
Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những nhà đầu tư không
biết thông tin về cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể định giá cổ phiếu không
chính xác hoặc mua cổ phiếu của công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Thị trường chứng khoán
không minh bạch thông tin hoặc thông tin không đầy đủ nhà đầu tư thường có khuynh hướng
trả mức giá trung bình cho các loại chứng khoán khác nhau để đề phòng ngừa rủi ro vì thế
những công tu hoạt động kém nhưng biết cách tiếp thị sẽ sẵn sàng phát hành chứng khoán
với mức giá trung bình mà các nhà đầu tư muốn mua trong khi những công ty hoạt động tốt
đòi hỏi một mức giá cao thì có thể phát hành sẽ không thành công. Giao dịch chứng khoán
trong điều kiện thị trường bất cân xứng thông tin. Những người tham gia có thể đẩy thị
trường đến một trạng thái lựa chọn đối nghịch, đó là việc mua chứng khoán của những công
ty hoạt động kém và đẩy khỏi thị trường những công ty có chất lượng tốt. Trong thực tế,
những nhà đầu tư sẽ dần ý thức được khả năng lựa chọn đối nghịch bất lợi của mình nên sẽ
không tiếp tục mua bất kỳ một loại chứng khoán nào nữa, trong khi đó những cổ phiếu tốt do
bị trả giá thấp ngang bằng với giá cổ phiếu trung bình nên cũng không bán ra nữa. Nếu
những diễn biến trên xẩy ra thì nhà đầu tư sẽ quy lưng lại đối với thị trường, thị trường

chứng khoán sẽ mất tính thanh khoản và ngày càng bị thu hẹp, hàng hóa trên thị trường chỉ
còn là những hàng hóa có chất lượng kém. Như vậy thị trường chứng khoán đã không còn
làm tốt vai trò chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
1.2.2 Rủi ro đạo đức
a. Khái niệm rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin bất cân xứng tao ra sau khi cuộc giao dịch
diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính xảy ra cho người cho vay phải chịu một
rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo đức) xét theo
quan điểm của người cho vay, bởi những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay
được hoàn trả. Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có
thể quyết định thôi không cho vay.
Rủi ro đạo đức (hay còn gọi là tâm lý ỷ lại) là kết quả của hành vi bị che đậy và xuất
hiện sau khi ký hợp đồng. Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử
dụng để chỉ một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Rủi ro đạo
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 3


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

đức là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh trong môi trường thông tin bất cân xứng. Rủi ro
đạo đức là hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng, phát sinh do các hành động có tác động
đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người thực hiện các
hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn hại
cho người khác. Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông
tin phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo
hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông

tin. Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém ưu thế
thông tin cho là không đứng đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình.
Để có sự tồn tại của rủi ro đạo đức, ba điều kiện phải được thỏa mãn:
+ Thứ nhất, phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên
+ Thứ hai, phải có một cơ sở nào đó để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức hợp
táckhác nhau giữa các cá nhân (tức là có lý do để đồng ý giao dịch) từ đó làm lộ ra mâu
thuẫn về quyền lợi;
+ Thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện thỏa
thuậncó đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.
Rủi ro đạo đức có những đặc điểm chính sau đây:
+ Thứ nhất, có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu. Một bên tham gia giao dịch không
thể giám sát hành động của phía bên kia.
+ Thứ hai, bên có hành động ẩn giấu dù vô tình hay cố ý sẽ làm tăng xác suất xảy ra
hậu quả xấu.
b. Tác động của rủi ro đạo đức đến thị trường
Trong thực tế, vấn đề rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều thị trường, chẳng hạn:
có một số thị trường mà tình trạng bất cân xứng thông tin dễ được nhận thấy như thị trường
bảo hiểm, thị trường vay tín dụng, thị trường chứng khoán.
Trong thị trường cho vay tín dụng, người vay tiền biết nhiều thông tin hơn người cho
vay về hiệu quả của phương án kinh doanh, khả năng quản lý vốn và mức độ rủi ro của dự án
hơn người cho vay tiền, thậm chí họ còn hiểu rõ uy tín của bản thâm và biết chắc rằng mình
có sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không. Nói tóm lại, trong thị trường cho vay tín
dụng bất cân xứng thông tin sẽ dẫn đến cả lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức.
Trên thị trường chứng khoán, công ty phát hành chứng khoán biết nhiều thông tin hơn
người mua chứng khoán về kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng vốn, khả năng sinh lợi
của tài sản, mức độ rủi ro của dự án…. Công ty phát hành có thể che giấu những thông tin
bất lợi của công ty, thay vào đó là việc trưng ra những kế hoạch kinh doanh và sổ sách kế
toán đã được làm đẹp. Sau khi huy động được vốn thì công ty có thể dùng vốn vào những
mục đích khác với cam kết ban đầu để thu lựi và chuyển dịch rủi ro cho nhà đầu tư, nhà đầu
tư dù muốn cũng không thể kiểm soát được rủi ro này vì biết ít thông tin hơn hoặc năng lực

can thiệp hạn chế. Một trường hợp dễ nhận thấy của rủi ro đạo đức trên thị trường chứng
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 4


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

khoán là tình trạng thao túng các mặt hoạt động của công ty cổ phần và giá cổ phiếu. Các cổ
đông lớn hoặc những người nằm trong ban điều hành công ty do có được thông tin về công
ty hoặc tạo ra những sự kiện rồi liên kết mua bán để đẩy giá cổ phiếu tăng cao kéo những
nhà đầu tư nhỏ lẻ ít kinh nghiệm vào cuộc. Khi những cổ đông lớn đã rút ra khỏi thị trường
thì những cổ đông nhỏ nắm giữ những cổ phiếu giá cao (lựa chọn bất lợi). Trên thị trường
chứng khoán khi thông tin khi thông tin không cân xứng thì những người mua bán trung thực
thường chịu thiệt hại hơn những người mua bán với thông tin nội bộ, nhà đầu tư cá nhân là
những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Khi những người bán trung thực bị thua lỗ kéo dài
thì chắc chắn họ sẽ rút ra khỏi thị trường vì không ai muốn chơi trong cuộc chơi mà mình
luôn ở thế bất lợi, hậu quả là thị trường bị thu hẹp.
1.3. Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong
việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của khủng hoảng tài
chính là:
- Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn
trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Một số nguyên nhân của việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán là do gặp
phải vấn đề thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc do cố tình chiếm dụng vốn vì điều này có

thể có lợi ở khía cạnh nào đó. Tình trạng mất khả năng thanh toán bắt nguồn từ các vụ phá
sản, kinh doanh thua lỗ và các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Bản thân Chính phủ cũng
gặp khó khăn trong việc tìm tài trợ khi gặp khó khăn về thanh toán do những kỳ vọng không
sáng sủa mặc dù trong điều kiện bình thường nền kinh tế hoàn toàn có khả năng chi trả. Sự
mất khả năng thanh toán thường có tính dây chuyền. Vì vậy, khủng hoảng tài chính là điều
không mong muốn.
1.3.1. Các dạng khủng hoảng tài chính
- Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền
gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lượng, thời hạn
cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và
không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng không thể thanh toán các
nghĩa vụ khi đến hạn.
- Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính
thức, vay thương mại) quá nhiều, sử dụng không hiệu quả vốn nên không trả được nợ đúng
hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ
(như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều (Argentina
mới đây hay nhiều nước Châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn cầu hóa kinh tế do các
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 5


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
- Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến
hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải dùng quỹ dự
trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.

- Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị
trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường
chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá
nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ”, bán
tháo” hay thị trường bị đông cứng vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng
khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán).
- Khủng hoảng cán cân thanh toán, cán cân vốn là cấu thành quan trọng nhất của tài
khoản quốc gia: khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài
và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương
mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các nguồn
ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
- Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên
liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như tiền) thì khủng
hoảng thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của “giống
như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
1.3.2. Những yếu tố gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính
Có 5 yếu tố trong môi trường kinh tế có thể dẫn đến việc gây tồi tệ hơn một cách căn
bản cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính, và đưa
đến một cuộc khủng hoảng tài chính: Tăng lãi suất; sự sụt giảm thị trường cổ phiếu; Sự sụt
giảm bất ngờ về mức giá tổng hợp; Tình trạng không chắc chắn tăng lên và Sự hoảng loạn
ngân hàng.
- Sự tăng lãi suất: Như ta đã thấy trước đây, những cá nhân và công ty với những dự án
đầu tư rủi ro nhất chắc chắn là những người sẵn lòng chịu vay với lãi suất cao nhất. Nếu lãi
suất trên thị trường được nâng lên một cách đầy đủ vì hu cầu tín dụng tăng lên hoặc vì sự sụt
giảm lượng tiền cung ứng, những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt bới có khả
năng xảy ra, trong khi đó những vụ maohi hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu vẫn nhiều
khả năng xảy ra. Do hậu quả việc này làm tăng lựa chọn đối nghịch khiến người cho vay sẽ
không còn muốn thức hiện các món vay. Sự sụt giảm quan trọng trong việc cho vay dẫn đến
sự sụt giảm quan trọng trong đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp.
- Sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu: Một sự sụt giảm mạnh trong thị trường cổ phiếu có

thể làm tăng vấn đề chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đúc trong các thị truowfnmg tài chính
và tạo ra một cuộc khủng hoảng tài chính. Một sự sụt giảm do chỗ giá cổ phiếu khiến cho
những người cho vay giảm bới ý định cho vay vì, như chúng ta thấy, giá trị tài sản ròng của
một công ty có vai trò tương tự như vật thế chấp vay, do đó tổn thất từ món cho vay dễ có
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 6


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

khả năng là nghiệm trọng hơn. Do những người cho vay này kém bảo vệ chống lại những
hậu quả của lựa chọn đối nghịch hơn, họ giảm bớt việc cho vay của mình, việc này khiến cho
việc đầu tư tổng sản phẩm cuối cùng giảm.
Ngoài ra, sự sụt giảm nói trên về giá trị tài sản ròng công ty do sự sụt giảm ở thị
trường cổ phiếu gây ra, làm tăng ý muốn gây rủi ro, bởi vì nay họ có ít hơn để mất nếu các
cuộc đầu tư của họ có kết cục tồi tệ. Sự tăng rủi ro đạo đức kết cục khiến cho việc cho vay
trở thành kém hấp dẫn – đây là một lý do khác vì sao một sự sụt giảm ở thịt rường cổ phiếu
và do đó một sự sụt giảm giá trị tài sản ròng, dẫn đến sự giảm bớt hoạt động cho vay và hoạt
động kinh tế.
- Những sụt giảm bất ngờ về mức giá: Sự sụt giảm bất ngờ về mức giá cũng làm giảm
giá trị tài sản ròng của các công ty. Do việc thanh toán nợ đã được cố định theo hợp đồng
thành những khoản danh nghĩa, một sự sụt giảm bất ngờ về mức giá làm tăng giá trị các món
nợ của công ty theo hiện vât (sự tăng sức nặng của món nợ này), nhưng không tăng giá trị
thực của những tài sản của các công ty. Kết quả là giá trị ròng theo hiện vật (hiệu số) giữa tài
sản và nợ theo hiện vật giảm. Do vậy, một sự tụt mạnh mức giá gây ra một sự sụt giảm quan
trọng giá trị tài sản ròng thực và một sự tăng các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức đối mặt với những người cho vay. Một sự sụt giảm bất ngờ về mức giá, như vây, dẫn

đến một kết cục mô tả trên đây trong đó hoạt động cho vay và hoạt động kinh tế giảm xuống.
- Tình trạng không chắc chắn tăng lên: Một sự tăng không bình thường tính không chắc
chắn trong các thị trường tài chính có thể do sự thất bài của một tổ chức tài chính hoặc phi
tài chính nổi tiếng, một sự suy thoái, hoặc sự đổ vỡ thị trường cổ phiếu gây ra, khiến cho
những người cho vay khó phân biệt những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng totost với
những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu -> người cho vay không có khả năng giải
quyết lựa chọn đối nghịch làm họ giảm bớt ý định cho vay, đầu tư và hoạt động kinh tế tổng
hợp .
- Sự hoảng loạn ngân hàng: Các ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính quan trọng
bằng việc tiến hành những hoạt động tạo thông tin, những hoạt động này tạo dễ dàng cho
những cuộc đầu tư sinh lợi đối với nền kinh tê. Như vây, một cuộc khủng hoảng tài chính
trong đó nhiều ngân hàng không còn kinh doanh được nữa (gọi là hoảng loạn ngân hàng) làm
giảm tổng số những hoạt động trug gian tài chính mà ngân hàng thực hiện, như thế, dẫn đến
sự sụt giảm về đầu tư và hoạt độn kinh tế tổng hợp. Một sự giảm sổ lượng các ngân hàng
trong một cuộc khủng hoảng tài chính cũng là giảm sự cung ứng vốn cho người vay, điều
này đãn đến việc tăng lãi suất cao hơn, Do một sự tăng lãi suất cũng làm tăng sự lựa chọn đối
nghịch trong thị trường tín dụng, các vụ hoảng loạn ngân hàng cũng làm tăng thêm sự suy
giảm hoạt động kinh tế qua kênh này.
1.4. Tác động của thông tin bất cân xứng đến thị trường tài chính
Thành phần chính của các cuộc khủng hoảng tài chính là các thông tin không đối
xứng. Thông tin không đối xứng có vai trò chính yếu trong các giao dịch tài chính. Nó đưa
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 7


