Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Đề cương môn kinh tế học tiền tệ có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.42 KB, 41 trang )

1

ĐỀ CƯƠNG MÔN KTẾ HỌC TIỀN TỆ, NH & TTTC

CÂU 1: Hãy phân tích vai trò của tiền trong nền kinh tế? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
tiền?
Tiền tệ là ptiện trao đổi, ng ta không còn quan tâm đên gtrị nội tại của tiền là đủ gía hay k đủ
giá mà bất cứ vật nào có thể chuyển đổi ra hàng hóa đáp ứng cho nhu cầu giao dịch hay thanh
toán đều là tiền.

a. Vai trò của tiền trong nền kinh tế
Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở ba mặt:
-Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng
hóa. C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hàng sản xuất hàng hóa nếu như không có
tiền và sự vận động của nó.
Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông là cho việc đo
lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự
vận động của hàng hóa trong lưu thông tiến hành một cách trôi chảy. Mặt khác, khi sử dụng
tiền trong sản xuất kinh doanh giúp cho người sản xuất có thể hạch toán được chi phí và xác
định kết quả sản xuất kinh doanh, thực hiện được tích lũy tiền tệ để thực hiện tái sản xuất kinh
doanh
Tiền tệ trở thành công cụ duy nhất và không thể thiêu để thực hiện yêu cầu quy luật giá trị. Vì
vậy, nó là công cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa.
-Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Trong điều kiện
của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ không những
là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia mà còn là phương
tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy vai trò của
mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế, nhất là đối
với các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới hình thành và phát triển làm cho
xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác khoa học


kỹ thuật giữa các nước.
-Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế-xã
hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều không thể thoát ly khỏi các quan
hệ tiền tệ. Trong điều kiênh tiền tệ trở thành công cụ có quyền lực vạn năng xử l và giải tỏa
mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội không những trong phạm vi quốc gia mà còn
phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà tiền tệ có thể thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi cho
những ai đang nắm giữ tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực
của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó.
b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tiền
Nghiên cứu tiền tệ giúp chúng ta hiểu đc những vấn đề đang tồn tại trong đời sống ktế-xh:
-Thuế, chi tiêu và bội chi NSNN
-Tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, lạm phát và việc làm
-Tiết kiệm, đầu tư và các định chế tài chính và thị trg tài chính
Tài chính-tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô của NN, các CSTT và CS tài khóa nhằm mục đích:
-Tăng trg ktế, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và tỷ giá, cán cân thanhtoán
Nghiên cứu tiền tệ giúp các DN quản lý tài chính hiệu quả:


2

-huy động vốn: nợ và VCSH
-Sử dụng/phân phối vốn: TSCĐ, TS lưu động và đtư tài chính
-Tối đa hóa lợi nhuận
Câu 2: Vận dụng lý thuyết lượng cầu tài sản để giải thích sự phân bố tài sản trong đầu tư
của các cá nhân?
*Lý thuyết lượng cầu về tài sản: là một lý thuyết rất quan trọng, được dùng để ứng dụng
trong việc lựa chọn đầu tư sao cho hợp lý.
-Các yếu tố quyết định lượng cầu tài sản:
+Của cải: là toàn bộ tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư. Lượng cầu về một tài sản thường có

tương quan thuận với sự gia tăng của của cải. Khi của cải tăng lên, lượng cầu về các loại tài
sản khác nhau sẽ tăng theo những mức độ khác nhau.
Ví dụ: tại thời điểm một cá nhân A có số lượng của cải là 10 triệu, cá nhân này sẽ giữ cho
mình một lượng tiền mặt là 1triệu (chiếm 10% tổng số của cải), tuy nhiên khi cá nhân A có
số lựong của cải là 100 triệu, thì lúc đó ông ta chỉ giữ tiền mặt là 5triệu (chiếm 5% tổng số
của cải), số còn lại ông ta dùng để đầu tư vào bất động sản, chứng khoán…
Như vậy, khi số lượng của cải tăng lên thì nhu cầu đầu tư cũng tăng.
+Lợi tức dự tính của một tài sản so với lợi tức của tài sản khác: các loại tài sản có cùng
mức độ rủi ro và số tiền đầu tư tương đương nhau, nếu tài sản nào có lợi tức dự tính cao hơn
thì được yêu thích đầu tư hơn.
+Rủi ro kèm với lợi tức tài sản: các loại tài sản có cùng mức lợi tức dự tính tương đương
nhau, nếu tài sản nào có độ rủi ro dự tính thấp hơn thì thường được yêu thích lựa chọn. Như
vậy nhà đầu tư có mối quan tâm hàng đầu tới lợi tức của một tài sản. Song mức rủi ro về lợi
tức của tài sản cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ vào tài sản đó.
+Sở thích của nhà đầu tư: tùy thuộc vào sở thích của các nhà đầu tư:yêu thích mạo hiểm hay
thích tính ổn định, ngại rủi ro thì các loại tài sản khác nhau được lựa chọn đầu tư.
+Tính lỏng của tài sản: các loại tài sản có tính thanh khoản cao thường được lựa con đầu tư.
Thời gian và chi phí để chuyển sang tiền mặt của các tài sản khác nhau là khác nhau. Một
trái phiếu kho bạc không đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí cao khi chuyển nó ra tiền mặt, vì
thế tính lỏng của loại trái phiếu này cao. Trong khi đó, việc bán một ngôi nhà để thu tiền
mặt về lại đòi hỏi thời gian thực hiện và chi phí giao dịch ( chi phí tư vấn, mội giới…), vì
thế ngôi nhà có tính lỏng thấp hơn. Tính lỏng của trái phiếu kho bạc cao hơn ngôi nhà, do
đó lượng cầu về trái phiếu đó sẽ lớn hơn so với lượng cầu về ngôi nhà.
Khi của cải của 1 ng tăng lên, anh ta có thêm tiềm lực kinh tế sẵn sàng để có thể mua sắm
thêm tài sản -> lượng tài sản mà anh ta yêu cầu(lg cầu ts) tăng lên
Khi giữ những thứ khác ko thay đổi, 1 sự tăng về của cải làm tăng lượng cầu 1 TS, và sự tăng
lg cầu này lớn hơn nếu TS đó mang nhiều t/c cao cấp hơn là t/c cần thiết
Q’đ mua 1 TS chịu ả/hg bởi việc xem xét lợi tứcdự tính của TS đó
Một sự tăng lợi tức dự tính của 1 TS so vs lợi tức dự tính của 1 TS thay thế, khi giữ mọi thứ
khác ko đổi sẽ làm tăng lg cầu của TS đó.

Mức độ rủi ro or ko chắc chắn về lợi tức của 1 TS cũng t/đ lên lg cầu TS đó.
Khi mọi thứ khác ko thay đổi, nếu rủi ro của 1 Ts tăng lên so vs rủi ro của các TS thay thế thì
lg cầu của nó sẽ giảm


3

Tính lỏng của tài sản t/đ đến lg cầu TS đó
Một TS có tính lỏng cao hơn TS thay thế, khi giữ mọi thứ khác k thay đổi thì nó càng đc ưa
chuộng và lg cầu TS sẽ càng lớn.
Khi giữ mọi yếu tố khác ko thay đổi:
-

Lg cầu 1 ts thường có tương quan thuận vs của cải vs 1 đáp ứng lớn hơn nếu TS đó có
t/c “cao cấp” hơn là t/c “cần thiết”
Lg cầu 1TS có tương quan thuận vs lợi tức dự tính của nó so vs các Ts thay thế
Lg cầu 1 TS có tương quan nghịch đảo vs rủi ro về lợi tức của nó so vs những TS thay
thế
Lg cầu 1 TS có tương quan thuận vs tính lỏng của nó so vs các TS thay thế

Lợi ích của việc đa dạng hóa đầu tư là làm giảm rủi ro cho các nhà đtư, và lợi ích càng lớn khi
lợi tức từ các chứng khoán ko diễn biến theo sát nhau.
Giải thích:
Lượng tiền thực tế dưới dạng tiền mặt và gửi Séc là một ví dụ của tàI sản cần thiết. Nếu hộ gia
đình và doanh nghiệp với thu nhập cao giầu có hơn sẽ không duy trì cùng một tỷ lệ tài sản của
họ dạng tiền mặt mà lời lãi bằng không hay lãi thấp như những hộ gia đình và hãng thu nhập
thấp.Ví dụ, những cá nhân với thu nhập cao có thểduy trì những tài sản sinh lợi cao mà có thể
chuyển nhượng dễ dàng thành tiền gửi Séc , các hãng có thể làm tương tự như vậy. Thêm vào
đó, những doanh nghiệp có thể có một giới hạn tín dụng với những ngân hàng , mà cho phép
họ tiến hành những giao dịch với lượng tiền mặt và số dư tiền gửi Séc thấp . Những hộ gia

đình thu nhập cao có thể dùng thẻ tín dụng của ngân hàng. Cầu lương tiền thực tế tăng với thu
nhập thực tế nhưng với tỉ lệ nhỏ hơn.
Khi tính toán thu nhập trên tài sản tiền tệ những hộ gia đình và nhà kinh doanh khong nhữnh
tính đén số lẫi trả trên số dư tiền gửi mà còn phảI tính đặc tính thuận tiện của đồng tiền .Đây là
số thu nhạp mà họ săn dàng hy sinh đổi lấy thu nhập có rỉu ro thấp ,có chi phí giao dịch và
thông tin thấp. Nếu không có thay đổi khác , một sự tăng lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận
tiện tự nhiên của đồng tiền sẽ khiến những hộ gia đình và nhà doanh nghiệp tăng lượng tiền tệ
của họ và tăng lượng cầu tiền.
Một sự giảm trong lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên sẽ khiến những hộ gia đình
và doanh nghiệp giảm số dư tiền tệ của họ và lượng cầu tiền. Theo cách đó, những hộ gia đình
và doanh nghiệp so sánh lợi tức mong đợi trên tiền (từ lợi nhuận và sinh lợi tự nhiên) trong
việc quyết định giữ bao nhiêu tiền.
Khi phân bổ bao nhiêu tài sản của họ để nắm giữ dạng tiền, những cá nhân và hãng cũng cân
nhắc rủi ro,tính lỏng và thông tin về thu nhập của việc nắm giữ tiền. Nếu thu nhập trên tài sản
lựa chọn (thương phiếu trái phiếu hoặc cổ phiếu) có nhiều nguy hiểm ,những người tiết kiệm
có thể chuyển sang giữ tiền của họ, làm tăng cầu tiền tệ. Những cải cách cho phép dễ dàng
chuyển vốn từ dạng ít lỏng sang dạng có tính lỏng cao như từ trái phiếu hoặc cổ phiếu sang
dạng một tài khoản Séc ,hoặc từ cổ phần góp sang tín dụng sẽ làm vốn có về tính lỏng của tiền.
Các tài sản càng trở nên lỏng nhiều hơn thì càng có nhiều người tiết kiệm chú tâm đến thu
nhập về lãi suất tiền tệ.Cuối cùng một số cá nhân đặt tin tưởng vào giá trị cao của việc giữ
tiền ,bởi vì nó mang lại cho họ sự kín đáo. Điều này liên quan đến ma tuý, trốn thuế và các
hoạt động phi pháp khác có thể biện hộ cho giá trị của đồng tiền kiếm được. Song cầu tiền có


4

thể bị ảnh hưởng của nhưng thay đổi trong số lượng của hoạt động phi pháp hoặc thay đổi
trong luật thuế khóa
Câu 3: Trình bày các khối tiền trong nền kinh tế ? Theo bạn, trong tương lai tỷ trọng các
khối tiền này có xu hướng thay đổi như thế nào?

