Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng cổ phiếu thường tại công ty dược phẩm hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.38 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
 Lý do chọn đề tài
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp
muốn đứng vững thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều quan
trọng, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bất kì một doanh nghiệp nào
cũng cần phải có lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Vốn chính là
tiền đề của sản xuất kinh doanh và là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của
mỗi doanh nghiệp. Xong, huy động vốn như thế nào để có hiệu quả tốt mới là
vấn đề mà doanh nghiệp cần quan tâm.
Thêm vào đó, việc chính thức gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
WTO (World Trade Organization) vào ngày 11/01/2007, đã mở ra cho các
doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội và thách thức to lớn trong việc hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu. Trước tình hình này, các doanh nghiệp Việt Nam lại
càng cần có nhiều vốn hơn nữa, với một lượng vốn lớn như vậy doanh nghiệp
không thể chỉ trông chờ hoàn toàn vào nguồn vốn từ Ngân hàng. Do đó, các
doanh nghiệp cần huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán để tăng
nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ thực tế cũng như nhận thức được tầm quan trọng của việc huy
động vốn, đặc biệt là hình thức huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán
sau thời gian học tập tại trường và thực tập tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà
Tây em lựa chọn đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng cổ
phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây" làm chuyên đề báo
cáo thực tập.
 Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về việc nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng
cổ phiếu thường của Công ty Cổ phần.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ
phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây.


- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động


vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm
Hà Tây.
 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn bằng cổ phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây.
 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hiệu quả huy động vốn bằng hình
thức phát hành cổ phiếu thường và giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn
bằng hình thức phát hành cổ phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà
Tây.
 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu: Đề tài có sử dụng một số tài liệu
liên quan đến việc huy động vốn thông qua TTCK được thu thập từ sách báo,
tạp chí, bài viết trên báo điện tử,…Bên cạnh đó, thông tin về tình hình huy động
vốn và hiệu quả huy động vốn bằng cổ phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược
phẩm Hà Tây.
- Phương pháp xử lý và phân tích thông tin/số liệu: Các thông tin/số liệu
thu thập được tổng hợp sau đó được xử lý và phân tích thông qua các chỉ tiêu
phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp thống kê so sánh: Từ việc tổng hợp thông tin đưa ra đánh
giá, so sánh hiệu quả huy động vốn bằng cổ phiếu thường của năm nay so với
các năm trước hoặc so sánh với mức bình quân của ngành. Trên cơ sở đó đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng cổ phiếu thường tại Công ty
Cổ phần Dược phẩm Hà Tây.
 Kết cấu của chuyên đề: Chuyên đề gồm có 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Lý luận chung về huy động vốn bằng cổ phiếu thường của
Công ty Cổ phần.


Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn bằng hình thức phát hành

cổ phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng hình thức
phát hành cổ phiếu thường tại Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG CỔ PHIẾU
THƯỜNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.Công ty Cổ phần
Công ty Cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp
hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong Công
ty Cổ phần, số vốn điều lệ của Công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ
đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có
Công ty Cổ phần mới được phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một
bằng chứng xác nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một Công ty Cổ
phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Công ty Cổ phần là
một trong loại hình Công ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là để niêm yết
trên thị trường chứng khoán.
Bộ máy các Công ty Cổ phần được cơ cấu theo pháp luật và điều lệ Công
ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và hoạt
động có hiệu quả. Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng
Quản trị và Ban Điều hành. Đối với Công ty Cổ phần có trên mười một cổ đông
là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của Công ty phải có
Ban Kiểm soát.
Khái niệm Công ty Cổ phần được xem đồng nghĩa với Công ty đại chúng
bởi cấu trúc, mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số bộ luật, trong
đó có Luật Việt Nam ghi rõ Công ty Cổ phần cần có tối thiểu 3 cổ đông, bất kể
đó là pháp nhân hay thể nhân. Tuy nhiên, các quy định đối với một Công ty

niêm yết thường yêu cầu Công ty phải có số cổ đông lớn hơn nhiều. Các quy
định cụ thể của cả 6 sàn chứng khoán Hoa Kỳ đều cho thấy điều này, từ các sàn
sơ khai như Pink Sheet, OTCBB, NASDAQ, NYSE; trong đó OTCBB yêu cầu


