Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vấn đề phân định biên giới trên biển giữa việt nam và campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ HẰNG

vÊn ®Ò ph©n ®Þnh biªn giíi trªn biÓn
gi÷a viÖt nam vµ campuchia
d-íi gãc ®é luËt ph¸p quèc tÕ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ HẰNG

vÊn ®Ò ph©n ®Þnh biªn giíi trªn biÓn
gi÷a viÖt nam vµ campuchia
d-íi gãc ®é luËt ph¸p quèc tÕ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐỖ THỊ HẰNG


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÂN
ĐỊNH BIÊN GIỚI BIỂN ................................................................... 7
1.1.

Khái niệm “đƣờng biên giới quốc gia trên biển”, “phân
định biên giới trên biển” .................................................................... 7


1.1.1. Khái niệm pháp lý về “đường biên giới quốc gia trên biển” ............... 7
1.1.2. Khái niệm “phân định biên giới biển" và ý nghĩa của “phân
định biên giới biển” .............................................................................. 8
1.2.

Các căn cứ pháp lý về xác lập đƣờng biên giới quốc gia
trên biển ............................................................................................ 10

1.3.

Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề phân định biên giới
trên biển............................................................................................. 13

1.4.

Các phƣơng pháp phân định biên giới quốc gia trên biển ........... 18

1.4.1. Phương pháp đường trung tuyến, cách đều........................................ 20
1.4.2. Phương pháp phân định khác ............................................................. 21
1.5.

Tổng quan thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam và các
quốc gia trong khu vực .................................................................... 27

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI TRÊN BIỂN
GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA .......................................... 29
2.1.

Khái quát chung vùng biển Việt Nam – Campuchia .................... 29


2.1.1. Vị trí địa lý ......................................................................................... 29


2.1.2. Điều kiện tự nhiên – dân cư – xã hội ................................................. 29
2.1.3. Các vấn đề trên biển Việt Nam và Campuchia cần giải quyết........... 32
2.2.

Lịch sử vấn đề biên giới trên biển giữa Việt Nam - Campuchia ..... 40

2.3.

Hiện trạng giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển
giữa Việt Nam – Campuchia ........................................................... 52

2.3.1. Quan điểm của Việt Nam ................................................................... 52
2.3.2. Quan điểm của Campuchia ................................................................ 55
2.3.3. Những vấn đề pháp lý còn tồn tại cần giải quyết ............................... 61
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI TRÊN BIỂN GIỮA VIỆT
NAM VÀ CAMPUCHIA ................................................................. 69
3.1.

Tầm quan trọng của việc phân định biên giới biển Việt Nam
– Campuchia ..................................................................................... 69

3.2.

Giải pháp lựa chọn biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp ..... 73


3.3.

Giải pháp giải quyết các vấn đề pháp lý đang tồn tại ................... 75

3.3.1. Vấn đề quy chế pháp lý của đường Brévié ........................................ 75
3.3.2. Vấn đề vận dụng nguyên tắc Utis Possidentis ................................... 76
3.4.

Các giải pháp khác ........................................................................... 79

3.4.1. Sử dụng vai trò của Asean.................................................................. 79
3.4.2. Vấn đề hợp tác khác chung ................................................................ 81
3.4.3. Những giải pháp khác ........................................................................ 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình

Tên hình

Trang

Hình 2.1: Bản đồ vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia theo
Hiệp định 7/7/1982 (đường Brévié 1939)

39

Hình 2.2: Bản đồ các vùng chồng lấn tại Vịnh Thái Lan


51

Hình 2.3: Phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam – Campuchia

57


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Vương quốc Campuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hai
quốc gia láng giềng kế cận nhau. Hiện nay, hai quốc gia đều mong muốn và
quan tâm tới vấn đề xác định rõ chủ quyền hải đảo và vạch đường biên giới
lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa[21]. Mặc dù, vấn đề phân
định biển trong vịnh Thái Lan đã có khá nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu từ
trước tới nay nhưng vấn đề chuyên biệt về giải quyết phân định biên giới trên
biển giữa Việt Nam và Campuchia tính đến thời điểm hiện tại vẫn còn khá để
ngỏ, thu hút các nhà nghiên cứu chuyên sâu. Năm 1982, hai bên đã ký Hiệp
định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của mỗi bên
theo một đường mà Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié đề xuất năm 1939,
thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản
lý, hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán như cũ, mọi hoạt
động liên quan đến thăm dò dầu khí phải có ý kiến nhất trí của bên kia.
Hiện nay, giữa hai bên vẫn còn tồn tại vấn đề phân định đường biên
giới nội thủy và lãnh hải trong vùng nước lịch sử là và đường biên giới trong
vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Mong muốn của hai bên là sẽ tiếp
tục giải quyết vấn đề tồn tại trên theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,
vì lợi ích quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai quốc gia, phù hợp với pháp luật
và thực tiễn quốc tế [21].