* nội dung các khối tiền trong nền kinh tế
Khối lượng tiền trong lưu thông là tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao
đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị trường trong một
khoảng thời gian nhất định.
Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối tiền trong
lưu thông. Sự phân chia này tuỳ theo mỗi nước, nhưng cách phân chia phổ biến là:
- Khối tiền tệ M1 (Khối tiền tệ giao dịch): Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng
tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng
hoá, mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung
ứng bao gồm:
+ Tiền đang lưu hành (gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành
ngoài hệ thống ngân hàng).
+ Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại (tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có thể phát
séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ).
- Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Khối tiền tệ này, với một cách nhìn rộng hơn
về lượng tiền cung ứng. Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
+ Lượng tiền theo M1.
+ Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại.
- Khối tiền tệ M3: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
+ Lượng tiền theo M2.
+ Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
- Khối tiền tệ L : Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
+ Lượng tiền theo M3.
+ Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao (dễ chuyển thành tiền mặt): thương
phiếu, tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,....
Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất, sau đó thấp dần và
cuối cùng là khối L (Khi cách nhìn về lượng tiền cung ứng càng rộng thì tính lỏng của nó càng
thấp)
Khối lượng tiền trong lưu thông lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng
nhất là:

- Số lượng các phương tiện được phát hành từ ngân hàng


5

- Các phương tiện được phát hành từ các tổ chức tài chính không phải ngân hàng
- Các phương tiện được phát hành từ doanh nghiệp
- Các phương tiện được phát hành từ chính phủ
Nếu tài sản tích lũy của dân cư và doanhnghiệp đưa vào đầu tư lớn, thì số lượng các phương
tiện lưu thông sẽ tăng lên. Nếu tài sản này bị lưu giữ thì không những các phương tiện lưu
thông bị giảm thấp, mà còn làm cho nền kinh tế bị trì trệ.
* Trong tương lai cơ cấu các khối tiền sẽ thay đổi như thế nào?
Mặc dù số liệu về các khối tiền tệ đc công bố và sử dụng vào những mục đích nhất định,
nhưng việc đưa ra phép đo lượng tiền chỉ có ý nghĩa khi nó vừa tập hợp đc các ptiện trao đổi
trog nền ktế, vừa tạo cơ sở dự báo lạm phát và chu kì kinh doanh. Vì vậy, hiện nay một số nc
đang ncứu để đưa ra phép đo “tổng lượng tiền có tỷ trọng” trong đó mỗi loại tài sản có một tỷ
trọng khác nhau tùy theo độ “lỏng” của nó khi cộng lại vs nhau. Việc lựa chọn phép đo nào
phụ thuộc vào nhận thức và khả năng của NHTƯ trong điều hành chính sách thực tế. Tuy
nhiên, sử dụng trực tiếp trong các giao dịch làm ptiện trao đổi chủ yếu là khối tiền M1, vì vậy
định nghĩa M1 đc sd thường xuyên khi nói tới cung – cầu tiền tệ.
Câu 4: Phân tích vai trò của các Trung gian tài chính? Liên hệ việc phát huy các vai trò
này đối với thực tế phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam?
Các định chế trung gian tàichính là các tổ chức t/hiện việc huy động nguồn tiền của những ng
tiết kiệm cuối cùng, sau đó cung cấp cho những ng cầu vốn cuối cùng.
Các định chế ngân hàng:
- NHTW: t/hiện chức năng phát hành tiền và kiểm soát cung tiền trong nền ktế
- Các NH trung gian: t/hiện toàn bộ các h/đ NH, gồm NHTM, NH chính sách
Các định chế phi NH: Quỹ TD, quỹ đtư, cty tài chính, cty BH, cty cho thuê t/c.
Vai trò của các TGTC:
- Chu chuyển các nguồn vốn trong nền ktế

- Khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trg t/c
- Góp phần giảm chi phí giao dịch xã hội
- Góp phần nâng cao hiệu quả ktế và chất lượng cuộc sống XH
Vai trò của trung gian tài chính trong việc giảm bớt chi phí giao dịch
Các trung gian tài chính có khả năng giảm được chi phí giao dịch trong quá trình lưu chuyển
vốn là nhờ vào tính kinh tế do quy mô hoạt động lớn (economies of scale) và tính chuyên
nghiệp cao (expertise). Với lợi thế nguồn vốn huy động lớn, các trung gian tài chính có thể
giảm chi phí giao dịch tính trên mỗi đồng vốn. Chẳng hạn trên thị trường chứng khoán, chi phí
để mua 10,000 cổ phiếu cũng không đắt hơn chi phí để mua 50 cổ phiếu là bao. Do đó, các
trung gian tài chính như các quỹ đầu tư khi mua bán chứng khoán với khối lượng lớn trên thị
trường sẽ chịu chi phí môi giới tính trên mỗi đồng vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với các nhà
đầu tư riêng lẻ. Nhờ vào quy mô vốn lớn, các trung gian tài chính có thể đa dạng hoá danh mục
đầu tư để giảm thiểu rủi ro mà không làm tăng chi phí nhiều như các nhà đầu tư riêng lẻ. Chi
phí quản lý tính trên từng đồng vốn cũng giảm đáng kể khi quy mô vốn đầu tư lớn. Hoạt động
với quy mô lớn tạo điều kiện để các trung gian tài chính đầu tư vào các hệ thống máy tính đắt
tiền dùng cho quản lý và tiến hành hàng triệu giao dịch mà vẫn đảm bảo chi phí tính trên mỗi
giao dịch ở mức thấp. Tính chuyên nghiệp cũng là một yếu tố làm giảm chi phí giao dịch. Do
chuyên hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ - tài chính, các trung gian chẳng những sẽ có nhiều


6

kinh nghiệm để quản lý vốn hiệu quả hơn mà còn có thể đề ra các giải pháp để giảm chi phí
giao dịch nhằm nâng cao mức lợi nhuận.
Vai trò của trung gian tài chính trong việc giảm bớt chi phí thông tin
Các trung gian tài chính chuyên hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nên được trang bị
đầy đủ hơn những người cho vay đơn lẻ cả về kiến thức và kinh nghiệm, nhờ đó có thể thu
thập và xử lý thông tin hiệu quả hơn, giúp đánh giá được chính xác hơn mức độ rủi ro của các
dự án xin vay, qua đó giảm thiểu được nguy cơ chọn lựa đối nghịch. Hơn nữa cac trung gian
tài chính cũng sẽ có khả năng kiểm soát tốt hơn quá trình sử dụng vốn của người đi vay, nhờ

đó giảm bớt được những thiệt hại do rủi ro đạo đức gây ra. Không những thế, các trung gian tài
chính còn khắc phục được vấn đề “người đi nhờ xe”, do họ chủ yếu cung cấp vốn thông qua
các khoản cho vay trực tiếp chứ không thông qua việc mua chứng khoán. Các khoản vay trực
tiếp này không được mua bán trên thị trường nên những nhà đầu tư khác không thể lợi dụng.
Chi phí các trung gian tài chính bỏ ra để mua thông tin và giám sát hoạt động của người đi vay
nhằm giảm tình trạng thông tin bất cân xứng sẽ đem lại cho họ những lợi thế mà các nhà đầu
tư khác nếu không bỏ tiền ra thì không thể có được. Với trường hợp các hợp đồng vốn, các
trung gian tài chính có thể khắc phục những vấn đề như “người uỷ thác và đại lý” và “người đi
nhờ xe” thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm. Các quỹ này huy động vốn từ các nhà đầu tư
riêng lẻ rồi sử dụng để tài trợ cho các doanh nghiệp có triển vọng thực hiện các dự án kinh
doanh của mình dưới hình thức góp vốn liên doanh. Để ngăn ngừa khả năng phát sinh các rủi
ro đạo đức, các quỹ này sẽ cử người tham gia vào bộ máy điều hành của doanh nghiệp nhận
vốn để giám sát chặt chẽ tình hình thu nhập hay lợi nhuận của doanh nghiệp đó. Mặt khác, cổ
phần của các doanh nghiệp đó cũng không được phép bán ra cho ai khác ngoài quỹ đầu tư. Do
đó, quỹ đầu tư không còn phải lo ngại về tình trạng “người đi nhờ xe” nữa.
Tóm lại: với những ưu thế về quy mô hoạt động, tính chuyên nghiệp và các dịch vụ tài chính
đặc thù (như khoản vay trực tiếp, đầu tư mạo hiểm…), các trung gian tài chính có khả năng
khắc phục khá hiệu quả những hạn chế của kênh tài chính trực tiếp, và do đó ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Liên hệ:
Các định chế tài chính là những tổ chức huy động vốn trong dân cư, và cung ứng vốn cho nền
kinh tế dưới hai hình thức là đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Ở Việt Nam, các định chế
tài chính có khả năng đầu tư trực tiếp phát triển nhưng chưa mạnh, mà chủ yếu là hệ thống
ngân hàng thương mại đảm đương công việc đầu tư cho các doanh nghiệp, xây dựng một nền
kinh tế phát triển trên cơ sở đi vay. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam làm cả hai chức
năng đầu tư, cả đầu tư trung, dài hạn, cả cho vay thương mại. Một nền tài chính mà các tổ chức
tài chính phi ngân hàng như bảo hiểm, các quỹ tương hỗ, các quỹ đầu tư không đủ mạnh để
đảm nhận chức năng đầu tư trung, dài hạn, đầu tư trực tiếp vào các DN… thì đó là một nền tài
chính yếu.
Nhìn vào thực tế của thị trường tài chính Việt Nam có thể thấy, người dân Việt Nam khi thực