Công ty ít nhất có 40 cổ đông, còn NYSE lại yêu cầu Công ty phải có ít nhất
2.000 cổ đông.
1.1.2.Cổ phiếu
1.1.2.1. Khái niệm
Cổ phiếu là chứng chỉ do Công ty Cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ
xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ đông của Công ty đó.
Người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của
Công ty phát hành. Mức độ sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà Công ty
nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ mọi thành quả cũng như
tổn thất trong quá trình hoạt động của Công ty.
1.1.2.2. Các loại cổ phiếu
Trong các nghiên cứu về cổ phiếu thì loại hình chứng khoán này được phân
chia thành nhiều loại dựa trên những tiêu chí về quyền lợi cổ đông, hình thức cổ
phiếu,… Tuy nhiên, khi xem xét cổ phiếu của Công ty Cổ phần người ta thường
phân chia theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông
thông qua cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
 Cổ phiếu thường
Khái niệm: Cổ phiếu thường hay còn gọi là cổ phiếu phổ thông là nền tảng
của Công ty Cổ phần. Cổ phiếu thường tạo cho người sở hữu những quyền và
lợi ích cơ bản khi đầu tư vào Công ty Cổ phần. Đặc trưng cơ bản nhất của cổ
phiếu thường là gắn với quyền bỏ phiếu và được xác lập theo nguyên tắc “mỗi
cổ phần một lá phiếu”.
Đặc điểm:
- Đây là loại chứng khoán vốn, tức là Công ty huy động vốn chủ sở hữu.
- Cổ phiếu thường không có thời gian đáo hạn hoàn trả vốn gốc.

- Cổ tức chi trả cho cổ đông phụ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính
sách cổ tức của Công ty.
- Cổ đông thường (chủ sở hữu) có các quyền đối với Công ty như:


+ Quyền trong quản lý: Cổ đông thường được tham gia bỏ phiếu và ứng cử
vào Hội đồng quản trị, cũng như quyền được tham gia quyết định các vấn đề
quan trọng đối với hoạt động của Công ty.
+ Quyền đối với tài sản của Công ty: Quyền được nhận cổ tức và phần giá
trị còn lại của Công ty khi thanh lý sau chủ nợ và cổ đông ưu đãi.
+ Quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần: Cổ đông thường có thể chuyển
nhượng quyền sở hữu cổ phần của mình cho người khác để thu hồi hoặc chuyển
dịch vốn đầu tư.
+ Ngoài ra cổ đông thường có thể được hưởng các quyền khác: Quyền
được ưu tiên mua trước các cổ phần mới do Công ty phát hành,… tùy theo quy
định cụ thể trong điều lệ của Công ty.
- Trách nhiệm của cổ đông thường: Bên cạnh việc được hưởng các quyền
lợi, cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà Công ty gặp phải
tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ trong giới
hạn phần vốn góp của mình vào Công ty.
Ưu điểm:
- Một người giữ cổ phiếu thường có thể tham gia bầu ban giám đốc Công ty
tại cuộc họp các cổ đông hàng năm và có quyền phát biểu về những vấn đề khác
như: Đạo đức Công ty, việc giám sát, việc mua lại và nắm quyền kiểm soát
Công ty khác (tiếp quản một Công ty bằng cách mua lại đa số cổ phần của nó).
- Những người chủ cổ phiếu thường có thể kiếm được nhiều tiền, nếu như
giá cổ phiếu tăng lên và có thu nhập từ cổ tức.
- Có quyền ủy thác cho người khác đại diện cho mình khi họp Đại hội đồng
cổ đông.
- Có quyền ưu tiên mua cổ phiếu phát hành thêm để tránh bị loãng quyền

sở hữu.
Nhược điểm:
- Các cổ đông giữ cổ phiếu thường nhận cổ tức sau các cổ đông giữ cổ
phần ưu đãi, những người giữ phiếu nợ hoặc trái phiếu. Khi Công ty bị thanh lý,