Trong tiến trình tìm đạt các thỏa thuận chung, cả nhà nước đều bày tỏ
cam kết tôn trọng các hiệp ước, hiệp định về biên giới mà hai nước đã ký kết
trong những năm 1980 và trên cơ sở đó, đang tiếp tục đàm phán giải quyết
các vấn đề biên giới lãnh thổ còn tồn tại để sớm xây dựng được biên giới hoà
bình, hữu nghị hợp tác trên đất liền, trên biển giữa hai quốc gia. Một trong

1


những lý do hai bên chưa phân định được biên giới trên biển là do những khác
biệt về lập trường phân định, chính vì vậy, luận văn sẽ là một cơ hội để có thể
tập trung, phân tích, làm rõ những khác biệt này và đề xuất phương án giải
quyết mang tính thực tiễn và tính khả thi cao hơn.
Vấn đề này vẫn chưa phải là cấp thiết nhưng nó vẫn đang để ngỏ cho
tất cả các học giả, chuyên gia nghiên cứu tìm hướng giải quyết trên cơ sở xây
dựng những luận điểm, lập luận để hài hòa được lập trường, nhu cầu, lợi ích
và các yêu sách mà các bên đưa ra. Do lập trường của Campuchia là phân
định biên giới trên bộ xong mới phân định biên giới trên biển, năm 2013, còn
phía Việt Nam mong muốn giải quyết triệt để song song vấn đề phân định
biên giới trên bộ và trên biển. Việt Nam và Campuchia mới hoàn thành xong
phân giới cắm mốc trên bộ nên thời gian tới, hai nước sẽ tập trung phân định
biên giới trên biển. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, đề tài luận văn này, vấn
đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia trong thời gian
tới sẽ được quan tâm nhiều hơn do vấn đề chủ quyền quốc gia ngày càng
được giới khoa học lẫn nhà cầm quyền quan tâm trú trọng cùng sự thay đổi
khá trọng yếu về quan hệ chính trị quốc tế giữa các quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia hiện nay, hai
bên còn phải tiếp tục đàm phán để xác định ranh giới biển trong vùng nước
lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đề tài “Giải quyết

vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc
độ luật pháp quốc tế” hoàn toàn phù hợp với mã ngành đào tạo Thạc sỹ luật
quốc tế do đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu của môn khoa học Luật biển quốc
tế. Nội dung đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi phân định biên giới trên biển
giữa Việt Nam và Campuchia, không trải rộng vấn đề đến vấn đề ranh giới
biển giữa Việt Nam và Campuchia hay vấn đề phân định biển trong cả vịnh

2


Thái Lan. Do xác định được phạm vi nghiên cứu ngay từ khi đặt vấn đề, đề tài
sẽ được đi sâu nghiên cứu các vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt
Nam và Campuchia trong đó có vùng nội thủy, lãnh hải và quy chế các đảo
trong vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia.
Từ trước đến nay, chủ đề phân định biên giới trên biển đã đạt được bề
dày của sự khai thác về mặt khoa học pháp lý cũng như các khoa học chuyên
ngành khác. Tuy nhiên, vấn đề chuyên biệt về giải quyết phân định biên giới
trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế thì chưa
thật sự nhiều tài liệu chuyên sâu. Một số tác giả đã có là các bài viết trên các
tạp chí, trong các cuộc hội thảo như: “Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ
giữa Việt Nam và các nước láng giềng” (Lê Minh Nghĩa, Tài liệu hội thảo về
phát triển khu vực Châu Á Thái Bình dương và tranh chấp trên biển Đông);
“Vấn đề phân định biển trong Luật biển quốc tế hiện đại” (PGS.TS. Nguyễn
Bá Diến, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế-Luật, số 1/2007); “Pháp luật
quốc tế và việc vạch biên giới giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng”
(ThS. Huỳnh Minh Chính, Tập san biên giới và lãnh thổ số 14/2003). Phía
Campuchia thì tiêu biểu có luận án tiến sỹ của Sarin Chhak (“Les Fronties Du
Cambodge”), Khim Y (“Le Limites Du Domaine Cambodge “) và các tài liệu
chuyên sâu, tác giả đã nỗ lực tham khảo và sử dụng các nguồn tài liệu để làm
phong phú nguồn tư liệu tham khảo sau này.

Đề tài luận văn này tiếp tục nghiên cứu những vấn đề nhằm giải quyết
vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia nhưng theo
một cách tiếp cận và một góc độ khai thác mới. Bởi lẽ, các đề tài, công trình
nghiên cứu khoa học vấn đề phân định biên giới biển Việt Nam và
Campuchia đã được tiếp cận ở góc độ khai thác những quan điểm các bên đưa
ra nói chung. Còn phạm vi đề tài này đi thẳng vào vấn đề áp dụng cơ sở pháp
lý để giải quyết triệt để vấn đề phân định biên giới biển giữa Việt Nam và