hiện tiết kiệm lại chưa quan tâm nhiều đến các loại hình dịch vụ bảo hiểm, trong khi bảo hiểm
là một trong những phương pháp tiết kiệm hữu ích nhất của xã hội hiện đại. Khi một nền kinh
tế mà nhiều người tích lũy bằng vàng, bằng bất động sản thì nền kinh tế bị đánh giá là lạc hậu
và khó phát triển. Đây không phải là lỗi của các định chế tài chính trung gian mà là lỗi của sự
lạc hậu trong nhận thức, chưa tiếp cận được với nền văn minh thế giới.
Hầu hết các nhà đầu tư lớn, những người tiết kiệm lớn ở các nước nắm giữ tài sản theo thứ tự
ưu tiên như sau: Thứ nhất là bảo hiểm để bảo đảm cho cuộc sống an toàn, kể cả lúc thất
nghiệp; thứ hai là trái phiếu trung và dài hạn; thứ ba là cổ phiếu, và cuối cùng là các công cụ


7

tài chính phái sinh để bảo vệ cho các cổ phiếu đang nắm giữ, và cũng cần lưu ý rằng họ nắm
giữ cổ phiếu chứ không phải kinh doanh cổ phiếu.
Những người tiết kiệm nhỏ khi tham gia kinh doanh cổ phiếu chủ yếu là tham gia vào các quỹ
đầu tư, các quỹ tương hỗ mà không kinh doanh trực tiếp như ở Việt Nam. Như vậy, chính các
quỹ đầu tư là nơi quản lý các nguồn vốn tiết kiệm nhỏ lẻ, tập trung thành một quỹ đầu tư lớn
để rồi từ đó đầu tư cho các doanh nghiệp dưới hình thức góp vốn thành lập các công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc các công ty cổ phần lớn.
Từ đó, có thể nói rằng, các quỹ đầu tư của ta còn rất yếu kém, chỉ là các quỹ của các “đại gia”
lập ra nhằm nắm quyền điều hành các doanh nghiệp là chính, còn các quỹ đầu tư công cộng
thu hút vốn từ đông đảo quần chúng còn rất hạn chế. Có thể thấy, chưa có một quỹ đầu tư nào
công khai thu hút vốn trên thị trường dưới hình thức kêu gọi sự góp vốn của đông đảo mọi
người. Chưa kể rằng nhiều công ty cổ phần, nhiều ngân hàng cổ phần, nhiều quỹ đầu tư cổ
phần phát hành cổ phiếu thêm với giá rất cao để “kiếm lời” là chính. Việc mua cổ phiếu của
đông đảo quần chúng không nhằm vào việc đầu tư dài hạn mà chỉ mua đi bán lại để kiếm một
lợi tức nếu may mắn.
Câu 5: Hãy phân biệt lợi tức với lãi suất, lãi suất thực với lãi suất danh nghĩa?Bạn

có bình luận gì về lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các NHTM Việt Nam thời gian

qua?
a. Lợi tức và lãi suất:

Lãi suất: là tỷ lệ sinh lời tính trên giá trị của khoản đầu tư ban đầu
Lợi tức(tỷ suất lợi tức): là tỷ lệ sinh lời đã tính đến dự thay đổi giá trị của khoản đầu tư so vs
ban đầu
b. Lãi suất thực vs ls danh nghĩa:
Ls danh nghĩa: ls ghi trên các chứng khoán nợ hoặc các hợp đồng tín dụng
Ls thực: ls đã loại bỏ tác động của yếu tố lạm phát
Ls thực = LS danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
c. BL về ls TGTK của các NHTM VN time qua:
Câu 6: Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến thị trường
tài chính Việt Nam ?
Năm 2008, kinh tế thế giới đã gánh chịu nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính, khởi đầu từ
nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, sau đó lan rộng ra nhiều nước phát triển khác,… tốc độ lan
truyền của cuộc khủng hoảng nhanh làm cho tăng trưởng kinh tế thế giới giảm nhanh chóng.
Do vị thế đặc biệt của Mỹ là trung tâm tài chính lớn nhất của thế giới, là nhà đầu tư hàng đầu
vào Việt Nam hiện nay, chiếm tới 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam, cũng
là nơi có lượng Việt kiều đông nhất trên thế giới, nên xét về mặt tổng thể, khủng hoảng tài
chính Mỹ cũng ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 cũng phần nào tác động đến thị trường ngoại hối của Việt
Nam.
Dự trữ ngoại hối giúp duy trì lòng tin về khả năng đảm bảo thanh toán nghĩa vụ nợ nước ngoài
của nền kinh tế, khả năng hỗ trợ giá trị của đồng nội tệ, thể hiện khả năng đảm bảo tài chính
của quốc gia, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài.


8

Đây cũng là nguồn dự trữ cho các trường hợp khẩn cấp và thảm họa mang tính quốc gia. Ngoại

hối Việt Nam từng đạt 23,9 tỉ USD vào năm 2008 và liên tục giảm cho đến 2011 trong bối
cảnh kinh tế thế giới khó khăn
Năm 2008 đã chứng kiến những biến động đảo chiều mạnh mẽ của tỷ giá USD/VND. Nếu
trong quý I, VND liên tục tăng giá so với USD với mức tỷ giá trên thị trường tự do xuống thấp
kỷ lục tới mức 15700 thấp hơn mức giá sàn của NHNN công bố từ 200 - 300 điểm. Sự giảm
giá liên tục của USD trong giai đoạn này là do nguồn cung ngoại tệ dồi dào từ đầu tư gián tiếp
nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt nam, doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ chuyển đổi ra VND
phục vụ sản xuất kinh doanh, trong khi đó nguồn cầu hạn chế do doanh nghiệp nhập khẩu chủ
yếu vay ngoại tệ thanh toán hàng nhập thay vì mua ngoại tệ do tâm lý dự đoán tỷ giá
USDVND tiếp tục giảm trong thời gian tới. Đầu quý II, tỷ giá tăng nhẹ trở lại. Trước những lo
ngại về tình hình kinh tế Việt nam: Cán cân thương mại thâm hụt nặng nề với mức kỷ lục 14,4
tỷ USD trong 5 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng CPI đạt mức kỷ lục 3,96% trong tháng 5
và 25,2% so với cùng kỳ năm 2007, cùng với một loạt bài viết của các định chế tài chính toàn
cầu về khả năng khủng hoảng tài chính, khủng hoảng cán cân thanh toán của Việt nam cũng
như khả năng mất giá mạnh của VNĐ… Nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài bắt đầu rút vốn ồ ạt,
các doanh nghiệp đã đẩy mạnh mua ngoại tệ thanh toán khoản vay trước hạn và chuẩn bị
nguồn ngoại tệ thanh toán LC sắp đến hạn, cộng với tâm lý đầu cơ găm giữ ngoại tệ chờ tỷ giá
tăng của cá nhân & doanh nghiệp khiến cung cầu USD mất cân đối trầm trọng, tỷ giá tăng
mạnh liên tục từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 6.
Đứng trước tình hình đó, NHNN đã thực hiện các biện pháp can thiệp đồng bộ và quyết liệt
vào thị trường ngoại hối bao gồm công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD, bán ngoại tệ
can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các đại lý thu
đổi ngoại tệ, cấm mua, bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng
và cho phép xuất khẩu vàng, kiểm soát nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu đặc biệt ô tô
và hàng xa xỉ... giúp tỷ giá sụt giảm và bình ổn trở lại ngay sau đó. Năm 2008 còn chứng kiến
một đợt dậy sóng nữa của tỷ giá USD/VND đợt tháng 10 và tháng 11 do nhu cầu mua ngoại tệ
chuyển về nước của các NĐTNN nhằm đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc trong
giai đoạn cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn tại Mỹ bắt đầu lan rộng và trở thành cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến hàng loạt các ngân hàng nước ngoài điêu đứng.
Năm 2008 cũng là năm đánh dấu sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các sàn giao dịch vàng,

hiện đã hơn 10 sàn giao dịch vàng đã được đi vào hoạt động. Việc ra đời các sàn vàng, cùng
với cơn sốt giá đợt đầu năm đã khiến một lượng tiền lớn chảy từ chứng khoán sang. Tuy nhiên,
sự khốc liệt của loại hình đầu tư này cũng đã khiến nhiều nhà đầu tư phải trắng tay.
Tại thị trường vàng trong nước, bức tranh này thậm chí còn sôi động hơn. Năm 2008, Việt
Nam vươn lên trở thành một trong những nước đứng đầu về nhập khẩu vàng của thế giới.
Điều này đã góp phần không nhỏ vào thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam, khiến Chính
phủ phải cấm nhập khẩu vàng. Cho tới trước thời điểm dừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị
nhập khẩu vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD (45 tấn), so với tổng giá trị nhập khẩu vàng của
cả năm 2007 là 1,6 tỷ USD (70 tấn).
Diễn biến giá vàng trong nước đã trải qua 2 đợt sóng lớn vào tháng 3 và tháng 7 khi vượt qua
mức 19 triệu đồng/lượng, sau đó lại giảm mạnh về cuối năm. Theo số liệu từ Ngân hàng ACB,
giá vàng SJC trong nước đạt mức cao kỷ lục là 19,35 triệu đồng/lượng vào ngày 17/3/2008 và
15/7/2008, mức thấp nhất là 16,10 triệu đồng/lượng vào ngày 24/10/2008. Tính bình quân cả
năm 2008, giá vàng xoay quanh mức 17,64 triệu đồng/lượng.