những người giữ cổ phiếu thường nhận tài sản cuối cùng so với các thành phần
khác.
- Cổ phiếu thường không ổn định nên có tính rủi ro cao.
 Cổ phiếu ưu đãi
Ngoài cổ phiếu phổ thông là cổ phiếu bắt buộc, Công ty Cổ phần có quyền
lựa chọn và phát hành các cổ phiếu ưu đãi tùy thuộc điều kiện cụ thể của mỗi
Công ty nhằm thiết lập cơ cấu vốn linh hoạt phù hợp với yêu cầu phát triển của
mình.
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một Công ty,
đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền
lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được
gọi là cổ đông ưu đãi của Công ty.
Ưu điểm:
- Cổ phiếu ưu đãi được ưu đãi về lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần của
những cổ phiếu ưu đãi phải được trả trước bất kì cổ tức nào được trả cho các cổ
phiếu phổ thông.
- Cổ phiếu ưu đãi được ưu đãi về tài sản. Nếu một Công ty thất bại, các cổ
đông có cổ phiếu ưu đãi được quyền nhận phần của họ về bất cứ tài sản gì còn
lại (sau khi nợ của Công ty đã thanh toán), trước khi các cổ đông giữ cổ phiếu
thường nhận được phần bồi thường nào đó.
- Một số Công ty phát hành những cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi được, nó cho
cổ đông quyền chọn để chuyển cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường.
- Phần lớn cổ phiếu ưu đãi tích lũy cổ tức nếu Công ty không trả cho chúng
một giai đoạn xác định. Công ty phải trả số tiền tích lũy này trước khi họ trả bất

kì lợi tức cổ phần nào cho cổ phiếu thường.
- Cổ phiếu ưu đãi có tính tin cậy và ổn định. Chủ sở hữu có thể tính được
lợi tức cổ phần của mình.


Nhược điểm:
- Các cổ đông cổ phiếu ưu đãi giữ một vai trò nhỏ hơn trong các vấn đề của
Công ty so với các cổ đông cổ phiếu thường.
- Hoàn toàn không có quyền bỏ phiếu và quyền ưu tiên mua. Họ chỉ nhận
được đặc quyền bỏ phiếu hạn chế, thường là những vấn đề có liên quan trực tiếp
đến quyền lợi của họ như bán đi một phần lớn Công ty hoặc thay đổi một điều
khoản trong bản điều lệ có liên quan đến cổ phiếu ưu đãi.
- Tuy cổ tức cổ phiếu ưu đãi là cố định nhưng cổ đông ưu đãi cũng chỉ
được nhận cổ tức khi Công ty làm ăn có lợi nhuận.
1.1.3. Huy động vốn bằng cổ phiếu thường
Huy động vốn là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh
nghiệp. Cổ phiếu thường là một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng đối với
doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Vậy, huy động vốn bằng cổ phiếu
thường là hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp nhằm gia tăng nguồn vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới để huy động tăng vốn có thể
được thực hiện theo các hình thức sau:
- Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên mua cho các cổ
đông hiện hành
Đây là hình thức phổ biến được các Công ty Cổ phần ở nhiều nước áp dụng
khi quyết định tăng thêm vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Thông thường trong điều lệ của Công ty Cổ phần ở nhiều nước đều ghi rõ quyền
này của các cổ đông thường. Việc áp dụng quyền ưu tiên mua cho cổ đông là
nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hành.
- Phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng

Để huy động tăng thêm vốn đầu tư, Công ty Cổ phần có thể lựa chọn con
đường phát hành cổ phiếu mới ra công chúng với việc chào bán công khai. Việc
thực hiện chào bán công khai cổ phiếu mới có thể thực hiện theo các phương
pháp: Phát hành trực tiếp, chào bán qua người bảo lãnh (hay ủy thác phát hành)


và chào bán qua đấu thầu; trong đó, hai phương pháp chủ yếu thường được thực
hiện là phát hành qua người bảo lãnh và phương pháp đấu thầu.
- Phát hành cổ phiếu thường mới bằng việc chào bán cho người thứ ba
Luật pháp của nhiều nước, hoặc trong điều lệ của nhiều Công ty Cổ phần
cho phép, nếu được sự tán thành của Đại hội đồng cổ đông, Công ty có thể phát
hành thêm cổ phiếu mới với việc dành quyền mua cổ phiếu cho người thứ ba là
những người có quan hệ mật thiết với Công ty như người lao động trong Công
ty, các đối tác kinh doanh, các định chế tài chính,… Việc phát hành cổ phiếu
theo phương pháp này vừa giúp Công ty tăng được vốn kinh doanh, vừa tạo ra
sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa Công ty và những người thường xuyên có quan hệ
với Công ty.
1.2. Đặc điểm của hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu thường
Huy động vốn bằng cổ phiếu thường là một hoạt động nhằm gia tăng vốn
chủ sở hữu cho doanh nghiệp. Với đặc trưng cơ bản nhất của cổ phiếu thường là
gắn với quyền bỏ phiếu và xác lập theo nguyên tắc “mỗi cổ phần là một lá
phiếu”. Huy động vốn bằng cổ phiếu thường có các đặc điểm sau:
- Giảm bớt nguy cơ phải tổ chức lại hoặc phá sản Công ty: Do cổ phiếu
thường làm tăng vốn đầu tư dài hạn nhưng Công ty không có nghĩa vụ bắt buộc
phải trả lợi tức cố định như sử dụng vốn vay.
- Công ty không có nghĩa vụ pháp lý phải trả lợi tức cố định, đúng hạn: Vì
cổ phiếu thường không quy định mức cổ tức cố định, mà cổ phiếu thường phụ
thuộc vào kết quả kinh doanh.
- Giúp Công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt trong kinh doanh không
phải lo “gánh nặng” nợ nần: Do cổ phiếu thường không có thời gian đáo hạn