3


Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế trong đó có sự phân tích, so sánh để
tìm ra được một cách giải quyết đạt hiệu quả nhất và đưa ra đề xuất một cơ
chế riêng dựa trên những ưu điểm và hạn chế của các tình hình hiện có. Bởi
vậy, vẫn là góp phần tiếp tục vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh
thổ đất nước, nhưng bài luận văn đi theo một con đường riêng, đảm bảo tính
mới trong nghiên cứu khoa học cũng như giá trị thực tiễn cần đạt được.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài “Vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và
Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế” được lựa chọn có nhiều điểm mới
so với các đề tài khác/đề tài nghiên cứu đã được hoàn thành. Điển hình như:
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu các nguyên tắc để giải quyết vấn đề
phân định biên giới trên biển, luận văn nêu được các đề xuất các phương
hướng giải quyết phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia,
lý giải vấn đề Đường Brévié năm 1939 theo nguyên tắc Uti Possidetis để
vận dụng vào giải quyết vấn đề phân định biên giới giữa Việt Nam và
Campuchia vào trong thực tiễn.
Do mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn được xây dựng với mong
muốn có những đóng góp của đề tài về mặt khoa học xây dựng cơ sở pháp lý
vững chắc và có nhiều lý luận sắc bén cũng như thực tiễn làm căn cứ để trong

vấn đề giải quyết triệt để phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và
Campuchia trong tương lai.
4. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn được xây dựng với hai mục tiêu rõ ràng.
Mục tiêu tổng quát: Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề phân
định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc độ luật pháp
quốc tế nhằm xây dựng cơ sở pháp lý đồng thời đề xuất giải pháp nhằm phân
định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia mà thực tiễn cũng như

4


lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang còn nhiều điều ngổn ngang.
Mục tiêu cụ thể: Xây dựng được cơ sở pháp lý về phân định biên giới
trên biển; Đề xuất những phương án, những hướng đi mới để giải quyết triệt
để vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia vận
dụng pháp luật quốc tế.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên đối tượng là các Công ước luật biển
năm 1982, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam – Thái Lan, Hiệp định về
vùng nước lịch sử chung giữa Việt Nam – Campuchia, các tài liệu văn kiện lý
luận trước đây về vấn đề biển Việt Nam và Campuchia.
Với đề tài có mục đích đóng góp cho lý luận khoa học và quan trọng
hơn là đóng góp vào thực tiễn giải quyết vấn đề biên giới trên biển giữa Việt
Nam và Campuchia một cách triệt để, Luận văn sẽ được giới hạn phạm vi
nghiên cứu trong văn bản pháp lý, bài phân tích, luận điểm đưa ra của các bên
trong vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp duy vật biện
chứng để tiếp cận vấn đề và định hướng về vấn đề cần viết. Đây là các

phương pháp định hướng, phương pháp cơ bản. Ngoài ra, để hoàn thành tốt
luận văn này, Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như đánh giá
tổng hợp, so sánh và phân tích chuyên sâu để phù hợp với phạm vi và nội
dung nghiên cứu đã giới hạn từ đầu, tránh bị xao lãng hay dàn trải mà không
đạt được mục tiêu nghiên cứu.
Việc nghiên cứu tài liệu và xây dựng được nội dung chi tiết luận văn,
Luận văn đã được tận dụng các điều kiện thuận lợi để nghiên cứu. Cụ thể là,
Luận văn được dành khối lượng lớn và phần nhiều thời gian cho việc nghiên
cứu các tài liệu phía Campuchia xây dựng các luận điểm của họ đối với vấn

5


đề phân định biên giới biển với Việt Nam và các nước láng giềng của
Campuchia dựa trên các nguồn tư liệu từ thư viện, các mối quan hệ ngoại giao
với các cơ quan có liên quan, mạng trực tuyến... Đồng thời, Luận văn cũng
được dành thời gian lớn để nghiên cứu các tài liệu sẵn có của các chuyên gia,
nhà nghiên cứu Việt Nam và các văn kiện chính thức của Nhà nước Việt Nam
liên quan tới đề tài. Các nguồn tư liệu sẽ được thu thập từ thư viện, các cơ
quan ngoại giao, Ủy ban Biên giới quốc gia,...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầ u và kế t lu ận, nội dung dự kiến của luận văn bao gồm
ba phần lớn với những ý tưởng triển khai tập trung vào:
Chương 1. Tổng quan pháp luật quốc tế về phân định biên giới trên biển
Chương 2. Tình hình và thực trạng vấn đề biên giới trên biển giữa
Việt Nam và Campuchia.
Chương 3. Giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt
Nam và Campuchia.