9

Năm 2008 là một năm đầy biến động với những thăng trầm của kinh tế thế giới và giá vàng
cũng nằm trong vòng xoáy của những biến động đó.
Nhìn chung kể từ tháng 9/2008, thị trường vàng đã lên xuống khá thất thường trước bối cảnh
bất ổn của thị trường tài chính. Triển vọng bức tranh kinh tế khả quan hơn vẫn còn xa, hệ
thống tài chính ở các nước phương Tây vẫn chìm trong khó khăn, hơn nữa thị trường vẫn chưa
hồi phục niềm tin vào các tài sản tiền mặt.
T/đ đến thị trg tiền tệ:
Biến động tỷ giá USD/VND: Năm 2008, biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được tăng
mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.
Biến động lãi suất huy động và lãi suất cho vay: Bắt đầu từ tháng 5/2008, nhiều ngân hàng
đồng loạt đẩy mức huy động tiền gửi lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp tới
20%/năm. Từ cuối tháng 7/2008, lãi suất trên thị trường bắt đầu giảm. Lãi suất huy động VND

giảm từ 19%/năm xuống quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn
12,75%/năm (từ 29/01/2009, lãi suất cho vay VND: 10,5%/năm).
Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng: Năm 2007, đa số ngân hàng khối quốc doanh chỉ trên
dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%. Năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức
công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%.
Hoạt động của các ngân hàng: lợi nhuận của nhiều ngân hàng thương mại năm 2008 không
đạt mục tiêu đề ra, kể cả mục tiêu đã được điều chỉnh. Chính sách thắt chặt tiền tệ và khó khăn
thanh khoản trong nửa đầu năm 2008 là nguyên nhân khiến nhiều ngân hàng buộc phải hạn chế
tín dụng.
Thị trường chứng khoán
Các chỉ số giảm mạnh : Kết thúc năm 2008, chỉ số VN-Index và HASTC-Index cùng giảm gần
70% so với đầu năm
Mục tiêu cổ phần hoá và nhiều cuộc đấu giá thất bại
Đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán: Các định chế tài chính sẽ phải xem xét lại
chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư của mình. Điều đó có thể sẽ diễn ra sự điều chỉnh nhất
định của dòng đầu tư vào thị trường vốn Việt Nam, giảm bớt đầu tư vào Việt Nam và có xu
hướng đầu tư vào các kênh an toàn. Năm 2008, đã chứng kiến hoạt động bán ròng chưa từng
có của nhà đầu tư nước ngoài trên cả 2 sàn HoSe và HaSTC.
Đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán: lợi nhuận của nhiều doanh
nghiệp niêm yết bị ảnh hưởng nặng nề từ hoạt động đầu tư tài chính và chi phí tài chính tăng
cao. Lạm phát, lãi suất và tỷ giá, đẩy chi phí tài chính của nhiều doanh nghiệp niêm yết tăng
cao.
Nhiều công ty chứng khoán, quỹ đầu tư đứng trước nguy cơ phá sản
Thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII): biến động mạnh
Biên độ giao động giá chứng khoán: thay đổi nhiều lần trong năm 2008
Bài học kinh nghiệm về tài chính
Giám sát chặt chẽ cán cân tài khoản vãng lai,tỷ lệ nợ quốc gia/GDP, đề phòng sự tích tụ rủi ro
mang tính hệ thống trên thị trường tài chính.



10

Thiếu sự quản lý trong thị trường tài chính là vấn đề hết sức nguy hiểm.
Chính sách lãi suất phù hợp giúp doanh nghiệp trong nước tiếp cận vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh, năng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Chấn chỉnh và giám sát chặt chẽ thị trường vàng , ngoại tệ, thị trường địa ốc, thị trường chứng
khoán và có giải pháp quản lý , điều tiết hợp lý.
Hệ thống tài chính, ngân hàng cần được tăng cường giám sát, chính sách tiền tệ cần được quản
lý chặt chẽ.Vì chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ dẫn tới tình trạng cung tiền quá mức nhưng không
thể thúc đẩy tăng trưởng. Những chính sách phát triển kinh tế không cần nhanh, nhưng cơ bản
và bền vững.
Khi xảy ra khủng hoảng tính thanh khoản có thể mất đi nhanh chóng.
Sẽ là rủi ro không thể lường trước được khi tiến hành mua lại công việc kinh doanh, trong khi
chúng ta không hiểu rõ về hoạt động của công ty đó.
Những chiến lược không tốt thì không loại trừ một công ty lớn hay bất kì một người khôn khéo
nào đều có thể dẫn đến sụp đỗ hoàn toàn.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi, cần phát huy tốt vai trò của mình ,để tạo được niềm tin cho công
chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng và tham gia ngăn chặn, xử lý những rủi ro nhằm
hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây truyền.
Câu 7: Thị trường tài chính là gì ? Hãy phân tích các chức năng của thị trường tài

chính ?
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh tế không chỉ bao gồm các mối quan hệ cung cầu về
hàng hoá mà còn xuất hiện quan hệ cung cầu về tiền tệ. Quan hệ này xuất hiện tất yếu dẫn đến
nhu cầu vận động nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, chủ yếu diễn ra trên thị trường tài
chính. Thuật ngữ “thị trường tài chính” được sử dụng để phân biệt thị trường mua bán, giao
dịch các loại chứng khoán (tài sản tài chính) với các thị trường khác (thị trường hàng hoá, thị
trường sức lao động,...).
TTTC là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ chủ thể cung vốn tới chủ thể cầu vốn.
TTTC là thị trg trong đó các nguồn tài chính đc chuyển từ ng dư thừa vốn sang ng thiếu vốn, là

tổng hòa các mqh cung cầu về vốn.
TTTC là nơi mà các nguồn tàichính đc chuyển giao theo quy tắc của thị trg.
Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự xuất hiện và tồn tại của
thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết mẫu thuận giữa nhu cầu và
khả năng cung ứng vốn lớn trong nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai
trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn. Mâu thuẫn
này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong
quan hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát triển cao,
nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào
việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện
các công cụ huy động vốn như trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính
phủ... - Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Và từ đó xuất


11

hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại chứng
khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh
tế là thị trường tài chính.
Do đó, Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự giải quyết mẫu thuẫn giữa
cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính đặc biệt là các loại chứng
khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán, chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác
nhau trong nền kinh tế. Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao
của nó là kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài chính.
Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện những chủ thể cần nguồn tài
chính và những người có khả năng cung ứng nguồn tài chính. Khi nền kinh tế thị trường ngày
càng phát triển thì các hoạt động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát triển,
hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng và
thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính.

Các chức năng của TTTC:
1. Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính

đến những chủ thể cần nguồn tài chính( Chức năng trung gian):
+Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh.
Giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội
đầu tư sinh lợi. Thông qua thị trường tài chính các chủ thể cần vốn có thể huy động được vốn
phục vụ cho nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất,… của mình. Các công ty có thể phát hành cổ
phiếu, trái phiếu công ty; Nhà nước có thể phát hành trái phiếu Chính phủ,… để tập hợp lượng
vốn cần thiết. Những chủ thể tạm thời thừa vốn cũng có một kênh để đầu tư sinh lợi cho phần
vốn của mình. Qua đó hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư,… của nền kinh tế được thực
hiện liên tục và không bị đình trệ. Bên cho vay sẽ thu được phần tiền lãi, còn bên đi vay phải
tìm mọi cách sinh lời từ đồng vốn đã vay nhằm trả lãi và vốn ứng trước của người cho vay và
có phần tích luỹ của mình.
+Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh. TTTC có thể thu hút được rất nhiều nhà đầu tư
với sự đa dạng hoá các hình thức đầu tư, như vậy nhà đầu tư có thể chọn lựa cách thức đầu tư
phù hợp với nhu cầu của mình. Ngoài ra thị trường tài chính còn giúp cải thiện mức sống của
cá nhân bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn (tiêu tiền trước rồi sẽ tìm
nguồn tiền trả sau_thông qua các khoản vay)
+Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có
tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi
suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải
hoàn trả cả vốn và lãi cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản
thân mình.
+Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở cửa, cải
cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành trái phiếu ra nước ngoài,
bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.
Thông qua thị trường tài chính, việc bán cổ phần, phát hành trái phiếu ra nước ngoài đã tạo
điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong

nước. Ngoài ra Nhà nước có thể sử dụng các công cụ trên thị trường tài chính để tác động
nhằm thực hiện và điều hành chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia…
+Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái phiếu, đổi tiền.
2. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán;


12

TTTC là nơi các chứng khoán đc mua bán, trao đổi. Bởi vậy, nhờ TTCK, các nhà đầu tư có thể
dễ dàng chuyển đổi các CK họ sở hữu thành tiền hoặc các CK khác họ muốn. Khả năng thanh
khoản(k/năng chuyển đổi thành tiền) là một trog những yếu tố q’đ tính hấp dẫn của CK đvới
các nhà đầu tư. Chức năng cung cấp k/năng thah khoản cho các Ck bảo đảm cho TTTC h/động
năng động, có hquả. Thị trường tài chính cung cấp một một cơ chế để các nhà đầu tư có thể
trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, như vậy thị trường tài
chính tạo ra tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nếu thiếu tính thanh khoản, người đầu
tư sẽ buộc phải nắm giữ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn
cho tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản. Mức độ thanh khoản của các thị
truờng tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường.
3. Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của doanh nghiệp.
Chịu a/hg của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố nội tại của chủ thể phát hành, tức là tình hình
hoạt động và kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mặt khác, giá trị của doanh nghiệp có
cổ phiếu trên TTTC phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của các cổ phần đang lưu hành. Vì vậy,
thông qua giá cổ phiếu của 1 doanh nghiệp, ng ta có thể đánh giá đc giá trị của DN đó. Thị
trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính, vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình
phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và
từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
Câu 8: Trình bày nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng trung ương? Việc thay đổi lãi
suất cho vay chiết khấu và tái chiết khấu của NHTW có ảnh hưởng như thế nào đến khối
lượng tiền cung ứng?
ND Ngvụ tái CK of NHTƯ