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


người vay tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là mầm mống cho những kỳ vọng xấu của
người cho vay về người đi vay. Thông tin không cân xứng khiến cho người đi vay và người
gửi tiền do họ khó khăn trong việc phân biệt giữa vấn đề thanh khoản và tình trạng mất khả
năng thanh toán, qua đó dẫn đến việc người sở hữu bán đi những tài sản bằng ngoại tệ của
nước gặp khó khăn.
1.4.1. Tác động của lựa chọn đối nghịch
“Sự lựa chọn đối nghịch” và “Hiểm họa đạo đức” là hai hiện tượng phổ biến nhất xảy
ra trong điều kiện thông tin bất cân xứng, bóp méo quyết định của các chủ thể kinh tế tham
gia trên thị trường. Lợi thế thuộc về những người có thông tin, điều đó không còn xa lạ trong
nền kinh tế.Trong trường hợp nghiêm trọng, thông tin bất cân xứng bóp méo thị trường và có
thể dẫn đến thất bại thị trường. Bất cân xứng thông tin khiến người cho vay không phân biệt
được đâu là đối tượng nên cho vay, khiến người cho vay e dè trong vấn đề cung nguồn vốn
nhàn rỗi của mình. Điều này ảnh hưởng đầu tiên đến những người cần vốn thật sự, sau đó là
lợi ích của người cho vay, và theo đó là ảnh hưởng tới thị trường tài chính.
Một số tác động của thông tin bất cân xứng đối với thi trường tài chính như sau:
- Trong giao dịch bất động sản: Bên bán là bên có ưu thế thông tin về một lô đất hay
ngôi nhà (gặp những điều kiện không tốt như: trong diện giải tỏa, hay ở nơi dễ ngập lụt,
v.v…) còn bên mua có nhu cầu mua đất nhưng không đủ khả năng tìm hiểu về các thông tin
liên quan – là bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là bên mua gánh chịu bất lợi khi mua phải
đất hay nhà không tốt.
- Trong lĩnh vực ngân hàng: Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị
khách hàng che giấu một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín
dụng không hiệu quả. Khách hàng có độ rủi ro cao thường là những khách hàng tích cực nhất
trong việc xin vay. Ví dụ, những người liều lĩnh hay có động cơ lừa đảo thường là những
người hăm hở chấp nhận khoản vay, bởi vì họ biết rõ rằng khả năng trả lại khoản vay là khó
hoặc không xảy ra. Hậu quả của sự lựa chọn đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho
khách hàng có rủi ro cao nên trong trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay
hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng tốt.
- Trong giao dịch chứng khoán: Sự xuất hiện thông tin không cân xứng làm nhà đầu tư
do dự trước việc lựa chọn chứng khoán của công ty A hay của công ty B. Nhà đầu tư không

biết được đâu là công ty tốt, có lợi tức dự tính cao, rủi ro thấp và đâu là công ty tồi, có lợi tức
dự tính thấp và rủi ro cao. Công ty biết rõ về tình hình kinh doanh của mình, nếu họ cung cấp
thông tin không chính xác, nhà đầu tư có thể lựa chọn mua cổ phiếu (hoặc trái phiếu) của công
ty này. Kết quả là chỉ có công ty hoạt động kém bán được cổ phiếu, thị trường cổ phiếu trở
nên kém hiệu quả.
1.4.2. Tác động của rủi ro đạo đức
Thông tin bất cân xứng cũng gây ra rủi ro đạo đức trên thị trường. Thiếu thông tin dẫn
tới giám sát không đầy đủ của chính phủ có thể dẫn tới các rủi ro đạo đức ở chủ thể kinh tế
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 8


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

được chính phủ ủy thác thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách, đó là việc các chủ thể này sử
dụng lãng phí ngân sách.
Thực tế, phần góp vốn của những người lãnh đạo công ty chỉ chiếm một phần nhỏ so
với tổng vốn công ty. Điều này đồng nghĩa với việc họ đang quản lý một phần lớn vốn của
những cổ đông. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý là nguyên nhân xảy ra rủi
ro đạo đức trong các công ty cổ phần. Những người lãnh đạo công ty có thể hành động vì lợi
ích cá nhân mà đi ngược lại lợi ích của các cổ đông. Nó làm tăng các chi phí phục vụ cho lợi
ích của người quản lý công ty. Ngoài việc theo đuổi những lợi ích cá nhân, người quản lý
công ty có thể theo đuổi những chiến lược của công ty nhằm đề cao quyền lực cá nhân mà
không làm tăng lợi ích của công ty. Chính việc không có đủ thông tin khiến các cổ đông sở
hữu không biết đầy đủ những gì người đại diện đang làm và không thể ngăn ngừa những chỉ
tiêu vô ích hoặc gian lận.


Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 9


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

CHƯƠNG II:
VẬN DỤNG LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG GIẢI THÍCH
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008

2.1 Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
2.1.1. Tình hình nước Mỹ năm 2008
Năm 2008 là năm thua lỗ nghiêm trọng của các tập đoàn tài chính lớn tại Mỹ. Đây là
nguyên nhân dẫn tới sự chao đảo mạnh của hệ thống tài chính toàn thế giới, vì trong một thế
giới mở như hiện nay, biên giới là thứ gần như không hề tồn tại trong ngành tài chính. Mặt
khác, các loại chứng khoán bảo đảm bằng địa ốc có nguồn gốc tại Mỹ cũng được bán cho rất
nhiều nhà đầu tư trên khắp thế giới chứ không riêng gì ở nước này.
Đỉnh điểm của cơn khủng hoảng là vào tháng 9/2008 sau vụ phá sản của ngân hàng
đầu tư Phố Wall Lehman Brothers và nguy cơ đổ vỡ của một loạt tập đoàn tài chính lớn của
Mỹ, trong đó có hãng bảo hiểm AIG. Sau cơn hoảng loạn lan rộng khắp các châu lục là sự
đóng băng của thị trường tín dụng vì các ngân hàng đã quá sợ cho vay, bất chấp những nỗ
lực bơm vốn vào hệ thống tài chính của các chính phủ. Các công ty cạn vốn để làm ăn, dẫn
tới sa thải hàng loạt. Người tiêu dùng vừa không thể vay tín dụng để chi tiêu, vừa mất việc,
nên thắt lưng buộc bụng, khiến các ngành sản xuất càng gặp khó.v.v. Cứ thế, lần lượt các
nền kinh tế đầu tàu: Mỹ, khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu, Nhật Bản và Anh đã
cùng tuyên bố suy thoái. Nhiều nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu ở châu Á thì chứng kiến
tốc độ sụt giảm trong kim ngạch xuất khẩu và cũng có nguy cơ suy thoái theo. Thế giới đang

phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất từ trước đến nay.
Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ cuối năm 2007 đã lan nhanh và ảnh hưởng
sâu rộng đến toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường
chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến những nỗ lực chưa từng có để chống
chọi với bão tài chính. Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn suy giảm nghiêm trọng
trước cú sốc tài chính nguy hiểm nhất kể từ năm 1930 ở các thị trường lớn. Ngân hàng thế
giới (WB) nhận định “ GDP toàn cầu năm nay sẽ giảm lần đầu tiên từ sau đại chiến thế giới
lần 2”.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ thực chất là biểu hiện rõ nét nhất của một
quá trình khủng hoảng rất lâu trước đó, sau đây là những mốc sự kiện chính:
-

Năm 2002-2004 : giá cả ở các bang Arizona, Califfornia, Florida, Hawaii, và Nevada

Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 10


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

tăng trên 25% / năm, bùng nổ nhà đất bắt đầu.
- Năm 2005 : bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005.
- Năm 2006: thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động
sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể.
- Năm 2007: kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao
nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay
dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu đê thế chấp nợ,

tăng 79% từ năm 2006.
- Năm 2008: sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 khi ngay cả những ngân
hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế
trước đây, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG,… cũng lâm nạn. Chính
phủ Mỹ đã cung cấp 700 tỉ USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng.
2.1.2. Tình hình các nước trên thế giới trong giai đoạn khủng hoảng
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở Châu Âu, cũng
tham gia vào thị trường tí dung nhà thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vây, bong bóng nhà ở của
Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài
chính của Hoa Kỳ. Những nước Châu Âu bị nổi loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland,
Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.
Iceland là nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên qui mô quốc gia, Chính phủ Iceland
đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán và quốc hữu hóa những ngân hàng đầu. Từ đó,
động nội tệ của nước này mất giá trầm trọng và gần như bị xóa sổ.
Tại Châu Á, kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng Won mất giá hơn 40% kể
từ đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kết từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính phủ
Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và bơm tiền
vào hệ thống tài chính.
Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật và EU tuyên bố rơi vào trạng thái suy thoái,
Mỹ, lần đầu tiền sau 8 năm, chính thức thừa nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng
12/2007. Điều tương tụ cũng xảy ra với Nga, cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Giá dầu
sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dụng đi xuongs ảnh hưởng nghiệm trọng tới hai
mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại, góp phần khiến quốc gia này
rơi vào suy thoái.
2.2. Vận dụng lý thuyết giải thích cuộc khủng hoảng tài chính 2008
2.2.1 Nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: 4 nguyên nhân cơ
bản
Thứ nhất: Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng nhà đất, các khoản cho vay dưới
chuẩn.
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B


Page 11


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Ở Mỹ, hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lần vốn
trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự lien hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất
và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ
xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao làm cho bong bóng nhà đất hình thành, Khi lãi suất
cao thì thị trường dậm chân, người bán nhiều hơn người mua đẩy giá nhà xuống thấp.
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa để biến các khoản
cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản đầy rủi ro cung cấp
cho thị trường.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua
nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất
động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì viecj phát mại tài sản càng
tăng làm giá bất động sản giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng
giảm, rủi ro tín dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục, làm cho giá chứng khoản sụt giảm manh. Các
ngân hàng đầu tư mặc dù không năm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp
duy trì một số danh mục chúng khoán lien quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân
hàng đâu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Thứ hai: Hệ thống tín dụng đổ vỡ
Sự co lại của thị trường tín dụng, sự đổ vỡ của bong bóng nhà đất rất nhiều. Trong
cho vay nhà đát lẫn trong thị trường nợ, việc dung đòn bẩy tài chính là hết sức quan trongm.
Một donh nghiệp có thể đi vay 3 nếu có vốn riêng là 1, như vậy được gọi là sử dụng đòn bẩy
bằng 3 lần. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thực nếu có đòn bẩy tài chính

không lơn hơn 3 thì được coi là bình thường, với hình thức này, trong trường hợp rủi ro
người di vay sẽ chịu rủi ro đầu tiên khi đòn bẩy càng cao thf tức là rủi ro càng lớn. Khi cho
vay, các ngân hàng thường chú ý đến hệ số đòn bẩy này bới vì nếu hệ số đòn bẩy quả cao thì
khi có lãi nguwoif vay được lợi, khi thua lỗ thì ngân hàng phải gánh chịu. Trên thị trường tài
chính, các ngân hàng sư dụng đòn bẩy cao hơn, co khi lên đến cả tram lần do các ngân hàng
đầu tư các công ty tài chính không có qui định nghiêm ngặt về vấn đề này.
Thứ ba: thị trường thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ.
Các ngân hàng thương mại chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước, còn
các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính chịu sự giám sát ít hơn. Các cơ quan quản lý lỏng
lẻo, không theo kiepj hoạt động của tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng dẫn đến những rủi
ro khôn lường. Có tiền, các công ty thoải mái cho khác hàng vay bằng tiền của các ngân
hàng đầu tư cung caaos thông qua việc mua lại danh mục cho vay của các công ty nay. Các
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 12


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

ngân hàng này, trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại, sẽ phát hành chứng khoán để vay
tiền. Danh mục cho vay được chia ra thành các mục như rủi ro ít, rủi ro cao… tùy dịnh mức
tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại chứng khaons
không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vây, rủi ro trong việc cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính
sang ngân hàng đàu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đổ tiền mua các chứng khaons nay, nhờ vậy,
chính họ đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trwuofng bất động sản ở Mỹ tăng
nóng.
Thứ tư: Khủng hoảng niềm tin

Theo giáo sư Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ sự sụp đổ thảm khốc của
niềm tin, Các ngan hàng đánh đố lẫn nhau về mức đọ cho vay cũng như tài sản, Những giao
dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấy những trượt giá trị tài sản thực của
ngân hàng. Đay là một trò chơi mà hi người ta bắt đầu cảm nhận “mùi vị” của sự thua lỗ và
nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ sẽ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả
người chơi đều thua lỗ.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy và độ tin cậy đó đã bị xói
mòn xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy xuống một
mức thaaos mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục.
2.2.2.Vận dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng giải thích cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008
Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất là gia tăng nguồn vốn tài trợ để mua bán nhà ở
thông qua kỹ thuật “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi hệ thống kiểm soát
không theo kịp. Trước đây ở Mỹ, nguồn vốn cho vay mua bất động sản chủ yếu do ngân
hàng cung cấp, vì vậy lượng tiền cho vay có giới hạn tùy thuộc vào lượng tiền gửi của người
dân và những hạn chế về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Chính phủ đối với
ngân hàng. Năm 1980 Chính phủ Mỹ ban hành Luật Giao dịch Thế chấp Tương đương
(Alternative Mortgage Transaction Parity Act), nới rộng những quy tắc cho vay và khuyến
khích những kênh tài trợ khác phi ngân hàng. Đạo luật này đã góp phần cho ra đời của nhiều
công ty cho vay thế chấp và không bị ràng buộc bởi các luật lệ của ngân hàng. Ngay cả
những ngân hàng cũng thành lập hoặc liên kết với các công ty cho vay thế chấp làm bùng nổ
các kênh cung cấp cho thị trường bất động sản.
Đồng thời, để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập Hiệp hội quốc
gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage Association – gọi tắt là Fannie Mae) và
Tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 13



Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Freddie Mac). Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ
vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp "dưới chuẩn" (subprime
mortgages) của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế
chấp” (Mortgage-backed Securities) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh
khoản cho ngân hàng. Như vậy những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản
phẩm tài chính thông dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ. Với niềm tin vào
tương lai bất động sản Mỹ tăng giá liên tục nên các tập đoàn tài chính, ngân hàng và ngay cả
các nhà đầu tư cá nhân ở các nước khác cũng mua đi bán lại “trái phiếu tái thế chấp” được
cho là an toàn và có lãi suất cao. Nhưng khi thị trường bất động sản suy thoái, giá bất động
sản giảm thậm chí dưới mức cho vay, các tổ chức tài chính, ngân hàng nắm giữ nhiều “trái
phiếu tái thế chấp” ngoài việc “tự lỗ” còn bị người gửi tiền hoảng loạn đòi rút tiền hàng loạt,
trong khi các ngân hàng khác cũng dè dặt cho vay (trong thị trường liên ngân hàng) dẫn đến
mất khả năng thanh khoản, điển hình như Northen Rock của Anh và Lehman Brothers của
Mỹ.
Thứ hai , Có sự khác biệt rất lớn giữa người cho vay ( tổ chức tín dụng) và người đi
vay ( người nắm giữ các tài sản thế chấp là các bất động sản kém thanh khoản ). Chính việc
hạ chuẩn cho vay tín dụng của các tổ chức tài chính là cơ sở để người đi vay có thể dễ dàng
tiếp cận nguồn vốn của họ một cách dễ dàng ngay cả khi trạng thái bất động sản của họ đang
có dấu hiệu kém thanh khoản. Các tổ chức tín dụng không được cung cấp thông tin về trạng
thái của các loại bất động sản này một cách đầy đủ kết hợp với việc lới lỏng tín dụng dẫn đến
tình trạng bất cân xứng giữa hai bên được kéo dãn ra , từ đó cũng hình thành các khoản nợ
xấu cho tổ chức tín dụng Mỹ còn người đi vay thì được lợi.
Ngoài ra trong hai bên thì bên nắm giữ tài sản thế chấp bất động sản biết rõ về tình
trạng kém thanh khoản của mình tuy nhiên họ lại đẩy rủi ro đó về phía các tổ chức tín dụng
của Mỹ và bên phía các tổ chức tín dụng do không nắm giữ nhiều thông tin hơn nên vô tình
nắm giữ các bất động sản này.

Thực tế cho thấy muốn vay ngân hàng để mua nhà trả góp ở Mỹ, người vay phải đảm
bảo “chuẩn” gồm 3 điều kiện cơ bản là: có tiền đặt cọc ít nhất bằng 10% số tiền mua nhà;
chứng minh có thu nhập ổn định sao cho số tiền trả góp hàng tháng không quá 28% thu nhập
và có điểm tín nhiệm vay trả sòng phẳng. Mặt khác, ngân hàng cũng chỉ được phép cho vay
tùy thuộc vào lượng tiền gửi của người dân và những hạn chế về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ lệ
dự trữ bắt buộc của Chính phủ đối với ngân hàng.
Tuy nhiên, để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn (low- and
monderate - income) có điều kiện sở hữu nhà ở, Chính phủ Mỹ có chương trình “cho vay
dưới chuẩn”. Các ngân hàng thương mại khi cho đối tượng này vay thì được hai tổ chức
Fannie Mae và Freddie Mac mua lại các khoản vay này. Khi thị trường bất động sản suy
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 14


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

thoái, những người thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn không có điều kiện để trả nợ.
Việc cho vay dưới chuẩn là không xét khả năng chi trả và điểm tín dụng theo quy định,
nhưng đổi lại người vay phải trả lãi suất cao hơn từ 1 đến 2%. Ngoài ra việc cho vay dưới
chuẩn còn thể hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất động sản thế chấp, người mua chỉ
cần đóng góp 15%. Nghĩa là người dân chỉ cần có 150.000 USD là có thể được vay 850.000
USD để mua căn nhà 1 triệu USD. Nhiều công ty cho vay thế chấp hoặc ngân hàng còn cạnh
tranh thu hút khách hàng bằng các gói tín dụng hấp dẫn khác. Đây là cơ hội cho các nhà đầu
cơ bất động sản vì khi thị trường bất động sản đang lên, chỉ cần có một ít tiền là có thể đặt
cọc mua nhà, vài tháng sau giá nhà lên bán lấy lãi.
Ngoài ra, việc cho vay dễ dãi “dưới chuẩn” còn do tiền cho vay được thu về thông
qua “chứng khoán hóa”, thông qua phát hành “trái phiếu tái thế chấp” bất động sản thế chấp.

Dưới hình thức này người cho vay và người vay không biết nhau, ngân hàng chỉ còn là đơn
vị trung gian cho vay sau đó chuyển nhượng khoản vay cho công ty cho vay thế chấp để
công ty phát hành “trái phiếu tái thế chấp” chuyển nhượng trên thị trường là xong. Ví dụ
Ngân hàng Northen Rock có cơ cấu vốn 25% vốn từ khoản gửi tiết kiệm, 25% từ thị trường
tiền tệ liên ngân hàng, 50% từ việc chứng khoán hóa. Đây là khuyết tật nghiêm trọng của
việc chứng khoán hóa bất động sản thế chấp nhưng thiếu kiểm soát.
Nguyên nhân thứ ba là giá bất động sản tại Mỹ tăng liên tục đã lôi kéo các nhà đầu tư
và cả người dân đổ xô vào kinh doanh bất động sản làm cung vượt quá cầu.
Việc cho vay dễ dãi tạo điều kiện cho đông đảo các nhà đầu tư tham gia đầu cơ bất động sản,
tạo cầu ảo đẩy “bong bóng” bất động sản lên cao. Thị trường bất động sản Mỹ tăng liên tục
trong vòng nhiều năm qua. Theo thống kê của Cơ quan Tài chính nhà ở Liên bang (OFHEO)
thì nếu Chỉ số giá nhà ở (HPI) trung bình của toàn Liên bang năm 1980 là 100 điểm, thì tới
năm 1998 Chỉ số giá nhà ở là 206 điểm và tới Quí 4/2007 là 387 điểm, cá biệt có những
Bang như New England là 613 điểm. Cũng theo thống kê của cơ quan này thì giá nhà ở Quí
I/2005 tăng 12,5% so với Quí I/2004, trong khi đó giá các loại hàng hóa và dịch vụ khác chỉ
tăng 3,1% cùng thời kỳ.
Chính giá nhà ở tăng liên tục đã thúc đẩy người dân đổ xô vào mua bán bất động sản,
làm cho cung cầu mất cân đối, cung vượt xa cầu. Theo thống kê của Cơ quan Thống kê Hoa
kỳ thì từ năm 1997đến năm 2007, bình quân mỗi năm ở Mỹ xây dựng thêm 1.233.000 ngôi
nhà ở. Nếu bình quân mỗi ngôi nhà có diện tích khoảng 150 m2 sàn thì hàng năm nước Mỹ
xây dựng được gần 200 triệu m2 nhà ở. Riêng năm 2007 có tới 17.958.000 ngôi nhà bỏ
không, trong đó có đến 13.276.000 ngôi nhà bỏ không suốt năm.
Tóm lại do sự bất cân xứng về thông tin của các tổ chức tín dụng Mỹ và người đi vay
có tài sản thế chấp là các bất động sản kém thanh khoản dẫn đến những hệ quả sau đó của nó
là sự lựa chọn đối nghịch của tổ chức tín dụng Mỹ và rủi ro đạo đức đến từ người đi vay vốn.
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 15



Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Ngoài ra do những lựa chọn mang tính sai lầm của các tổ chức tín dụng Mỹ trong hoạt
động cấp tín dụng cho người đi vay vốn đầu tư bất động sản gây ra những hậu quả lớn cho
nên kinh tế Mỹ. Dòng vốn chảy vào thị trường bất động sản nhưng lại không hề hay biết về
tình trạng đang dần đóng băng của các loại tài sản bất động sản này. Do đó tình trạng ứ đọng
nguồn vốn ngày càng trở nên nghiêm trọng và khả năng thanh khoản của nhà đi vay vốn bị
đóng băng kéo theo sự sụp đổ của các tổ chức tín dụng là một điều tất yếu.
Mặt khác trước đó các nhà đi vay vốn đầu tư vào hoạt động bất động sản đã sử dụng
vốn vay từ các tổ chức tín dụng như một đòn bẩy để gia tăng lợi nhuận cho mình. Tuy nhiên
với việc dùng đòn bẩy tài chính thì ngay trong nó đã tiềm ẩn rủi ro không thể lường trước
được. Khí đòn bẩy tài chính không tạo ra được giá trị lợi nhuận cho nhà đầu tư thì nó chính
là gánh nặng cho nhà đầu tư về chi phí sử dụng nguồn vốn đó.Chính việc các tài sản bất
động sản nhà đầu tư đang giữ mất dần tính lỏng đi khiến cho nhà đầu tư khó có khả năng thu
hồi nguồn vốn của mình và tình trạng rủi ro đạo đức là điều không tranh khỏi. Đó là việc nhà
đầu tư có tâm lý ỷ lại , trốn tránh các hợp đồng đã ký kết trước đó và nguy cơ mất nguồn
vốn vào thị trường bất động sản là rất lớn. Ngược lại những nhà cấp tín dụng rơi vào trong bị
động và phải hứng chịu toàn bộ rủi ro của các nhà đầu tư trước đó đã chuyển giao.

Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 16


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


PHẦN III:
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG NĂM 2008
ĐẾN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM.

3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng đến thị trường tín dụng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ, sau đó lan nhanh
sang các nước ở Châu Âu, rồi đến Châu á. Những nước nhỏ và đang phát triển cũng bị ảnh
hưởng dây chuyền do hệ lụy từ những nước lớn như Indonesia, Thái Lan, Việt Nam... Một
đặc điểm nữa là khủng hoảng kinh tế lần này bắt nguồn tự sự đổ vỡ của ngân hàng và các
định chế tài chính lan sang các lĩnh vực khác.
Việt Nam không nằm ngoài những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng
ảnh hưởng ở mức độ và sự thể hiện khác nhau. Là một nền kinh tế còn kém phát triển, tăng
trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu nhưng nhiều loại nguyên, nhiên vật liệu phải nhập ngoại nên
ảnh hưởng trước hết là kim ngạch xuất khẩu giảm.
Do đó Việt Nam bị ảnh hưởng ít của khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong khi đó
ngành Ngân hàng là ngành nhạy cảm với ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - chính trị sau
một thời gian vật lộn và trụ vững với lạm phát (năm 2008), hầu như không bị tác động lớn
của cuộc khủng hoảng tài chính đã và đang xảy ra (do chưa có sự liên thông với hệ thống
ngân hàng các nước hoặc liên thông ở mức độ thấp) vẫn đang hoạt động ổn định, hầu hết các
ngân hàng đang kinh doanh có lãi, do đó Nhà nước không phải tập trung lo cho lĩnh vực này
mà tập trung vào việc giảm tác động của cuộc khủng hoảng, giữ vững tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của
Chính phủ.
Cũng trong thời gian này, khoảng 2006 đến 2008 tỷ lệ tăng trưởng hoạt động tín dụng
các NH tại VN đang ở mức cao, năm 2006 đạt 24.8%, năm 2007 bùng nổ với con số 48,9%,
năm 2008, tăng trưởng giảm xuống 23,4%. Lãi suất huy động trong thời gian này cũng ổn
định quanh con số 9 -10%/năm, tuy vào thời gian năm 2008 có tăng mạnh lên tới 19% trong
một thời gian ngắn, nhưng là do ảnh hưởng của lãi suất liên ngân hàng tăng. Dấu ấn của
khủng hoảng kinh tế thế giới chưa chạm tới Ngành ngân hàng Việt Nam trong thời điểm này.


Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 17


Trường đại học thương mại

Tăng trưởng

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

T8/2013

24.8%

48.9%


23.4%

37.5%

31.2%

12%

8.91%

5.4%

tín dụng
Lãi suất
động

huy >9%/năm

9% - 9%
10%
19%

- 9%

11%
12%

- 11%
14%


- 9%

7% - 8%

Bảng 1: Ti lệ tăng trưởng tín dụng và lãi suất huy động giai đoạn 2006-2013
Cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài đã phá vỡ các hoạt động kinh tế toàn cầu. Kinh tế
thế giới cuối năm 2008 và đầu năm 2009 tiếp tục suy giảm mạnh, các nước công nghiệp phát
triển đang rơi vào giai đoạn khủng hoảng tồi tệ nhất trong gần 70 năm qua. Đối với
Việt Nam, mặc dù hệ thống tài chính vẫn chưa bị ảnh hưởng vì hệ thống tài chính ngân hàng
Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập; nhưng trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp
của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một số ngân
hàng nhỏ có thể thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam có
nguy cơ bị ảnh hưởng về sau. Nhưng sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu
tư, kiều hồi… đã bị tác động tương đối rõ. Đầu 2009, để tăng đà phát triển và ổn định nền
kinh tế tránh ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, Chính phủ đã thông qua gói giải pháp
sử dụng 17.000 tỷ đồng (tương tương 1 tỷ USD) để hỗ trợ lãi suất, được ngành Ngân hàng
triển khai một cách khẩn trương, nghiêm túc và đã đạt kết quả bước đầu về thực hiện mục
tiêu kích cầu kinh tế. Cùng với việc triển khai các giải pháp khác, đến cuối tháng 7/2009, các
chỉ tiêu kinh tế của nước ta đưa Việt Nam nằm trong số 12 nước có tăng trưởng dương. Đó là
thành công bước đầu của các giải pháp kích cầu, ngăn chặn suy giảm kinh tế của Việt Nam.
Năm 2009 và 2010, tăng trưởng tín dụng của Việt Nam vẫn đạt mức trên 30%.
Tuy nhiên các diễn biến xấu về thị trường sản xuất trong nước dần có tác động sau
một vài năm gắng gượng, thị trường Bất động sản cũng lao dốc sau một thời gian tăng
trưởng nóng khi về cuối năm 2011. Đây dường như chỉ là khởi đầu cho tan vỡ, cho dù tại
thời điểm này, chính phủ đã thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng, đưa con số tăng trưởng
tín dụng về còn khoảng 12%. Còn nguyên năm 2012 lại chứng kiến sự thê thảm không khác
gì tình trạng vỡ bong bóng bất động sản, điều này làm cho liên tưởng thị trường BĐS của
Mỹ tan vỡ vốn dĩ là nguyên nhân khởi phát khủng hoảng 2008. Tuy không phải tất cả các
phân khúc, nhưng chỉ riêng chuyện gần 200.000 căn hộ các loại tồn kho sau một thời gian

ngắn ồ ạt đầu tư từ Bắc vào Nam đã là một cái gì đó không thể cứu vãn nổi. Từ thời điểm
này trở đi, tỷ lệ nợ xấu bắt đầu tăng cao tác động rõ rệt tới thị trường tín dụng Ngân hàng.
Nợ xấu sau nhiều năm ổn định và nằm trong kiểm soát, thì năm 2012, thực trạng các
ngân hàng giấu nợ xấu với con số báo cáo và con số điều tra chênh lệch nhau đáng kể của cơ
quan Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cho thấy dấu hiệu của các vấn đề bất ổn trên thị trường
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 18