6



Chương 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÂN ĐỊNH
BIÊN GIỚI BIỂN
1.1. Khái niệm “đƣờng biên giới quốc gia trên biển”, “phân định
biên giới trên biển”
1.1.1. Khái niệm pháp lý về “đường biên giới quốc gia trên biển”
Đất, biển, trời và lòng đất là bộ phận cấu thành và không thể tách rời
của lãnh thổ quốc gia. Trong đó, phần đất - bao gồm đất liền, đảo, sông
suối, hồ nội địa, lòng đất bên dưới - từ lâu đã được phân chia hết giữa các
nước bằng các đường biên giới quốc gia xác định bởi thực tế quản lý hay
điều ước quốc tế. Đường biên giới trên đất liền được coi là bền vững và bất
khả xâm phạm [26]. Tuy vậy, trên thực tế, hiện nay vẫn diễn ra nhiều tranh
chấp biên giới và đường biên giới trên đất liền giữa các quốc gia trên thế
giới cũng không phải luôn luôn ổn định. Vùng trời của các quốc gia về cơ
bản cũng đã được phân định rõ ràng từ lâu và dựa chủ yếu vào việc phân
chia các vùng đất.
Trong thời gian gần đây có rất nhiều sự thay đổi mới lớn lao về phạm
vi và chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc một quốc gia ven biển, cũng
như vùng biển, đáy và lòng đất dưới đáy vùng biển không thuộc bất kỳ một
quốc gia nào. Nguyên tắc cơ bản của luật biển là đất thống trị biển. Có thể
thấy các thay đổi này diễn ra theo một tiến trình ba bước cơ bản sau [12]:
Cho đến tận giữa thế kỷ 20, các quốc gia ven biển chỉ có vùng biển hẹp
(lãnh hải) thuộc chủ quyền rộng 3 hải lý (với mỗi hải lý bằng 1.852m). Phía
ngoài còn lại tất cả là biển cả. Cá nhân, tổ chức, tàu thuyền của mỗi quốc gia
được hưởng quyền tự do biển cả theo tập quán quốc tế. Hầu như không ai chia
biển với ai cả, đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các nước thường được
hình thành và tôn trọng theo tập quán [26].


7


Kể từ năm 1958 đến năm 1994, các quốc gia ven biển có lãnh hải và
vùng tiếp giáp lãnh hải rộng không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài
dưới biển ra không quá độ sâu 200 m nước (theo Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1958). Các quốc gia láng giềng kế cận hay đối diện nhau,
căn cứ vào luật pháp quốc gia, tự mình quy định các vùng biển dẫn đến có thể
có sự chồng lấn lên nhau. Luật biển quốc tế lúc đó quy định các quốc gia có
vùng chồng lấn phải cùng nhau giải quyết vạch đường biên giới biển (bao
gồm biên giới biển trong lãnh hải, biển trong vùng tiếp giáp và thềm lục địa)
trong vùng chồng lấn.
Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng về khoa học kỹ thuật và
sự phát triển kinh tế thì khả năng chinh phục, khai thác biển của con người
không ngừng được mở rộng. Vấn đề phân định biên giới trên biển của các
quốc gia càng trở thành vấn đề cấp thiết. Từ khi Công ước Liên hợp quốc về
luật biển ra đời năm 1982, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc
gia ven biển được xác định và công nhận đáng kể theo quy định trong Công
ước. Đồng thời, với sự ra đời của Công ước Luật biển năm 1982, có thêm
khoảng 400 đường biên giới, quốc gia trên biển cần phải được phân định lại.
Cho đến nay, mới có khoảng 1/3 trên số đó là được phân định bằng các thỏa
thuận song phương hay bằng phán quyết của Tòa án [12]. Vì thế, quá trình
phân định biển nói chung và phân định biên giới trên biển nói riêng sẽ còn
tiếp tục và sẽ chiếm một vị trí trung tâm trong quan hệ chính trị, pháp lý quốc
tế hiện đại.
Tóm lại, đường biên giới quốc gia trên biển là đường phân định phạm
vi các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
1.1.2. Khái niệm “phân định biên giới biển" và ý nghĩa của “phân
định biên giới biển”
Phân định biên giới trên biển là việc hoạch định và phân chia các vùng


8


biển thuộc chủ quyền quốc gia bao gồm nội thủy, lãnh hải trong trường hợp
hai hay nhiều quốc gia có sự chồng lấn [18].
Phân định biên giới biển luôn được nhận định là vấn đề trung tâm của
Luật Biển và là một vấn đề quan trọng trong thực tiễn phân định biển. Vấn
đề này không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi quốc gia có biển trong xác định
biên giới vùng biển quốc gia mà còn có vai trò đối với việc xác lập trật tự
trên biển. Bên cạnh đó, phân định biên giới trên biển cũng là một vấn đề có
tính nhạy cảm vì liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích quốc gia. Chính
vì vậy, để tránh tình trang xung đột, việc phân định biên giới trên biển phải
được tiến hành một cách hợp lý, tôn trọng pháp luật quốc tế và thực tiễn ở
các quốc gia. Một cách tổng quát, phân định biên giới trên biển được hiểu là
quá trình hoạch định đường phân chia các vùng biển thuộc chủ quyền giữa
hai hay nhiều quốc gia hữu quan. Vấn đề phân định biên giới trên biển được
đặt ra cho các quốc gia có các vùng biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Việc
phân định biên giới trên biển nhằm mục đích xác định rõ đường biên giới
trên biển phân chia vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
Việc xác định biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với quy định
của Luật Biển năm 1982 và thực tiễn quốc tế. Đây là cơ sở pháp lý để xác
định biên giới quốc gia, khu vực biên giới quốc gia trên biển; góp phần thiết
thực vào việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên các khu vực
biển, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng- an ninh cho các địa
phương ven biển, đảo. Nó cũng góp phần thiết thực xây dựng biên giới quốc
gia nói chung, biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam nói riêng thành biên
giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển theo quan điểm, đường lối đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới.