1.Khái niệm: Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá (GTCG) của các ngân hàng là nghiệp vụ
NHNN mua các GTCG còn thời hạn thanh toán, mà các GTCG này được các ngân hàng mua
trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp. Sau đây gọi tắt là nghiệp vụ chiết
khấu.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước
đối với các ngân hàng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
Căn cứ định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ và mục tiêu của chính sách tiền tệ
quốc gia trong từng thời kỳ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định lĩnh vực Ngân hàng
Nhà nước ưu tiên chiết khấu, tái chiết khấu cho các ngân hàng.
2. Đối tượng & điều kiện được tham gia nghiệp vụ chiết khấu:
- Các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủu các
điều kiện sau:
- Có tài khoản tiền gửi và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN;
- Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với
NHNN.
3. Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất do NHNN xác định và công bố trong từng thời kỳ. Là lãi
suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng để tính số tiền thanh toán khi thực hiện chiết khấu giấy
tờ có giá.
4. Hình thức chiết khấu:
a. Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG (Thời hạn còn lại của GTCG tối đa không
quá 90 ngày).
b. Chiết khấu có kỳ hạn (thời hạn còn lại của GTCG lớn hơn thời hạn giao dịch).
5. Các loại GTCG được chiết khấu:


13

a. Tín phiếu NHNN, Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình TW, công trái
(Được sử dụng trong cả hai hình thức chiết khấu).

b. Trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát triển phát hành, Trái phiếu chính quyền địa phương do
Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội, Tp Hồ Chí Minh phát hành (được sử dụng trong hình thức
chiết khấu có kỳ hạn).
6. Phương thức chiết khấu:
- Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng đem “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” trực tiếp đến Sở
Giao dịch NHNN.
- Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc qua Fax tới Sở
Giao dịch NHNN (trường hợp qua Fax, gửi bản chính theo đường bưu điện).
7. Hạn mức chiết khấu:
-Hạn mức chiết khấu được xác định theo quý, là số dư tối đa mà Ngân hàng Nhà nước thực
hiện chiết khấu đối với các giấy tờ có giá cho một ngân hàng tại mọi thời điểm trong quý.
-Căn cứ tổng hạn mức mức chiết khấu và mục tiêu ưu tiên đầu tư tín dụng trong từng thời kỳ,
Ngân hàng Nhà nước phân bổ hạn mức chiết khấu đối với từng ngân hàng.
-Chậm nhất vào ngày 15 tháng đầu tiên của quý tiếp theo, các ngân hàng gửi hồ sơ đề nghị
thông báo hạn mức chiết khấu giấy tờ có giá tới Ngân hàng Nhà nước (Vụ Tín dụng) để Ngân
hàng Nhà nước có cơ sở xác định và thông báo hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước chỉ phân bổ và thông báo hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng có đề
nghị thông báo hạn mức chiết khấu gửi tới Ngân hàng Nhà nước đúng thời gian qui định (theo
dấu bưu điện hoặc fax).
8. Quy trình nghiệp vụ:
8.1. Ngân hàng muốn tham gia nghiệp vụ chiết khấu với NHNN thực hiện các công việc sau:
- Đăng ký mẫu chữ ký lãnh đạo và nhân viên tham gia nghiệp vụ chiết khấu với NHNN;
- Thực hiện lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN.
- Đề nghị NHNN phân bổ hạn mức chiết khấu GTCG.
8.2. Quy trình của giao dịch chiết khấu:
- Ngân hàng gửi Giấy đề nghị chiết khấu GTCG (khi ngân hàng còn hạn mức chiết khấu).
- Sở Giao dịch nhận Hồ sơ đề nghị chiết khấu; Thông báo chấp nhận hoặc không chấp mhận
chiết khấu.
- Ngân hàng được chấp nhận chiết khấu có kỳ hạn gửi cam kết mua lại theo số liệu NHNN
thông báo tại Thông báo chấp nhận chiết khấu.

- Vào ngày thực hiện chiết khấu, Sở Giao dịch NHNN thanh toán tiền mua GTCG cho ngân
hàng đề nghị chiết khấu, thực hiện chuyển GTCG từ tài khoản lưu ký của ngân hàng đề nghị
chiết khấu sang tài khoản của NHNN (trường hợp chiết khấu hết thời hạn còn lại của GTCG)
hoặc chuyển sang tài khoản cầm cố (trường hợp ngân hàng chiết khấu có kỳ hạn).
- Vào ngày hết thời hạn của cam kết mua lại GTCG: Ngân hàng cam kết mua lại thanh toán
tiền mua lại GTCG cho NHNN để được chuyển GTCG về tài khoản lưu ký của NH.
Ả/hg của việc thay đổi LS cho vayCK & TCK:
Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi (dự trữ của ngân hàng)
để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn tối
thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ
thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng thương mại và dự trữ của ngân hàng thường lớn
hơn dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của
ngân hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc


14

có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với
các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường:
-Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơnlãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ tiếp
tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt
họ có thể vay từ ngân hàng trung ương mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào.
-Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương mại không thể để
cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm
tiền mặt để tránh phải vay tiền từ ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường
khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.
Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất
thị trường, ngân hàng trung ương có thể buộc các ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt
bổ sung khiến cho số nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm) để
làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu giảm xuống thì các ngân hàng

thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và do vậy số nhân tiền tệ tăng lên dẫn đến tăng
lượng cung tiền.
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó ngân hàng trung ương sẽ cung ứng tiền cho nền
kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian trên cơ sở nhận tái chiết
khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng trung gian. Nếu chính sách của ngân
hàng trung ương là muốn bành trướng khối tiền tệ , ngân hàng trung ương sẽ khuyến khích các
ngân hàng trung gian trong việc đi vay tái chiết khấu cũng được dễ dãi. Trong trường hợp này,
ngân hàng trung gian đi vay sẽ ít tốn kém hơn nên cũng có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho
vay. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ thực
hiện ngân lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn.
Điều này sẽ hạn chế nhu cầu đi vay của các ngân hàng trung gian, và gián tiếp gây áp lực buộc
các ngân hàng trung gian nâng lãi suất cho vay. Ngoài việc gián tiếp làm thay đổi lãi suất,
chính sách tái chiết khấu của ngân hàng trung ương còn có vai trò quan trọng khi nó giúp các
ngân hàng trung gian khai thông ăng lực thanh toán,nhờ đó có thể cứu vãn được những cơn
sụp đổ tài chính – ngân hàng. Cụ thể , khi các ngân hàng bị đe dọa phát sản, ngân hàng trung
ương sẽ cấp dự trữ cho chúng thông qua tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá, từ đó
khôi phục được khả năng thanh toán của những ngân hàng này. Vài trò này ngày càng trở nên
quan trọng hơn, bởi vì chúng ta đang trải qua những khó khăn ngày càng nhiều của hệ thống
ngân hàng hiện nay.
Câu 9: Để kiểm soát khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung
ương sử dụng công cụ nào của chính sách tiền tệ? Hãy trình bày cơ chế sử dụng công cụ
đó?Cho một ví dụ minh họa?
* Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàn trung gian phải đưa vào dự trữu theo luật
định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc – do ngân hàng
trung ương quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền
gửi mà ngân hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mối ngân
hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung
ương có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung
ứng cho nền kinh tế.

Một cách khái quát, khi ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân
hàng trung ương có thẻ làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian,


15

và kết quả là khối tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho nền kinh té giảm
hoặc tăng. Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của ngân hàng
trung ương nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho nền kinh tế, thông
qua hệ số tạo tiền.
Ưu điểm của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ là nó có tác động đến tất
cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực. Mặt khác, chỉ cần một sự thay
đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đối với khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên,
ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó là khi ngân hàng trung ương muốn thay đổi cung
tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện được nều sử dụng công cụ này. Bên cạnh đố,
việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các ngân hàng
thương mại. Hơn nữa, nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ gây ra tình
trạng không ổn định cho các ngân hàng thương mại và làm cho việc quản lý khả năng thanh
khoản của các ngân hàng này khó khăn hơn. Do đó, một sự gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đòi
hỏi ngân hàng trung gian, cũng như phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ để
tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới.
* Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sụ biến đổi của chi
phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh
tế. Do đó, lãi suất là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ. thực tế cho thấy,
tùy theo điều kiện thực tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, NHTƯ có thẻ sử dụng
công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ theo các chính sách sau:
Ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các loại lãi
suất như:
+ Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc

+ Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn
+ Công bố lãi suất cơ ản cộng với niên độ giao dịch
Dựa vào các loại lãi suất đã được ấn định, ngân hàng trung gian áp dụng để giao dịch kinh
doanh với khách hàng. Cơ chế này đã tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ áp dụng nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, cũng như ở các nước đang phát triển khác trước đây. Một trong
những lý do chính để giải thích tại sao ngân hàn trung ương không để thị trường quyết định lãi
suất mà phải quy định chặt chẽ lãi suất như vậy là vì trình độ phát triển thị trường tiền tệ còn
thấp, năng lực cạnh tranh các ngân hàng trung gian còn yếu kém.
Ngân hàng trung ương áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thnahf theo theo cơ chế
thị trường. Và để can thiệp vào lãi suất thị rường, ngân hàng trung ương có thể gián tiếp can
thiệp thông qua các chính sách:
+ Công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường.
+ Sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và
điều chỉnh lãi suất thị trường.
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó ngân hàng trung ương sẽ cung ứng tiền cho nền
kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian trên cơ sở nhận tái chiết
khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng trung gian. Nếu chính sách của ngân
hàng trung ương là muốn bành trướng khối tiền tệ , ngân hàng trung ương sẽ khuyến khích các