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

tín dụng Việt Nam. Con số của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước công bố cuối năm 2012 tỷ lệ
nợ xấu phải tầm 8,6% khác với các báo cáo ở mức 4.9% của các Ngân hàng cho thấy việc
kiểm soát nợ xấu thực sự có vấn đề. Mặc dù tăng trưởng tín dụng đã được kiềm chế còn mức
dưới 9% năm 2012, tuy nhiên vấn đề nợ xấu tăng thể hiện mặt dư âm tồn của cuộc khủng
hoảng bởi nợ xấu hầu hết xuất phát từ các khoản vay trong giai đoạn tăng trưởng của thị
trường tín dụng của Việt Nam trong thời gian khủng hoảng.

Vàng: Con số báo cáo
Xanh: Con số của Ngân hàng Nhà nước
Biểu đồ 1: Tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng báo và và theo Ngân hàng Nhà nước
Giữa năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã bắt buộc phải một lần nữa “tái cơ cấu nợ
vay” cho các doanh nghiệp bất động sản, chuyển nhóm nợ từ xấu sang nhóm đỡ xấu hơn, và
do vậy các ngân hàng vẫn còn thời gian để thu xếp việc thanh toán với con nợ đến giữa năm
2014, chứ không nhất thiết phải siết nợ thẳng thừng.
Mặc dù chính phủ đã có nhiều biện pháp áp dụng để tránh ảnh hưởng tiêu cực của
cuộc khủng hoảng kinh tế, tuy nhiên các tác động của nó tới Việt Nam đã dần dần luân

chuyển, từ ảnh hưởng vào nền sản xuất, xuất nhập khẩu, chuyển sang thị trường tài chính
còn non kém tại Việt Nam. Ảnh hưởng tất yếu này đã và đang tác động tiêu cực tới thị
trường tài chính Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2013, việc nợ xấu NH mới giảm nhẹ còn
khoảng 4,65% cho thấy tín hiệu tích cực, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết
trước mắt.
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 19


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

3.2. Tác động của cuộc khủng hoảng đến thị trường chứng khoán.
3.2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam trước 2008
Việc buôn bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ sau khi các doanh
nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhưng thị trường chứng khoán (TTCK) nước ta mới chính
thức hoạt động từ năm 2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố
Hồ Chí Minh ngày 28-7-2000. Khi đó mới có một vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số
vốn 27 tỉ đồng và 6 công ty chứng khoán thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hoá của thị
trường mới chỉ tăng lên 0,5 tỉ USD. Vài năm gần đây mức vốn hóa của thị trường chứng
khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) và
đến cuối tháng 4- 2007, đạt 24,4 tỉ USD (chiếm 38% GDP), tăng hơn 1400 lần so với năm
2000, và nếu tính cả trái phiếu thì đạt mức 46% GDP.
Số lượng doanh nghiệp niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài (FDI) đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có sự gia tăng đáng kể. Tính đến
nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ vào khoảng 4 tỉ USD. Theo dự tính, quy mô của thị
trường còn tiếp tục được mở rộng do các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá sẽ tiếp tục
niêm yết vào năm 2007-2008 trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng

Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam với số vốn lên tới hàng ngàn tỉ đồng.
Chỉ số VN-Index cũng đã chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường.
Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28-7- 2000, VN-Index ở mức 100 điểm thì tháng 3 –
2007, chỉ số này đã đạt ở mức kỷ lục trên 1.170 điểm và sau một vài tháng giảm sút, đến
giữa tháng 5-2007 VN-Index đã lên 1.060 điểm), tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Đặc biệt,
số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 122006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài
khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng các nhà đầu tư có tổ chức cũng tăng lên đáng kể,
hiện có 35 quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó 23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12
quỹ đầu tư trong nước. Ngoài ra, còn có gần 50 tổ chức đầu tư theo hình thức uỷ thác qua
công ty chứng khoán.
Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát triển nhanh chóng.
Tính đến giữa năm 2007 trên thị trường có 55 công ty chứng khoán, tăng mạnh hàng năm,
vốn điều lệ bình quân đạt 77 tỉ đồng/công ty. Ngoài ra, còn có sự tham gia của 18 công ty
quản lý quỹ, 41 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 6 ngân hàng lưu ký.
Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) đã tạo khung pháp
lý cao cho TTCK phát triển góp phần thúc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường tài chính
quốc tế của TTCK Việt Nam.
Những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký,
công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý hoạt động
của TTCK từng bước được hoàn thiện. Đáng chú ý là Chính phủ đã chỉ đạo việc phối hợp
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 20


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng
cường kiểm soát TTCK ở nước ta, do đó thị trường này vẫn đang ổn định và phát triển khá
mạnh.
3.2.2. Tác động của cuộc khủng hoảng đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng đã tạo tâm lý lo sợ và bầy đàn đã làm trì trệ các hoạt động kinh tế,
triển vọng kinh tế của các nước công nghiệp phát triển liên tục được điều chỉnh theo hướng
đi xuống. Việt Nam một nền kinh tế vừa gia nhập WTO được 2 năm, tăng trưởng kinh tế dựa
khoảng 60% vốn đầu tư, định hướng xuất khẩu.... lại vừa trải qua lạm phát và nhập siêu cao
nên cuộc khủng hoảng thế giới đã tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Các nghiên cứu cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác động lớn trực
tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ sở của những kết luận trên
là tính liên thông và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế và thị trường tài
chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách thấu đáo có thể thấy rằng mặc dù
không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng TTCK Việt Nam cũng đã chịu sự tác động nhất định
từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các phương diện sau
đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc
gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên
minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị
trường trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi nhuận
của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt
giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ
phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước ngoài
đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5 ngàn tỷ đồng
đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần không nhỏ vào sự sụt giảm
của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn an” các
nhà đầu tư là sẽ không có chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam là các quỹ đóng. Tôi cho rằng, ý kiến trên là không thuyết phục. Vì
xét về bản chất thì các quỹ đóng không mua lại chứng chỉ đã phát hành cho nhà đầu tư

nhưng họ hoàn toàn có thể thực hiện tái cấu trúc danh mục đầu tư của mình, trong đó có việc
bán chứng khoán ở thời điểm này để mua vào thời điểm khác hoặc bán ở thị trường này để
đầu tư vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị trường ngoại hối. Thực tế cho thấy, đồng nội
tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã mất giá so với đồng USD vài chục
phần trăm trong khi sự giảm giá của đồng Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh
khác là không đáng kể. Khả năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam
sẽ tiếp tục mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để mua ngoại tệ
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 21