9


1.2. Các căn cứ pháp lý về xác lập đƣờng biên giới quốc gia trên biển
Trong vấn đề phân định biển thì vấn đề phân định biên giới quốc gia
trên biển luôn được ưu tiên. Do vậy, các quy phạm quốc tế về luật biển dành
chủ yếu để phân định các vùng biển giữa các quốc gia [12], tạo ra công cụ
hiệu quả để các quốc gia có thể thương lượng, thỏa thuận vùng biển chồng lấn
có cơ sở. Các căn cứ pháp lý bao gồm các Điều ước quốc tế, song phương, đa
phương như:
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) được
107 quốc gia ký kết (trong đó có Việt Nam) vào ngày 30/4/1982 là một
văn bản pháp lý quốc tế quan trọng quy định về các vùng biển mà các
quốc gia ven biển có quyền được hưởng cũng như việc sử dụng và khai
thác biển và đại dương.
Các điều ước song phương ký kết giữa các quốc gia về vấn đề phân
định biên giới trên biển và phân định các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
hay quyền chủ quyền quốc gia. Ví dụ như: Hiệp định về vùng nước lịch sử
giữa Việt Nam và Campuchia năm 1982...
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế
nói riêng như nguyên tắc công bằng, nguyên tắc thỏa thuận trong phân định
biên giới trên biển, nguyên tắc đất thống trị biển, nguyên tắc xác lập chủ
quyền bằng chiếm hữu, nguyên tắc Uti possidetis…
Ngoài ra còn có các tập quán quốc tế, án lệ, học thuyết, quan điểm của
các nhà luật học nổi tiếng thế giới…
Cơ sở pháp lý về xác lập các đường biên giới trên biển giữa các quốc
gia dựa trên các nguồn của luật quốc tế nêu trên.
Chủ quyền trên biển là quyền tối cao của quốc gia đối với vùng biển
nằm bên trong đường biên giới quốc gia trên biển bao gồm vùng nội thủy và

vùng lãnh hải.

10


Biên giới trên biển của mỗi quốc gia phải được hiểu là ranh giới phía
ngoài của lãnh hải do quốc gia ven biển thiết lập phù hợp với luật pháp và tập
quán quốc tế.
Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc
gia này, Biên giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía ngoài của lãnh
hải bao quanh đảo.
Biên giới trên biển giữa các quốc gia kế cận hoặc đối diện nhau có lãnh
hải chồng lấn nhau được thiết lập trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia liên
quan và được thể hiện bằng điều ước về hoạch định biên giới biển.
Đồng thời, biên giới quốc gia trên biển cũng được thể hiện trên các
hải đồ có tỉ lệ thích hợp hoặc bằng bảng kê các tọa độ địa lí các điểm có ghi
rõ hệ thống trắc địa được sử dụng. Trên cơ sở đó, các quốc gia ven biển,
trong đó có Việt Nam, đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với các vùng biển liên quan. Ví
dụ như tại Điều 5, Luật biên giới quốc gia Việt Nam xác định: “Biên giới
quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng các toạ độ trên hải đồ
là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của
quần đảo của Việt Nam” [21].
Theo quy định của Luật biển quốc tế, tất cả các quốc gia ven biển đều
được quyền hoạch định các vùng biển của mình như nội thuỷ, lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế. Đây không những là quyền mà ở một khía cạnh nào đó còn
là nghĩa vụ của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia thành viên của Công ước
Luật biển 1982, nhằm tạo ra sự ổn định và trật tự trong việc sử dụng và quản lý
biển. Trong trường hợp vùng biển của quốc gia độc lập, không có liên quan đến
lợi ích của các quốc gia khác thì ranh giới của các vùng biển do các quốc gia

ven biển xác định phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Tuy nhiên, trong
trường hợp vùng biển của quốc gia ven biển lại nằm tiếp liền, đối diện hoặc

11


chồng lấn với vùng biển của các quốc gia khác thì việc hoạch định biên giới
trên biển cần phải có sự thoả thuận của các quốc gia liên quan.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển, một quốc gia ven biển
có năm vùng biển: Nội thuỷ, lãnh hải (rộng 12 hải lý), vùng tiếp giáp lãnh hải
(rộng 12 hải lý), vùng đặc quyền về kinh tế (rộng 200 hải lý), vùng thềm lục
địa (rộng từ 200 hải lý đến tối đa là 350 hải lý). Trước năm 1994, một số quốc
gia đã theo tinh thần của Công ước Luật biển 1982 để vạch đường biên giới
biển chung giữa họ với nhau.
Khi các vùng biển trên của các quốc gia láng giềng kế cận hoặc đối
diện nhau có sự chồng lấn thì các bên phải cùng nhau giải quyết việc vạch
biên giới chung trong các vùng biển đó.
Dựa trên quy định của Công ước Luật Biển 1982 thì “Chủ quyền quốc
gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong
trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một
vùng biển tiếp liền gọi là lãnh hải” [17]. Chủ quyền này được mở rộng đến
vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất của biển này. Nếu chiếu
theo quy định này thì hình dạng của đất nước Việt Nam không còn là hình
chữ S như cách hiểu thông thường. Lãnh hải có ranh giới được xác định bởi
chiều rộng của lãnh hải, tất cả các quốc gia đều có quyền tự ấn định chiều
rộng lãnh hải của mình và chiều rộng đó không được vượt quá 12 hải lý kể từ
đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải (đường cơ sở) được vạch theo
đúng Công ước Luật Biển 1982. Cách xác định đường cơ sở của mỗi quốc gia
cũng không hoàn toàn giống nhau mà căn cứ theo hình dạng đường bờ biển
của quốc gia ven biển.