vốn, nên Công ty không phải hoàn trả vốn gốc theo kỳ hạn cố định.
- Làm tăng hệ số vốn chủ sở hữu, tăng tỷ lệ đảm bảo nợ của Công ty, tăng
thêm khả năng vay nợ và tăng mức độ tín nhiệm, giảm rủi ro tài chính.


- Trong trường hợp Công ty làm ăn phát đạt, lợi nhuận cao, cổ phiếu
thường dễ bán hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu nên nhanh chóng hoàn
thành đợt phát hành huy động vốn.
1.3. Vai trò của hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu thường
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy
động vốn cho Công ty. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn
cho doanh nghiệp. Một trong các loại cổ phiếu không thể thiếu trong việc huy
động vốn thông qua TTCK của doanh nghiệp là huy động vốn thông qua việc
phát hành cổ phiếu thường.
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế
trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trong TTCK. Cổ
phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất trên TTCK, điều đó cũng đủ để chứng
minh tầm quan trọng của nó với các công cụ tài chính khác.
1.3.1. Đối với Công ty phát hành
Một trong những ưu thế cơ bản của Công ty Cổ phần là có khả năng sử
dụng công cụ cổ phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong công chúng đáp ứng nhu
cầu to lớn về vốn đầu tư mở rộng kinh doanh. Việc huy động tăng vốn đầu tư
bằng cách phát hành rộng rãi cổ phiếu thường ra công chúng là vấn đề hết sức
quan trọng đối với sự phát triển của một Công ty Cổ phần, huy động vốn theo
hình thức này có những lợi thế chủ yếu sau:
Thứ nhất, việc phát hành cổ phiếu thường sẽ giúp cho Công ty có thể huy
động vốn khi thành lập hoặc mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này
không cấu thành một khoản nợ mà Công ty có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp
lực về khả năng cân đối thanh khoản của Công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử
dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu Công ty, vay nợ từ các tổ

chức tín dụng khác,… thì hoàn toàn ngược lại.
Thứ hai, việc phát hành thêm cổ phiếu thường làm tăng thêm vốn chủ sở
hữu của Công ty, từ đó làm giảm hệ số nợ và tăng thêm mức độ vững chắc về tài


chính của Công ty, làm tăng mức độ tín nhiệm và khả năng vay vốn cho Công
ty.
Thứ ba, phát hành cổ phiếu thường giúp Công ty tăng được vốn đầu tư dài
hạn nhưng Công ty không có nghĩa vụ bắt buộc phải trả lợi tức cố định như sử
dụng vốn vay. Nếu Công ty không may chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc bị lỗ thì
Công ty có thể quyết định không phân chia lợi tức cổ phần cho các cổ đông
thường đến khi tình hình hoạt động của Công ty tốt hơn. Hơn nữa, đây là hình
thức huy động vốn từ bên ngoài nhưng Công ty không phải hoàn trả vốn gốc
theo kỳ hạn cố định. Điều này giúp Công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt
trong kinh doanh mà không phải gánh nặng nợ nần như sử dụng vốn vay.
1.3.2. Đối với nhà đầu tư cổ phiếu
Trong tình hình kinh tế hiện nay, có rất nhiều hình thức kinh doanh được
quan tâm và phát triển mạnh mẽ, một trong số những hình thức kinh doanh được
rất nhiều nhà đầu tư chú ý chính là cổ phiếu. Tại sao lại có nhiều người quan
tâm và đầu tư vào cổ phiếu?
- Khi mua cổ phiếu các nhà đầu tư cùng hướng tới những mục tiêu giống
như những người bỏ tiền ra để mua hoặc khởi sự doanh nghiệp:
+ Họ tìm kiếm cổ tức, có nghĩa là họ hy vọng doanh nghiệp sẽ tạo ra lợi
nhuận để có thể phân phối cho các chủ sở hữu;
+ Họ tìm kiếm lãi vốn, có nghĩa là họ hy vọng doanh nghiệp sẽ tăng trưởng
về giá trị và do đó họ có thể bán phần sở hữu của mình với mức giá cao hơn
mức giá mà họ đã mua;
+ Họ tìm kiếm những lợi ích về thuế mà luật thuế dành cho các chủ sở hữu
doanh nghiệp.
- Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua cổ phiếu được Công ty phát

hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có
giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên TTCK
giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu
nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý Công ty sử dụng có hiệu


quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát
triển, sinh lợi của Công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được
hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho
các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại
và triển vọng phát triển của Công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh
lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị
trường.
- Thông thường thì cổ phiếu thường được bán ra dễ dàng hơn so với cổ
phiếu ưu đãi và trái phiếu do có mức lợi tức cao và không bị giới hạn. Mặt khác,
đối với nhà đầu tư thì cổ phiếu thường còn tạo ra rào chắn chống tác hại của lạm
phát tốt hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Bởi cổ phiếu thường đại biểu
cho quyền sở hữu Công ty, đầu tư vào cổ phiếu thường là đầu tư vào tài sản
trong Công ty chứ không dưới dạng tiền như trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi. Khi
lạm phát, trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi sẽ bị mất giá một cách tương đối trên thị
trường.
1.3.3. Đối với các nhà đầu tư khác
Đối với các nhà đầu tư khác nhau thì tầm quan trọng của mỗi yếu tố trên
cũng khác nhau bởi vì họ không có cùng một mục đích đầu tư.
Ví dụ, những người về hưu vốn phải sống dựa chủ yếu vào thu nhập từ các
khoản đầu tư sẽ đề cao vai trò của cổ tức trong khi một số người khác lại chú ý
hơn đến khả năng thu lãi vốn.
1.4. Nội dung của hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu thường
1.4.1. Các loại cổ phiếu thường
Khi nói đến hàng hóa trên TTCK, người ta thường nghĩ ngay đến cổ phiếu

phổ thông. Thực tế tại nhiều nước trên thế giới, TTCK đã rất quen thuộc đối với
mọi người dân.
Ví dụ, ở Mỹ trung bình cứ 4 người trên 25 tuổi thì có một người sở hữu cổ
phiếu phổ thông, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các quỹ tương hỗ.
Vậy bản chất của cổ phiếu phổ thông là gì?


Một cổ phiếu phổ thông đại diện cho quyền sở hữu một phần Công ty. Nếu
một Công ty có 100 cổ phiếu đang lưu hành và bạn sở hữu một trong số đó có
nghĩa là bạn sở hữu 1/100 Công ty. Nếu Công ty có 1.000 cổ phiếu đang lưu
hành và bạn nắm giữ 1.000 cổ phiếu thì bạn sở hữu 1.000/1.000.000 hay 1/1.000
Công ty. Thông thường, một Công ty có thể thay đổi số lượng cổ phiếu đang lưu
hành bằng cách bán các cổ phiếu bổ sung hay mua lại và hủy bỏ một phần các
cổ phiếu đã phát hành trước đó. Trong cả hai trường hợp trên, tỷ lệ sở hữu của
các cổ đông cũ trong Công ty đều thay đổi.
Ví dụ, một Công ty phát hành 100 cổ phiếu ra công chúng và bạn mua một
trong số này. Như vậy bạn sở hữu 1/100 Công ty. Sau đó, Công ty phát hành
thêm 100 cổ phiếu nữa thì tỷ lệ sở hữu của bạn giảm xuống còn 1/200 Công ty.
Nói cách khác, tỷ lệ sở hữu của bạn trong Công ty đã bị “pha loãng” do việc
phát hành cổ phiếu mới.
Một ví dụ khác, giả sử một Công ty có 1.000.000 cổ phiếu đang lưu hành
và bạn mua một cổ phiếu của Công ty. Sau đó, Công ty mua lại và hủy bỏ
250.000 cổ phiếu. Vậy tỷ lệ sở hữu của bạn trong Công ty từ 1/1.000.000 Công
ty tăng lên 1/750.000 Công ty.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt rõ cổ phiếu đang lưu hành, cổ phiếu được
phép phát hành và cổ phiếu ngân quỹ.
1.4.1.1. Cổ phiếu được phép phát hành
Số lượng cổ phiếu được phép phát hành, như tên của nó đã chỉ ra là số
lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty có thể phát hành. Quy định này đặt ra nhằm
tránh tình trạng pha loãng quá mức tỷ lệ sở hữu trong Công ty của các cổ đông