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu kịch bản diễn ra đúng như họ dự đoán thì khi đó họ sẽ bán
ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào chứng khoán.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK Việt
Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc
biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt
Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua
không được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có hiện
tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản lĩnh
cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi trường
thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một lúc và
chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định chính sách và
điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi làm
giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua bán theo đám đông
lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá

xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được
phản ứng tức thời từ TTCK. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là
nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá chứng
khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin tốt về
nền kinh tế được phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng
giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số
chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó cho thấy nhà
đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước nữa.
Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế
nào và sẽ có hành vi đầu tư tương tự. Thời gian gần đây, diễn biến của các chỉ số chứng
khoán Việt Nam luôn cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu
tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”.
Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy
TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh ở một
hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn hơn rất nhiều so với thời
kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh “sức
khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán
xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám mua
do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin” thị
trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về
tính thanh khoản.
Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 22


Trường đại học thương mại


Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn đề khác mà trong phạm vi
bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể như các vấn đề về khung pháp lý,
vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh bạch của thị trường…
3.3. Tác động của cuộc khủng hoảng đến thị trường ngoại hối.
Một cách tổng quát, thị trường ngoại hối( FOREX) là nơi diễn ra việc mua bán các
đồng tiền khác nhau.Theo nghĩa hẹp, thị trường ngoại hối là nơi mua bán ngoại tệ giữa các
ngân hàng, tức thị trường Interbank do hoạt động mua bán ngoại tệ chủ yếu xảy ra giữa các
ngân hàng, chiếm khoảng 85% tổng số giao dịch.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ
tháng 10 năm 1994 tại Việt Nam. Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao
gồm các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển trong nước, ngân hàng liên
doanh với nước ngoài và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Ngân
hàng nhà nước tham gia vào thị trường như các thành viên khác, đồng thời can thiệp nhằm
mục tiêu quản lí khi cần thiết.
Kể từ 25/12/2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh tăng thêm 3%, từ
mức 16.494 đồng ăn một đôla lên 16.989 đồng, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại
có thể kinh doanh với giá trần 17.500 đồng. Riêng biên độ tỷ giá (mức dao động giữa giá
kinh doanh của các ngân hàng với tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố)
vẫn giữ ở +/- 3%.
Lần điều chỉnh tỷ giá này là vì mục tiêu linh hoạt, theo tín hiệu cung cầu thị trường,
hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, vì mục tiêu quản lý dài hạn, tạo lòng tin cho nhà đầu
tư và người dân vào chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nứơc đã nhiều lần lần điều
chỉnh tỷ giá ngoại tệ này, diễn biến thị trường sẽ rất thuận lợi, tốt hẳn lên so với trước. Tỷ
giá USD trên thị trường tự do chiều 24/12 là 17.270 đồng, chỉ hơn 1% so với tỷ giá khi điều
chỉnh. "Ngân hàng Nhà nước đủ sức để kiểm soát thị trường".
Tuy nhiên, lần điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ này không phải Việt Nam phá giá tiền đồng.
Trong năm 2008,chính sách tiền tệ của Việt Nam được thực hiện linh hoạt, thận trọng và

theo diễn biến của nền kinh tế. Trong tháng 12, Ngân hàng nhà nước tiếp tục điều chỉnh
giảm lãi suất cơ bản xuống còn 8,5% một năm, lãi suất tái cấp vốn xuống 9,5% một năm, lãi
suất tái chiết khấu còn 7,5% mỗi năm. Biên độ tỷ giá USD/VND cũng được nới rộng +,-3%
so tỷ giá ngân hàng. Nhờ đó, các tổ chức tín dụng đã hạ được lãi suất đầu ra, giúp doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn để phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo
thuận lợi xuất khẩu.

Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 23


Trường đại học thương mại

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Năm 2009 được coi là một năm có nhiều biến động đối với Thị Trường Tiền Tệ
(TTTT). Có thể nói Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế, nhưng TTTT vẫn không ổn
định do độ co dãn hẹp, mức độ rủi ro cao. Mặc dù lãi suất cơ bản được giữ khá lâu ở mức
7% để kích cầu, nhưng điều này cũng không giảm được những biến động trên TTTT. Lãi
suất và tỷ giá liên tục biến động với nhiều dấu hiệu bất thường. Không ít thời điểm, tỷ giá
trên thị trường tự do có độ vênh lớn so với thị trường chính thức, khiến cho tình trạng đôla
hóa nền kinh tế càng tăng, tạo điều kiện cho hoạt động găm giữ, đầu cơ, lũng đoạn thị
trường, tác động xấu đến thị trường ngoại hối.
Sự biến động trên thị trường ngoại tệ có xu hướng tăng giam liên lục, lên xuống thất
thường. Việc nâng tỷ giá là một trong nhưng giải pháp tạm thời của ngân hàng nhà nước.
Theo Quyết Định của ngân hàng nhà nước kể từ ngày 18/8/2010 tỷ giá bình quân là
18.932VNĐ/USD thay cho mức 18.554 VNĐ/USD với biên độ vân giữ nguyên -+3%, giá
trần giao dịch tại các ngân hàng sẽ không vượt quá 19.500 VNĐ/USD. Đây là lần điều chính
giá tương đối cao lên gần 2% do nhu cầu của tình hình kinhh tế thế giới thời điêm đó.

Nhìn chung, điều chính của ngân hàng Nhà nước không gây bất ngờ vì thực chât tỷ
giá trên thị trường tự do đã tăng và có dấu hiệu căng thẳng trong thời gian này. Sự xáo trộn
này gây lên hệ lụy nghiêm trọng trong các ngân hàng đó là đồng loạt đua nhau tăng giá. Như
ngân hàng Eximbank đã niêm yết giá mua vào 19.295VND/USD(mua tiền mặt) và
19.305(mua chuyên khoản). như vậy ti giá USD đă tăng 5,46% so với VND trong khi
ngưỡng an toàn là 6%
Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã tác động không nhỏ tới sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp (DN). Trong khi các DN xuất khẩu có phần hưởng lợi từ tăng tỷ giá, thì đa số
các DN khác, đặc biệt là các DN nhập khẩu, cùng với các tổ chức, cá nhân... đều chịu áp lực
chính từ sự tăng giá của USD. Trước tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về cung cầu do
một lượng lớn ngoại tệ được hút vào sàn giao dịch vàng, cũng như các DN có ngoại tệ thu
được từ hoạt động kinh doanh lại găm trên tài khoản, không bán cho các ngân hàng. Vì vậy
Chính phủ phải dùng biện pháp hành chính yêu cầu 6 Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước
phải bán ngoại tệ cho ngân hàng để tăng cung cho thị trường, các ngân hàng thương mại
(NHTM) có trạng thái ngoại tệ âm, sẽ được NHNN bán ngoại tệ để đảm bảo tính thanh
khoản. Sau những điều chỉnh này, cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã có những chuyển
biến tích cực hơn, tỷ giá niêm yết mua, bán USD/VND của các NHTM gần sát với tỷ giá hối
đoái trên thị trường.

Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Page 24


Trường đại học thương mại

Bài thảo luận nhóm 01- TCNH.19B

Kinh tế học tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính


Page 25


×