Thông thường, đường cơ sở được tính là ngấn nước triều thấp nhất dọc
theo bờ biển. Tuy nhiên trong trường hợp đảo có cấu tạo bằng san hô hoặc
đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh thì đường cơ sở được tính là ngấn nước

12


triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá. Trong trường hợp các
quốc gia có bờ biển cấu tạo đặc biệt như lồi lõm, bị khoét sâu, bờ biển cực kỳ
không ổn định… thì đường cơ sở được xác định bằng phương pháp đường cơ
sở thẳng. Phương pháp xác định đường cơ sở thẳng là nối liền các điểm thích
hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải.
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc
gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm
nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy
nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa
lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới
lãnh hải của hai quốc gia một cách khác. Như vậy trong trường hợp hai hoặc
nhiều quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau mà việc ấn định chiều
rộng lãnh hải không đủ 12 hải lý thì phải tuân theo nguyên tắc này. Mặc dù
vậy việc cụ thể hóa nguyên tắc này trong thực tế thì vẫn còn nhiều bất cập gây
tranh cãi giữa các quốc gia có chung vùng biển.
Do vậy, việc ấn định chiều rộng lãnh hải và hoạch định đường biên giới
trên biển mang lại lợi ích to lớn cho các quốc gia ven biển trong việc giữ gìn
an ninh quốc gia và các lợi ích về thương mại.
1.3. Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển
Việc giải quyết vấn đề phân định biên giới phải tuân thủ những nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế như nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp

vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, chung sống hòa bình, dân tộc tự
quyết, Pacta Sunt Servanda, nguyên tắc hòa bình và giải quyết các tranh chấp
quốc tế,... Bên cạnh đó, những nguyên tắc đặc thù của luật biển được áp dụng
để giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển.

13


Nguyên tắc vạch đường biên giới chung trên biển: Theo Điều 2 của
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Luật Biển năm
1982): "Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và
các vùng nội thủy tới một vùng biển tiếp giáp với chúng, dưới tên gọi là lãnh
hải và có bề rộng không vượt quá 12 hải lý" [5]. Như vậy, đây là lần đầu tiên
lãnh hải của các quốc gia ven biển được Công ước Luật Biển năm 1982, quy
định có bề rộng thống nhất 12 hải lý. Ranh giới ngoài của lãnh hải được coi là
đường biên giới quốc gia trên biển [5]. Khác với đường biên giới quốc gia trên
đất liền, đường biên giới quốc gia trên biển không được đánh dấu bằng các cột
mốc quốc giới, mà được công bố bằng các bản kê tọa độ địa lý của đường biên
giới đó trong các hiệp ước phân định lãnh hải hay gián tiếp bằng các bản kê tọa
độ địa lý các điểm của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và được
thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp. Hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý
các điểm này phải được công bố theo đúng thủ tục và gửi Liên hợp quốc để lưu
chiểu. Tuy nhiên, đường biên giới này là đường biên giới quốc gia không hoàn
toàn, vì tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không gây hại" đường biên
giới này theo quy định của Luật Biển năm 1982.
Nguyên tắc vạch đường biên giới chung trong lãnh hải là theo thỏa thuận
giữa các quốc gia có liên quan; nếu không đạt thỏa thuận thì đương nhiên theo
đường trung tuyến (đường cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở lãnh
hải của mỗi quốc gia) trừ trường hợp có danh nghĩa lịch sử hay hoàn cảnh đặc
biệt (Điều 12 Công ước về Lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958). Và nguyên

tắc vạch biên giới lãnh hải vẫn được giữ như cũ là các quốc gia phải cùng
nhau thoả thuận, nếu không thì các bên phải theo đường trung tuyến (Điều 15
Công ước Luật biển 1982).
Như vậy, vào thời kỳ này, nguyên tắc vạch biên giới biển chủ yếu là
phải theo thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan, nếu không thì thường dùng
đường trung tuyến.
14


Tuy nhiên, việc dùng đường trung tuyến một cách máy móc có thể
dẫn đến bất hợp lý do điều kiện địa lý các vùng biển rất khác nhau. Do đó
sau này trong Công ước Luật biển 1982, các quốc gia không coi việc dùng
đường trung tuyến như một nguyên tắc nữa mà như một phương pháp
phân định biên giới trên biển.
Nguyên tắc vạch đường biên giới trên biển đảm bảo các quốc gia láng
giềng kế cận hay đối diện nhau phải bàn bạc với nhau trên cơ sở pháp luật quốc
tế để có thể thỏa thuận được một nguyên tắc công bằng cho các bên. Nếu
không thỏa thuận được thì có thể sử dụng các cơ quan tài phán (Toà án) quốc
tế. Trong khi chờ đợi giải quyết, các bên có thể thỏa thuận biện pháp tạm thời
để cùng khai thác, sử dụng vùng biển liên quan mà không ảnh hưởng đến việc
vạch đường biên giới sau này. Nếu nơi nào đã có hiệp định hay thỏa thuận chia
rồi thì giữ nguyên giá trị (Điều 74 và 83 Công ước Luật biển 1982).
Theo Công ước Luật biển 1982, cơ bản là nguyên tắc thỏa thuận và
công bằng theo pháp luật quốc tế. Công ước không bắt buộc phải dùng biện
pháp phân chia nào mà để tuỳ thuộc các quốc gia xem xét. Tuy vậy, qua thực
tiễn, người ta thường khởi đầu bằng việc vạch một đường trung tuyến, sau đó
có điều chỉnh thích hợp để đạt được sự công bằng cho các quốc gia liên quan.
Hoạt động phân định biên giới trên biển là một hành vi mang tính quốc tế, cần có
sự thừa nhận của Cộng đồng quốc tế, do đó được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định, trong đó có hai nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắc

thỏa thuận và nguyên tắc công bằng.
Nguyên tắc thỏa thuận: Do tính chất liên quan đến việc xác định giới hạn
thụ đắc các vùng biển trên cơ sở pháp luật quốc tế của ít nhất là hai quốc gia
ven biển, liền kề, đối diện hoặc có danh nghĩa pháp lý, yêu sách chồng nhau thì
phải có nghĩa vụ đàm phán một cách có thiện chí và có ý định thực sự đạt tới
một kết quả thực định, các quốc gia cần thông qua đàm phán, thương lượng để

15


thỏa thuận các phương pháp và tiêu chuẩn phân định (ngay cả khi đưa việc
phân định biên giới trên biển đến một bên thứ ba phân xử, các bên liên quan
nhất thiết phải có sự đồng thuận). Nguyên tắc thỏa thuận đều được đề cập trong
các điều 15, Điều 74, Điều 83 Công ước Luật Biển năm 1982.
Các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế còn khẳng định thêm: “Sự
phân định này phải được mưu cầu và thực hiện qua một thỏa thuận theo theo
một cuộc đàm phán thiện chí với ý định thực tế đạt tới kết quả tích cực” [31].
Các bên khi thỏa thuận phải có thiện chí, các yêu cầu đưa ra phải có tinh thần,
xây dựng; các bên phải tiến hành đàm phán nhằm đi đến một thỏa thuận
không phải đơn thuần tiến hành một cuộc đàm phán hình thức; các bên có
nghĩa vụ xử sự sao cho đàm phán có ý nghĩa, đó không phải là trường hợp khi
một trong các bên khăng khăng giữ lập trường của riêng mình mà không trù
liệu một điều chỉnh nào cả [34]. Thỏa thuận phải thực chất để có thể nêu lên
các yếu tố và hoàn cảnh có thể để củng cố lập luận của mình, song không vì
thế mà làm cản trở đàm phán.
Nguyên tắc công bằng: Mặc dù nội dung chính của nguyên tắc này
chưa được quy định rõ ràng và thể hiện trong công ước Luật Biển năm 1982
mà mới chỉ được đề cập trong công ước Geneva năm 1958 về thềm lục địa và
trong các phán quyết của Tòa án quốc tế. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án
quốc tế, một số nguyên tắc công bằng và tiêu chuẩn công bằng đã ra đời: 05

tiêu chuẩn công bằng trong vụ thềm lục địa Libia/Malte năm 1984. Tuy vậy,
Tòa lại chưa nhất trí được nguyên tắc và tiêu chuẩn công bằng trong lĩnh vực
phân định biên giới trên biển. Các chuyên gia cho rằng, công bằng nên được
hiểu một cách đơn giản là sự xem xét và đặt lên bàn cân tất cả các hoàn cảnh
hữu quan, để tìm được một giải pháp mà các bên có thể chấp nhận và coi kết
quả mà nó mang lại là công bằng [17].
Công bằng trong phân định biên giới trên biển được tính đến là việc

16


xem xét, cân nhắc tất cả các hoàn cảnh hữu quan bao gồm nhưng không hạn
chế ở bờ biển, luồng hàng hải để tìm ra một giải pháp mà các bên có thể chấp
nhận được. Các bên có thể coi kết quả của giải pháp mang lại là công bằng
chứ không phải là sự áp dụng máy móc, khắt khe một loạt các quy tắc,
nguyên tắc mang tính hình thức.
Đối với Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia được Quốc hội nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003; Nghị định số
140/2004/NĐ-CP, ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, nêu rõ:
Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu
bằng các tọa độ trên hải đồ là phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh
hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam được xác định
theo Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa
XHCN Việt Nam và các quốc gia hữu quan [11].
Các đường phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh
tế và thềm lục địa xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán của Cộng hòa
XHCN Việt Nam theo Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa
Cộng hòa XHCN Việt Nam và các quốc gia hữu quan. Khu vực biên giới trên
biển tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã,

phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo.
“Nguyên tắc” áp dụng các dàn xếp tạm thời: Trong khi chờ đợi ký kết
các thỏa thuận phân định biên giới trên biển một cách rõ ràng và đạt được
đồng thuận từ các bên, các quốc gia hữu quan này bằng nỗ lực hết sức mình,
cần phải thiện chí đi đến dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn, và dàn xếp
tạm thời này không phương hại đến hoạch định cuối cùng và cũng làm giảm
đi những căng thẳng, xung đột giữa hai bên thời gian trước đó. Cũng theo
Điều 74 và Điều 83 của Công ước Luật biển 1982 thì quy định về dàn xếp