hiện hữu. Trong thực tiễn, có nhiều Công ty không phát hành hết số lượng cổ
phiếu mà nó được phép.
1.4.1.2. Cổ phiếu đang lưu hành
Cổ phiếu đang lưu hành là những cổ phiếu mà Công ty đã bán cho các nhà
đầu tư và chưa mua lại để hủy bỏ hay cầm giữ. Số lượng cổ phiếu đang lưu hành
được sử dụng để tính toán tỷ lệ sở hữu, tỷ lệ nợ trên vốn.


1.4.1.3. Cổ phiếu ngân quỹ
Vì nhiều lý do khác nhau, một Công ty có thể mua lại cổ phiếu của chính
mình và nắm giữ như các nhà đầu tư bình thường khác. Các cổ phiếu này được
gọi là cổ phiếu ngân quỹ và không được tính vào cổ phiếu đang lưu hành.
1.4.2. Các hình thức giá trị của cổ phiếu
1.4.2.1. Giới hạn phát hành
Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có ưu thế hơn so với các phương thức huy
động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các rằng buộc cần được cân
nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định rằng buộc có tính pháp lý.
Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu
được cấp phép. Đây là một trong những quy định của UBCKNN nhằm quản lý
và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại
nhiều nước, số cổ phiếu được phát hành được ghi trong điều lệ của Công ty,
nhưng tại một số nước lại không quy định số lượng đó trong điều lệ Công ty.
Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết phải được Đại hội đồng cổ đông cho phép,
sau đó phải hoàn tất các thủ tục quy định khác.
Hầu hết các nước sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng
để kiểm soát và hạn chế rủi ro cho công chúng.
Thông thường một Công ty có thể phát hành một lần hoặc một số lần trong
giới hạn số cổ phiếu đã được phát hành. Tuy nhiên, thì việc quản lý và kiểm soát
quá trình phát hành chứng khoán tùy thuộc vào chính sách cụ thể của từng nước.
Sau khi phát hành ra thị trường thứ cấp, phần lớn các cổ phiếu nằm trong tay các

nhà đầu tư được gọi là cổ đông, những cổ phiếu này được gọi là đang lưu hành
trên thị trường. Nhưng có thể chính Công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu
của mình và giữ nó nhằm mục đích nào đó và những cổ phiếu được Công ty
mua lại như vậy được gọi là cổ phiếu ngân quỹ, những cổ phiếu này được coi
như tạm thời không lưu hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ
thuộc vào một số yếu tố như:
- Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư


- Tình hình biến động giá chứng khoán trên thị trường
- Chính sách đối với việc sát nhập hoặc thôn tính Công ty (chống thôn tính)
- Tình hình trên TTCK và quy định của UBCKNN
1.4.2.2. Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên thị
trường được gọi là thị giá. Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với
cổ phiếu, phản ánh lòng tin của nhà đầu tư đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty.
Trị giá của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế toán của Công ty được
gọi là giá trị ghi sổ, đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành.
Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trên giấy
phép phát hành và trên sổ sách kế toán của Công ty. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có
ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ
phiếu được phát hành.
1.4.2.3. Giá trị thị trường
Giá trị thị trường là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được thể
hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận, giá trị thị trường hay còn được
gọi là giá thị trường. Thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do Công ty
ấn định và cũng không do người nào khác quyết định, mà giá thị trường của cổ
phiếu được xác định bởi giá thống nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao
nhất mà người mua sẵn sàng để trả mua nó.

Như vậy, giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung - cầu
trên thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của một Công ty phụ thuộc rất nhiều
yếu tố, do vậy nó thường xuyên biến động.
1.4.2.4. Chủ sở hữu Công ty Cổ phần
Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu Công
ty, họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập
của Công ty.


Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các công việc của
Công ty. Tuy nhiên thông thường có một số lượng lớn cổ đông của Công ty, nên
mỗi cổ đông chỉ có một quyền lực giới hạn nhất định trong việc bỏ phiếu hoặc
chỉ định thành viên của Ban giám đốc, một số công việc hay những vấn đề đặc
biệt cần có sự nhất trí của đa số cổ đông. Tùy theo việc quy định trong điều lệ
Công ty, có thể hình thành các phương thức bỏ phiếu khác nhau, trong đó có hai
phương thức được sử dụng rộng rãi là bỏ phiếu theo đa số và bỏ phiếu gộp.
- Bỏ phiếu theo đa số là việc cổ đông có thể dùng mỗi lá phiếu để bầu một
người quản lý, các chức danh sẽ được bầu riêng rẽ. Điều này rõ ràng là có lợi
cho những người đang nắm đa số cổ phiếu của Công ty vì họ có thể tạo áp lực
mạnh hơn bằng số cổ phiếu đang nắm giữ.
- Cơ chế bỏ phiếu gộp cho phép cùng bỏ phiếu cho một ứng cử viên nào đó
tức là một số cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có trong tay cho một ứng cử
viên được ưa chuộng. Đây là lý do tại sao một số các cổ đông thiếu ủng hộ cơ
chế bỏ phiếu gộp.
Trong điều lệ Công ty, quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần được đa số
(trên 50%) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được tuyệt đại đa số (75% trở
lên) cổ đông nhất trí.
Vấn đề chống thôn tính và bảo vệ công ty trước sự xâm lấn bằng cổ phiếu
của các Công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn thông qua việc
phát hành cổ phiếu phải xem xét đến nguy cơ thôn tính. Do đó, phải tính đến tỷ

lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của Công ty.
1.4.3. Quy trình huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu thường ra
công chúng
1.4.3.1. Quy trình phát hành cổ phiếu thường ra công chúng
Công ty phát hành
(3)

(1)


(4)
UBCKNN

(2)

Nhà bảo lãnh phát hành

Hình 1.1: Sơ đồ quy trình phát hành cổ phiếu thường ra công chúng
(1) Công ty phát hành cổ phiếu nộp hồ sơ đăng ký (bao gồm Bản cáo bạch)
cho nhà bảo lãnh phát hành.
(2) Nhà bảo lãnh phát hành soát xét, thẩm định hồ sơ (Bản cáo bạch) của
Công ty phát hành, sau đó nộp lên UBCKNN.
(3) UBCKNN xem xét và đưa ra các nhận xét/ câu hỏi. Nếu nhận thấy hồ
sơ đã đầy đủ và phù hợp thì công bố Bản cáo bạch có hiệu lực.
(4) Công ty phát hành sau khi nhận được sự chấp thuận của UBCKNN thì
cùng với nhà bảo lãnh phát hành định giá cho cổ phiếu được phát hành.
1.4.3.2. Các vấn đề liên quan đến quy trình phát hành cổ phiếu thường ra công
chúng
 Các nội dung cần thương thảo
Doanh nghiệp phát hành có thể thương thảo với nhà bảo lãnh phát hành về:

Giá, phí, khoản tiền giữ lại, lượng chào bán các lần tiếp theo, các thành viên
trong nhóm đầu tư, nỗ lực giới thiệu/ chào bán, hỗ trợ hậu phát hành, quy mô
phát hành, tính toán thời điểm, điều khoản tăng số lượng cổ phiếu phát hành.
 Quan điểm của nhà bảo lãnh về giá:
- Mong muốn giá sẽ tăng khoảng xấp xỉ 10% sau khi chào bán nhằm:
+ Tạo cho người mua cảm giác thỏa mãn
+ Giảm thiểu rủi ro không bán được cổ phiếu
+ Giảm lượng vốn chịu rủi ro
- Giá thấp hơn hoặc bằng, ít rủi ro hơn.
 Quan điểm Công ty phát hành
- Phần giá tăng lên sẽ là phần được hưởng thêm