16

ngân hàng trung gian trong việc đi vay tái chiết khấu cũng được dễ dãi. Trong trường hợp này,
ngân hàng trung gian đi vay sẽ ít tốn kém hơn nên cũng có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho
vay. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ thực
hiện ngân lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn.
Điều này sẽ hạn chế nhu cầu đi vay của các ngân hàng trung gian, và gián tiếp gây áp lực buộc
các ngân hàng trung gian nâng lãi suất cho vay. Ngoài việc gián tiếp làm thay đổi lãi suất,
chính sách tái chiết khấu của ngân hàng trung ương còn có vai trò quan trọng khi nó giúp các
ngân hàng trung gian khai thông ăng lực thanh toán,nhờ đó có thể cứu vãn được những cơn

sụp đổ tài chính – ngân hàng. Cụ thể , khi các ngân hàng bị đe dọa phát sản, ngân hàng trung
ương sẽ cấp dự trữ cho chúng thông qua tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá, từ đó
khôi phục được khả năng thanh toán của những ngân hàng này. Vài trò này ngày càng trở nên
quan trọng hơn, bởi vì chúng ta đang trải qua những khó khăn ngày càng nhiều của hệ thống
ngân hàng hiện nay.
Tuy nhiên chính sách tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, có thể tạo cho các ngân hàng trung gian tính ỷ lại
Thứ hai, ngân hàng trung ương có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu, nhưng không thể bắt
buộc các ngân hàng trung gian phải đi vay. Nghĩa là ngân hàng trung ương bị lệ thuộc vào nhu
cầu của các ngân hàng trung gian khi sử dụng công cụ này.
Từ đó, các nhà kinh tế có đề xuất những biện pháp cải cách công cụ tái cấp vốn. Đề xuất được
sự đồng tình rộng rãi nhất là đề xuất gắn lãi suất tái chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ
được một nguyên nhân chính gây ra các biến động trong khối lượng các khoản xin tái chiết
khấu với một lãi suất thị trường, vì nhận thấy có nhiều điểm lợi:
Thứ nhất, hầu hết những biến động trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường với lãi suất tái
chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ được một nguyên nhân chính gây ra các biến động
trong khối lượng các khoản xin tái chiết khấu.
Thứ hai, ngân hàng trung ương vẫn có thể tiếp tục sử dụng công cụ tái cấp vốn để thực hiện vai
trò người cho vay cuối cùng, mà không sợ bị các ngân hàng lợi dụng. Bởi vì lúc này các ngân
hàng trung gian sẽ không còn đi vay từ của sổ chiết khấu để sinh lưoij được nữa, bắt buộc nó
phải cân nhắc kỹ trước khi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm trong kinh doanh.
Thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất đòi hỏi nền kinh tế cần phải có những điều kiện cơ bản
nhất định:
-Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
-Hành lang pháp lý ổn định, hoản chỉnh và đồng bộ
-Hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, có sức cạnh tranh cao
-Thị trường tài chính vận hành có hiệu quả
-Các nguồn lực trong nước được phân phối và sử dụng hợp lý
Trong xu thế nhội nhập, việc thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất là cần thiết, song cần tiến
hành một cách thận trọng, cân nhắc kỹ càng, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác

động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế xã hội.
Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan trọng của chính sách
tiền tệ. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế
trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết
kiệm và đầu tư phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong
mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế. ngược lai, nếu sử dụng nó cứng nhắc, không phù
hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền
kinh tế.


17

* Hạn mức tín dụng:
Bằng công cụ hạn mức tín dụng, ngân hàng trung ương quy định cho các ngân hàng trung gian
một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho phép ngân hàng trung ương ấn
định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian hất định.
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể.Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị rường, cung
cầu tín dụng luôn biến động không ngừng. Do đó, công cụ này ít được áp dụng.
Ví dụ:
Câu 10: . Thị trường tiền tệ là gì? Các đặc trưng cơ bản của thị trường tiền tệ? Hãy trình
bày những nội dung cơ bản của các công cụ của thị trường tiền tệ?
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn có thời gian luân
chuyển vốn không quá 1 năm.
Đặc trưng cơ bản của TTTT:
Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạm thời thiếu hụt tiền tệ
phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Do vậy, khi thông qua các giao dịch mua bán quyền sử
dụng vốn ngắn hạn mà thị trường tiền tệ đã cung ứng một lượng tiền tệ cho các bên cần vốn
nhằm thoả mãn nhu cầu thanh toán (cũng chính vì lý do này mà nó được gọi là TTTT.
Những chủ thể cung vốn (cho vay) thì lại là những chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi (có thể là
do chưa dùng tới hoặc đang tìm kiếm cơ hội đầu tư), do vậy họ tranh thủ chuyển nhượng

quyền sử dụng các khoản vốn nhàn rỗi của họ trong thời gian ngắn để hưởng lãi. Tuy nhiên vì
là đầu tư thời gian ngắn, đầu tư mang tính nhất thời những nhà đầu tư này quan tâm không
nhiều tới mức lãi mà quan tâm hơn tới độ an toàn, tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi
cần. Các hình thức đầu tư như thế trên thị trường tiền tệ thường có độ an toàn tương đối cao,
nhưng lại thường có mức lợi tức thấp.
Khối lượng và giá trị giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy mô lớn nên bên cho vay
thường là các ngân hàng, công ty tài chính hoặc phi tài chính; còn bên vay vốn thường là
Chính phủ, các công ty và ngân hàng.
Chứng khoán mua bán trên thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn chứng khoán
dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn.
Chứng khoán ngắn hạn cũng có biên độ dao động giá nhỏ hơn các chứng khoán dài hạn và do
vậy chúng là khoản đầu tư an toàn hơn.
Các công cụ của thị trường tiền tệ:
Do có kỳ hạn thanh toán ngắn nên những công cụ được mua bán trên thị trường tiền tệ chỉ chịu
mức dao động giá tối thiểu và vì thế nó là loại đầu tư ít rủi ro nhất.
1.1 Tín phiếu kho bạc Nhà nước (treasury bill)
Tín phiếu kho bạc Nhà nước là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc phát hành
để bù đắp những thiếu hụt tạm thời của NSNN. Tín phiếu Kho bạc Nhà nước có các kỳ hạn 3;
6; và 12 tháng.
Đặc điểm:
+Tín phiếu KBNN thuộc loại chứng khoán chiết khấu


18

Nghĩa là nó không được nhà phát hành trả lãi mà được bán ra ngoài với giá chiết khấu (thấp
hơn mệnh giá), như vậy khi tín phiếu đáo hạn nhà đầu tư nhận được đủ mệnh giá và phần
chênh lệch giữa giá chiết khấu và mệnh giá chính là lãi của nhà đầu tư.
+ Độ rủi ro thấp nhất trong các loại chứng khoán
Có độ rủi ro thấp nhất trên thị trường tiền tệ là do khả năng vỡ nợ của nhà phát hành là rất khó

xảy ra. Bởi đến kỳ thanh toán của tín phiếu, nếu chưa có tiền trả nợ, Chính phủ hoàn toàn có
thể tăng thuế hoặc vay thêm tiền để trả nợ.Vì lí do này nên nó được xem như là công cụ có tính
lỏng cao nhất và mức lãi suất áp dụng cho loại công cụ này thường thấp hơn so với các công
cụ khác trên thị trường tiền tệ.
+ Được phát hành theo từng lô và bằng phương pháp đấu giá
Chủ thể tham gia đấu giá chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các trung
gian tài chính khác. Các cuộc đấu giá trái phiếu ngắn hạn 91 ngày và 182 ngày được thực hiện
hàng tuần và người ta theo dõi chặt chẽ hoa lợi của nó trong thị trường tiền tệ để biết các dấu
hiệu của chiều hướng lãi suất. KBNN cũng mở đấu thầu loại trái phiếu kho bạc ngắn hạn 52
tuần, 4 tuần một lần. Thỉnh thoảng KBNN cũng phát hành trái phiếu kho bạc quản lý tiền mặt
ngắn hạn, trái phiếu kho bạc ngắn hạn trả thuế trước (tax anticipation bills - trái phiếu kho bạc
ngắn hạn dự phòng thuế) và chứng chỉ nợ ngân khố (treasury certificates of indebtedness). Cá
nhân nhà đầu tư không đệ trình giá đặt mua có cạnh tranh (Competitive bid) sẽ được bán trái
phiếu kho bạc ngắn hạn theo giá trung bình của giá đặt mua có cạnh tranh đã trúng thầu.
Thực tế ở Việt nam công cụ này khá phát triển. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua
NHNN được đưa vào hoạt động từ năm 1994 đã trở thành một kênh huy động vốn rất quan
trọng đáp ứng kịp thời vốn cho NSNN và nền kinh tế. Sau hơn 14 năm hoạt động, thị trường
đấu thầu tín phiếu kho bạc đã có gần 50 thành viên . Tuy vậy trong thời gian qua hầu như chỉ
có các NHTM Nhà nước tham gia đấu thầu và trúng thầu. Nguyên nhân là khối ngân hàng còn
lại có nguồn vốn nhỏ, vốn khả dụng hạn chế và vẫn còn đó một số hạn chế trong cách thức tổ
chức đấu thầu nên các ngân hàng quy mô nhỏ hơn không có điều kiện tham gia và trúng thầu.
Một điểm cần lưu ý là các tín phiếu do kho bạc phát hành là nhằm bù đắp cho bội chi ngân
sách nhà nước trong ngắn hạn, bù đắp bội chi tạm thời. Còn đối với tín phiếu được phát hành
bởi Ngân hàng Nhà nước thì lại có mục đích chống lạm pháp thông qua hấp thụ lượng tiền đã
phải bỏ ra để hấp thụ lượng ngoại tệ quá dư thừa trong nền kinh tế.
1.2 Các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng(CD)
Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ nợ do các NHTM phát hành, xác nhận một khoản tiền gửi
có kỳ hạn or ko có kỳ hạn của ng đc cấp chứng chỉ, vs lsuất quy định cho từng thời hạn nhất
định. Trước đây CD không được phép bán lại và nếu người gửi tiền rút vốn trước hạn thì sẽ bị
chịu lãi phạt. Tuy nhiên về sau, nhằm tăng tính hấp dẫn và linh hoạt cho CD nên các ngân hàng

bắt đầu đã cho phép các CD mệnh giá lớn được phép bán lại trước hạn và thậm chí là bán cho
chính ngân hàng phát hành. Năm 1966, Citibank đã lần đầu phát hành CD bán lại được với
những loạI có mệnh giá cao trên $100.000, và từ đó CD được gọi là chứng chỉ tiền gửi có thể
chuyển nhượng được (NCDs). CD có thể được bán lại ở thị trường cấp 2.
Đối với các khoản tiền dân cư gửi tiết kiệm vào ngân hàng cũng được coi là chứng chỉ tiền gửi,
cùng bản chất là khoản tiền gửi vào ngân hàng và được ngân hàng cam kết trả lãi định kỳ cho