17


tạm thời mang tính chất khuyến khích là chủ yếu hơn là tính vào làm một
nguyên tắc.
1.4. Các phƣơng pháp phân định biên giới quốc gia trên biển
Các yếu tố liên quan đến vạch đường biên giới trên biển để áp dụng các
quy định của Công ước Luật biển 1982 bao gồm:
Thứ nhất, một quốc gia ven biển phải quy định và vạch biên giới các
vùng biển của mình theo đúng các quy định của Công ước Luật biển 1982.
Thứ hai, các quốc gia thỏa thuận và đàm phán về các vùng biển
chồng lấn bằng con đường song phương, ký kết các thỏa thuận phân định
các vùng biển này.
Thứ ba, đường biên giới trong vùng biển có sự chồng lấn phải là đường
được các quốc gia liên quan đàm phán và cùng thỏa thuận hay cùng chấp
nhận nếu việc giải quyết là do Toà án quốc tế thực hiện. Đường biên giới
trong vùng biển chồng lấn do một bên đơn phương quy định chỉ được coi là
một yêu sách, không có giá trị pháp lý quốc tế [32].
Các bên trước hết phải cùng nhau xác định cụ thể khu vực chồng lấn
phải giải quyết. Tiếp đó, để bảo đảm nguyên tắc trong phân định biên giới
trên biển, cần phải xem xét đến các hoàn cảnh đặc biệt có liên quan mà chủ

yếu là các hoàn cảnh địa lý tự nhiên như hình thái đường bờ biển liên quan
(bờ biển lồi hay lõm), chiều dài của hướng chung của đường bờ biển của các
bên, sự hiện diện của các đảo ở khu vực biển liên quan. Các đảo, tuỳ vị trí,
kích thước, tuỳ thoả thuận của các quốc gia liên quan sẽ có hiệu lực khác
nhau khi các bên vạch đường biên giới.
Về mặt pháp lý, các yếu tố về kinh tế bao gồm nhưng không hạn chế tài
nguyên, truyền thống khai thác và sử dụng biển, nhu cầu giao thông hàng hải
không phải là các yếu tố trực tiếp liên quan đến việc vạch đường biên giới.
Tuy nhiên, khi giải quyết, để bảo đảm tính hợp lý và công bằng, phù hợp với

18


các quy định về cho phép đánh bắt hải sản dư thừa trong vùng đặc quyền về
kinh tế, về sự khuyến khích các quốc gia liên quan hợp tác bảo vệ tài nguyên
và vùng biển, tính đến lợi ích chính đáng của người dân sinh sống ở vùng biển
liên quan, giữ gìn hoà bình và ổn định trên biển, các quốc gia liên quan
thường tính đến các yếu tố trên khi bàn bạc giải quyết.
Có một số quốc gia liên quan, do tính chất phức tạp của vấn đề, khi
không thể tự mình giải quyết được việc vạch đường biên giới biển giữa họ thì
nhờ đến Tòa án quốc tế để giải quyết. Tuy nhiên, đại đa số các quốc gia đều
muốn giải quyết thông qua đàm phán hòa bình để tìm ra giải pháp. Giải pháp
do các quốc gia tự mình cùng nhau tìm ra thường có tính hợp lý, công bằng và
bền vững hơn, dễ đi vào thực tiễn hơn.
Một vấn đề hiện nay đang nổi lên đó là tranh chấp về chủ quyền trên
biển giữa các quốc gia đã và đang diễn ra ở nhiều vùng biển trên thế giới.
Chưa kể tới tranh chấp nhỏ lẻ mang tính song phương giữa các quốc gia thì
tranh chấp nhiều biên (giữa nhiều quốc gia khác nhau thường tập trung ở các
khu vực sau: Ấn Độ Dương, Nam Thái Bình Dương, Biển Nam Trung Hoa,
Bắc Thái Bình Dương, Biển Bắc Cực, Đại Tây Dương, Biển Địa Trung Hải

và Biển Đen, Biển Carribe và Vịnh Mexico. Những tranh chấp biển đều có ít
nhiều liên quan tới chủ quyền quốc gia. Nếu biên giới biển chưa được xác
định, các bên đưa ra yêu sách về chủ quyền với các đảo và vùng biển xung
quanh, điều này sẽ tạo ra các vùng chồng lấn [6]. Như đã đề cập trên, pháp
luật quốc tế và thực tiễn giữa các quốc gia cho thấy rằng việc phân định biên
giới trên biển thường được tiến hành bằng con đường thoả thuận. Sự thoả
thuận giữa các bên liên quan này cũng chính là yếu tố quyết định phương
pháp và thẩm quyền phân định biên giới trên biển. Theo đó, các bên liên quan
có thể thoả thuận lựa chọn hình thức đàm phán để cùng phân định biên giới
trên biển hoặc lựa chọn một bên thứ ba như toà án hoặc trọng tài quốc tế đứng

19


×