19

khoản tiền gửi, trả gốc khi đáo hạn nhưng chứng chỉ cho khoản tiết kiệm lại không chuyển
nhượng được.
1.3 Thương phiếu (commercial paper)
Thương phiếu là chứng chỉ ghi nhận sự cam kết thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định
trong một thời hạn nhất định, đây là các giấy tờ chứng nhận quyền chủ nợ về số tiền hàng hóa,
dvụ mua bánchịu giữa các DN vs nhau.
Đặc điểm:
+ Được phát hành theo hình thức chiết khấu.
Thương phiếu là loại trái phiếu doanh nghiệp ngắn hạn nhất với thời gian từ 30 đến 270 ngày.
Nó thường được chào bán bởi các công ty phát hành hoặc các hãng môi giới, và thường được
bán theo lô. Thương phiếu có độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nên mức chiết khấu của nó
cũng vì thế mà cao hơn.
+ Thương phiếu nguyên thuỷ xuất hiện trong các hoạt động mua bán chịu hàng hoá giữa các
công ty. Ngày nay thương phiếu còn được dùng để vay vốn trên thị trường tiền tệ.
+ Trong các hoạt động thương mại quốc tế của bên phía các chủ thể kinh tế Việt Nam, thương
phiếu được sử dụng qua 2 kênh:
- Hoạt động xuất nhập khẩu
- Hoạt động vay nợ nước ngoài
+ Thương phiếu ở Việt nam được phát hành bởi ngân hàng thì có tên gọi là kỳ phiếu ngân
hàng. Ngân hàng huy động một lượng tiền mặt trong một thời hạn ngắn, khi đáo hạn mà chủ sở

hữu thương phiếu không tới ngân hàng nhận số tiền được hoàn lại thì số tiền ấy sẽ được
chuyển sang hưởng lãi không kỳ hạn.
Về mặt luật pháp, các doanh nghiệp áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu được ban hành theo
Công ước quốc tế đầu tiên ký tại Giơ-ne-vơ 1930 (Uniform Law for Bill of Exchange) hoặc hệ
thống pháp luật về thương phiếu của Anh - Mỹ chứ không lựa chọn luật Việt Nam vì pháp luật
về thương phiếu ở Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Đối với thương mại
trong nước, ngoài nguyên nhân hệ thống pháp luật về thương phiếu chưa hoàn thiện còn có
nguyên nhân từ việc sử dụng thương phiếu còn khá mới mẻ nên các doanh nghiệp Việt Nam
vẫn chưa sử dụng thương phiếu như một phương tiện tín dụng, thanh toán trong quan hệ mua
bán trong nước.
1.4. Chấp phiếu ngân hàng (banker’s acceptance)
Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được ngân hàng đảm
bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên tờ hối phiếu.
Đặc điểm:
+ Ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán
Trong quan hệ buôn bán với nhau, việc không chắc chắn về năng lực tài chính và khả năng
thanh toán của đối tác là một điều dễ hiểu. Do vậy nhu cầu cần có người bão lãnh, đảm bảo
cho đối tác về mặt thanh toán là một xu hướng tất yếu. Người bán cần một ngân hàng uy tín


20

chấp nhận thay mặt doanh nghiệp đối tác trả nợ cho mình trong trường hợp đối tác mất khả
năng thanh toán nợ nần cho mình. Như vậy khi ngân hàng đóng dấu chấp nhận bảo lãnh thanh
toán thì người trả tiền hối phiếu bây giờ không phải là người mua hàng nữa mà là ngân hàng
bảo lãnh.
Ngân hàng sẽ yêu cầu người mua chịu phải ký quỹ vào gửi ngân hàng một phần hoặc toàn bộ
số tiền của tờ hối phiếu hoặc séc hoặc ngân hàng sẽ đồng ý cho vay để thanh toán hối phiếu,
bên cạnh đó ngân hàng sẽ thu một khoản phí đảm bảo thanh toán.
+ Người sở hữu chấp phiếu có thể bán lại trên thị trường tiền tệ với giá chiết khấu.

Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên chấp phiếu ngân hàng là một công cụ nợ có độ
an toàn khá cao đặc biệt là ngân hàng đứng ra chấp nhận bảo lãnh càng có uy tín lớn thì tờ
chấp phiếu càng có độ an toàn cao. Khi cần tiền mặt gấp thì người sở hữu chấp phiếu sẽ có thể
đem bán chúng trên thị trường tiền tệ.
Trong các giao dịch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam đi các nước, phương thức thanh toán phổ
biến nhất và được các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa) ưa chuộng
nhất hiện nay là thanh toán theo tín dụng chứng từ (gọi tắt là thanh toán L/C -Letter of Credit).
Các thông lệ và tập quán liên quan đến L/C được quy định chi tiết trong các bộ quy tắc UCP
600 của Phòng Thương mại quốc tế ICC.
Về bản chất L/C là một cam kết thanh toán có điều kiện của ngân hàng phát hành, do vậy, nhà
xuất khẩu Việt Nam có thể an tâm về khả năng thanh toán của người mua hàng. Nhưng không
phải cứ có L/C là có tiền. Nguyên nhân là do các rủi ro có thể xảy đến từ bản chất cam kết
thanh toán có điều kiện của L/C rất dễ bị các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý khiến cho
bộ hồ sơ gặp lỗi và ngân hàng từ chối chi trả. Hình thức chấp phiếu ngân hàng còn chưa thực
sự phát triển ở Việt Nam.
1.5. Hợp đồng mua lại (REPO)
Hợp đồng mua lại là hợp đồng mà ng KD cam kết sẽ mua lại vs mức giá cao hơn vào thời hạn
sau những CK mà ng đó đã bán cho ng mua..
Đặc điểm
+ Repo là một công cụ vay nợ ngắn hạn của các ngân hàng (thường không quá 2 tuần)
+Tín phiếu kho bạc là vật thế chấp.
Chỉ từ tháng 7/2000, các hợp đồng mua lại và mua lại đảo ngược mới bắt đầu được NHNN
Việt Nam sử dụng như là một trong các công cụ của nghiệp vụ thị trường mở. Đến nay công cụ
này đã ngày càng phát huy vai trò là một công cụ chủ yếu nhằm điều tiết tiền tệ của các tổ
chức tín dụng.
1.6. Trái phiếu ngắn hạn của công ty: là chứng nhận nợ do các công ty p/hành
1.7. Tín phiếu NH: là chứng chỉ vay nợ do NHTW p/hành bán cho các NHTM và các tổ chức
tín dụng.
Câu 11: NHTW có thể thay đổi mức cung tiền bằng những công cụ nào? Trình bày khái
quát các công cụ đó? Nêu xu hướng sử dụng công cụ điều tiết khối lượng tiền cung ứng

hiện nay của các NHTW? Giải thích?


21

Khái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân
hàng, độc quyền phát hành tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng thực hiện chức năng tổ chức
điều hòa lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền.
Các công cụ mà NHTW có thể sử dụng để thay đổi mức cung tiền đó là: tỷ lệ dự trữ bắt buộc,lãi
suất,nghiệp vụ thị trường “mở”,hạn mức tín dụng, ,công cụ tái cấp vốn
* Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàn trung gian phải đưa vào dự trữu theo luật
định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc – do ngân hàng
trung ương quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền
gửi mà ngân hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mối ngân
hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung
ương có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung
ứng cho nền kinh tế.
Một cách khái quát, khi ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân
hàng trung ương có thẻ làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian,
và kết quả là khối tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho nền kinh té giảm
hoặc tăng. Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của ngân hàng
trung ương nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho nền kinh tế, thông
qua hệ số tạo tiền.
Ưu điểm của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến
tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực. Mặt khác, chỉ cần một sự
thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đối với khối tiền tệ là rất lớn. Tuy
nhiên, ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó là khi ngân hàng trung ương muốn thay
đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện được nều sử dụng công cụ này. Bên
cạnh đố, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các

ngân hàng thương mại. Hơn nữa, nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ gây
ra tình trạng không ổn định cho các ngân hàng thương mại và làm cho việc quản lý khả năng
thanh khoản của các ngân hàng này khó khăn hơn. Do đó, một sự gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đòi hỏi ngân hàng trung gian, cũng như phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ
để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới.
* Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sụ biến đổi của chi
phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh
tế. Do đó, lãi suất là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ. thực tế cho thấy,
tùy theo điều kiện thực tế và trình độ phát triển của TTTC, NHTƯ có thẻ sử dụng công cụ lãi
suất để điều hành chính sách tiền tệ theo các chính sách sau:
Ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các loại lãi
suất như:
+ Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc
+ Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn
+ Công bố lãi suất cơ ản cộng với niên độ giao dịch


22

Dựa vào các loại lãi suất đã được ấn định, ngân hàng trung gian áp dụng để giao dịch kinh
doanh với khách hàng. Cơ chế này đã tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ áp dụng nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, cũng như ở các nước đang phát triển khác trước đây. Một trong
những lý do chính để giải thích tại sao ngân hàn trung ương không để thị trường quyết định lãi
suất mà phải quy định chặt chẽ lãi suất như vậy là vì trình độ phát triển thị trường tiền tệ còn
thấp, năng lực cạnh tranh các ngân hàng trung gian còn yếu kém.
Ngân hàng trung ương áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thành theo theo cơ chế
thị trường. Và để can thiệp vào lãi suất thị rường, ngân hàng trung ương có thể gián tiếp can
thiệp thông qua các chính sách:
+ Công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường.

+ Sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và
điều chỉnh lãi suất thị trường.
Tuy nhiên chính sách tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, có thể tạo cho các ngân hàng trung gian tính ỷ lại.
Thứ hai, ngân hàng trung ương có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu, nhưng không thể bắt
buộc các ngân hàng trung gian phải đi vay. Nghĩa là ngân hàng trung ương bị lệ thuộc vào nhu
cầu của các ngân hàng trung gian khi sử dụng công cụ này.
Từ đó, các nhà kinh tế có đề xuất những biện pháp cải cách công cụ tái cấp vốn. Đề xuất được
sự đồng tình rộng rãi nhất là đề xuất gắn lãi suất tái chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ
được một nguyên nhân chính gây ra các biến động trong khối lượng các khoản xin tái chiết
khấu với một lãi suất thị trường, vì nhận thấy có nhiều điểm lợi:
Thứ nhất, hầu hết những biến động trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường với lãi suất tái
chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ được một nguyên nhân chính gây ra các biến động
trong khối lượng các khoản xin tái chiết khấu.
Thứ hai, ngân hàng trung ương vẫn có thể tiếp tục sử dụng công cụ tái cấp vốn để thực hiện vai
trò người cho vay cuối cùng, mà không sợ bị các ngân hàng lợi dụng. Bởi vì lúc này các ngân
hàng trung gian sẽ không còn đi vay từ của sổ chiết khấu để sinh lưoij được nữa, bắt buộc nó
phải cân nhắc kỹ trước khi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm trong kinh doanh.
Thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất đòi hỏi nền kinh tế cần phải có những điều kiện cơ bản
nhất định:
-Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
-Hành lanhg pháp lý ổn định, hoản chỉnh và đồng bộ
-Hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, có sức cạnh tranh cao
-Thị trường tài chính vận hành có hiệu quả
-Các nguồn lực trong nước được phân phối và sử dụng hợp lý
Trong xu thế nhội nhập, việc thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất là cần thiết, song cần tiến
hành một cách thận trọng, cân nhắc kỹ càng, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác
động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế xã hội.
Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan trọng của chính sách
tiền tệ. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế

trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết
kiệm và đầu tư phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong
mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế. ngược lai, nếu sử dụng nó cứng nhắc, không phù


23

hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền
kinh tế.
* Thị trường mở
Công cụ thị trường mở phản ánh việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán chứng từ có giá trên
thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt đến mục tiêu điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông.
Các chứng từ có giá mà các ngân hàng trung ương thường sử dụng để tiến hành nghiệp vụ thị
trường mở là các chứng khoán kho bạc, bởi vì thị trường của những chứng khoán này rất
“lỏng” và có dụng lượng kinh doanh lớn.
Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền mặt và
séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ của các
ngân hàng trung gian giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng cả các ngân hàng trung gian
và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Bên cạnh đó, việc ngân hàng trung
ương bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng cung chứng khoán, trong điều kiện các
nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán này sẽ hạ và đo vậy, lãi suất của chứng khoán tăng
lên. Lãi suất chứng khoán tăng buộc các ngân hàng trung gian phải tăng lãi suất ngân hàng lên
theo để tránh tình trạng công chúng rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng khoán,
nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.
Ngược lại, khi ngân hàng trung ướng đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị trường
mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, dự trữ của các ngân hàng thương mại tăng lên.
Mặt khác, việc ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng khoán, trong
điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng dẫn đến lãi suất chứng khoán
giảm và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, nghĩa là một cách
bành trướng khối tiền tệ.

Với cách vận hành như trên, NVTTM có một số ưu điểm hơn so với các công cụ khác của
CSTT cụ thể:
-NHTƯ có thể chủ động tiến hành mà ko phải phụ thuộc vào nhu cầu của các NH trung gian.
-Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ nào.
Nếu mong muốn của ngân hàng tủng ương là thay đổi sự trữ của các ngân hàng ở biên độ lướn,
nó sẽ mua hoặc bán nhiều chứng khoán. Và ngược lại, muốn thay đổi dự trữ của các ngân hàng
trung gian ở biên độ nhỏ, ngân hàng trung ương sẽ thực hiện việc mua và bán một ít chứng
khoán thôi.
-Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến
hành. Giả sử ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên
thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ
bán trên thị trường mở và ngược lại.
-Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm
trễ về mặt hành chính.
Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đòi hỏi hầu hết tiền trong lưu thông phải
nằm ở tài khoản của ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không
dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị trường tài chính phát triển. Vì vậy công cụ này được
sử dụng thường xuyên nhất, hiệu quả nhất đối với ngân hàng trung ương của các nước công
nghiệp phát triển – nơi có công nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hoàn chỉnh.
Còn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng công cụ này chưa
mang lại hiệu quả cao.


24

* Hạn mức tín dụng:
Bằng công cụ hạn mức tín dụng, ngân hàng trung ương quy định cho các ngân hàng trung gian
một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho phép ngân hàng trung ương ấn
định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian hất định.
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể.Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị rường, cung

cầu tín dụng luôn biến động không ngừng. Do đó, công cụ này ít được áp dụng.
*Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân
hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung
ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và
khai thông khả năng thanh toán của họ.
xu hướng sử dụng các công cụ để điều tiết khối lượng tiền cung ứng hiện nay
sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra ở Mỹ và Châu Âu đã làm cho Việt Nam cũng
không thoát khỏi vòng xoáy của sự suy giảm kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
suy giảm mạnh, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,52% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm
2009(1). Đây là mức suy thoái tồi tệ nhất của Việt Nam trong hơn 10 năm trở lại đây
Trước tình huống đó, NHNN đã có hàng loạt các biện pháp quyết liệt và đúng đắn để ngăn
ngừa suy thoái kinh tế và dần lấy lại đà phục hồi cho nền kinh tế Việt Nam. Nhìn chung, trong
khoảng thời gian 3 năm 2007-2009, NHNN đã có những biện pháp khá linh hoạt trong điều
hành CSTT từ “thắt chặt” trong khoảng thời gian 2007-2008 và “nới lỏng” từ đầu năm 2009nay.
Giai đoạn “thắt chặt” CSTT
Năm 2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều năm tốc độ lạm phát ở mức
“vừa phải”. năm 2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát” tức là nguyên nhân gây ra lạm
phát năm 2008 chủ yếu là lạm phát do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu chi phí đầu vào trên
thị trường thế giới tăng cao kỷ lục (dầu thô vượt ngưỡng hơn 147 USD/ thùng, giá phôi thép,
thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1.000 USD/tấn, phân bón, vải sợi... đều tăng cao) còn do yếu tố nội
sinh của nền kinh tế nước ta. Đó là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện
sinh hoạt và sản xuất tăng, chính phủ tiến hành cải cách tiền lương làm thu nhập dân cư tăng
và chi phí của doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát. Trong điều
hành CSTT, việc sử dụng công cụ thị trường mở và tỷ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm
không đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong năm 2008, do
tỷ giá giữa USD/VND xuống thấp kỷ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi suy thoái
kinh tế ở Mỹ và việc FED cắt giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống mức thấp nhất trong nhiều
năm qua (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam gặp nhiều khó
khăn.
Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện CSTK “thắt lưng buộc bụng” nhằm hạn chế lượng tiền

trong lưu thông như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả
(tiết kiệm hơn 40.000 tỷ VND). Dồn vốn cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức thời cho
nền kinh tế như các dự án nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng... Chính phủ còn giao các
đơn vị hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm chi thường xuyên 10%,
tăng cường chống thất thu thuế và nuôi dưỡng nguồn thu, cơ cấu lại các khoản nợ và rà soát lại
các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của
các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữa nhà nước....


25

Giai đoạn “nới lỏng” CSTT từ cuối năm 2008 tới nay
CSTT bao giờ cũng có độ trễ thời gian nhất định. Việc “thắt chặt” tiền tệ mạnh tay của Chính
phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh nhưng cũng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế
chậm lại vì luồng tiền dành cho nhu cầu đầu tư, tiêu dùng giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm
cho các doanh nghiệp không thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt doanh
nghiệp vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Cùng với việc nền kinh tế thế
giới rơi vào khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ do “cho vay dưới chuẩn” trong lĩnh vực
bất động sản gây ra. Mỹ, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác rơi vào suy thoái khiến cho nhu cầu
nhập khẩu hàng hoá giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI, FII giảm gây khó khăn cho việc xuất
khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam đã càng làm cho kinh tế nước ta rơi vào suy thoái
trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối năm 2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng là lúc
NHNN quay lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện “thắt chặt” tiền tệ đòi
hỏi kết hợp chặt chẽ giữa CSTT và CSTK mới đem lại hiệu quả tốt nhất thì việc “nới lỏng”
tiền tệ cũng đòi hỏi việc làm tương tự. Điều đó thể hiện ở việc Chính phủ tiến hành thực hiện 5
nhóm giải pháp cấp bách nhằm “ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm
bảo an sinh xã hội”. Trong đó kích cầu nền kinh tế là một trong những giải pháp trọng tâm.
Chính phủ đã dùng 9 tỷ USD cho gói kích cầu kinh tế (đứng thứ 3 thế giới về tỷ trọng gói kích
cầu/tổng GDP, chỉ sau Trung Quốc và Malaixia) trong đó dành riêng 1 tỷ đô la (tương đương
hơn 17 ngàn tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất vay vốn lưu động

ngắn hạn cho doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân để sản xuất, kinh doanh nhằm giảm giá
thành hàng hoá và tạo việc làm. Đây là cách làm khá độc đáo và sáng tạo, “rất Việt Nam”
nhưng mang lại hiệu quả khá cao. Sau đó, vào ngày 04/04/2009, Chính phủ tiếp tục hỗ trợ 4%
lãi suất và kéo dài thời hạn hỗ trợ đến hết năm 2011 cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
vay vốn trung dài hạn để đầu tư mới cho sản xuất kinh doanh. Bằng việc hỗ trợ lãi suất, Chính
phủ đã khuyến khích tăng nhanh chóng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp vốn đang rất
thiếu vốn sản xuất đồng thời mở đầu ra cho các NHTM vốn đang trong tình trạng dư thừa vốn.
Tính đến 12/11/2009, theo NHNN, tổng dự nợ trong chương trình hỗ trợ lãi suất đã lên tới trên
414.460,21 tỷ đồng trong đó DNNN vay 62.605,20 tỷ đồng, DN ngoài quốc doanh 285.290,27
tỷ đồng, hộ sản xuất 66.565,02 tỷ đồng. Chính phủ cũng quyết định giảm thuế cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ 30% số TNDN của quý IV/2008 và cả năm 2009. Đối với 70% số thuế còn
lại của năm 2009, các doanh nghiệp được giãn thời hạn nộp trong 9 tháng. Các đơn vị sản xuất
hàng xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử được áp dụng thời hạn
giãn thuế tương tự. Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất
thuế GTGT từ 01/02/2009 đến 31/12/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn 90%
thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.
CSTT ”nới lỏng”của NHNN kết hợp CSTK của Chính phủ.
Từ tháng 10/2008, NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ ”thắt chặt” sang
”nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp:
- Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ 13%/năm xuống 7%/năm,
lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm
xuống 5%/năm).
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%; điều hành linh hoạt
nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM; điều chỉnh
giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống 1,2%/năm.


×