- Giá giảm mạnh đột ngột có nghĩa là bán được cao hơn giá trị thực, nhưng
điều này sẽ khiến các nhà đầu tư không hài lòng.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn bằng cổ phiếu thường
1.5.1. Nhân tố khách quan
* Khó khăn từ nền kinh tế ảm đạm
Nền kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm đang gặp khó khăn, những nguy cơ
gây bất ổn đang lớn dần lên như sự biến động về tỷ giá, lãi suất cao, áp lực lạm
phát, thâm hụt thương mại,… ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Qua đó, gây tâm lý bi quan, hoài nghi tính khả thi của
phương án sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp đề xuất.
(Doanh nghiệp đồng loạt xin giải thể, phá sản: chỉ riêng từ đầu năm 2012
đến nay đã có khoảng 49.000 doanh nghiệp phá sản (giải thể), chờ giải thể trong
khi các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
không đáng kể).
* Yếu tố nội tại trong mô hình tổ chức và vận hành của thị trường chứng
khoán
Thứ nhất, dù thời gian qua UBCKNN đã có những giải pháp và kiến nghị

phát triển thị trường song hầu hết chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất. Việc chậm
triển khai đã tác động không thuận lợi đến thị trường và nhà đầu tư. Sự phối hợp
giữa các ngành tài chính – ngân hàng để hỗ trợ cho TTCK không được như
mong đợi.
Thứ hai, việc cho phép ra đời quá nhiều Công ty chứng khoán, Công ty
quản lý quỹ trong lúc TTCK Việt Nam còn nhỏ bé đã dẫn đến tình trạng nhiều
Công ty lôi kéo khách hàng, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Thứ ba, TTCK là một thị trường hết sức nhạy cảm và là thị trường của
niềm tin, song thời gian qua nhiều luồng thông tin một chiều đã làm cho tâm lý
nhà đầu tư bị hoang mang, dao động,… làm thị trường thêm khó khăn hơn (điển
hình mới đây nhất là vụ bầu Kiên và ông Lý Xuân Hải bị bắt tạm giam đã khiến
thị trường lao dốc, bốc hơi mất 5,6 tỷ đôla).


Thứ tư, TTCK Việt Nam còn thiếu minh bạch và khó lường xét về việc dự
báo chính sách tiền tệ làm cho các nhà đầu tư nước ngoài không mặn mà (Theo
Tiến sĩ Quách Mạnh Hào, Tổng Giám Đốc Công ty Chứng khoán Thăng Long
cho biết, có tới 90% tổ chức đầu tư lớn nước ngoài chưa quan tâm đến TTCK
Việt Nam).
* TTCK liên tục rớt đáy khiến nhà đầu tư thờ ơ
Sau vụ ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt, TTCK Việt Nam đã bị giảm mạnh.
Các cổ phiếu liên tục bị rớt giá và bị bán không “ thương tiếc” với nhiều mức
giá rẻ bất ngờ, khiến hầu hết các cổ phiếu trên sàn trượt dốc tự do. Nhiều nhà
đầu tư đã có những tâm lý hoang mang, lo sợ, thậm chí là tháo chạy.
* Khó khăn về điều kiện phát hành cổ phiếu ra công chúng chặt chẽ, gây
khó khăn cho các hoạt động của Công ty niêm yết
Để được phát hành cổ phiếu ra công chúng, Công ty phải có vốn điều lệ đã
góp tại thời điểm đăng kí chào bán từ 10 triệu đồng trở lên tính theo giá trị ghi
trên sổ sách kế toán.
Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm chào bán của doanh nghiệp

phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán.
Doanh nghiệp phải có phương án pháp hành và phương án sử dụng thu
được từ đợt chào bán được được đại hội đồng cổ đông thông qua.
Thủ tục liên quan đến quá trình tăng vốn thường mất ít nhất là từ 3-4 tháng,
có khi là nửa năm. Trong thời gian đó giá cổ phiếu có thể thay đỏi theo chiều
hướng bất lợi, thậm chí có những doanh nghiệp đến thời điểm huy động vốn giá
phát hành đã cao hơn thị giá.
* Do đặc trưng ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
Ví dụ, hoạt động ngân hàng đang khá nhạy cảm cũng là rào cản các nhà
đầu tư đến với ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ. Bên cạnh đó, các quy định
pháp lý cũng phần nào cản trở hoạt động tăng vốn của ngân hàng. Hay như một
số quy định như người mua cổ phần trong đợt phát hành riêng lẻ bị hạn chế


chuyển nhượng một năm, các đợt phát hành riêng lẻ phải cách nhau tối thiểu 6
tháng có thể làm các đợt phát hành riêng lẻ kém hấp dẫn hơn với các đối tác.
1.5.2. Nhân tố chủ quan
* Không có kế hoạch sử dụng vốn huy động được
Thời gian qua có nhiều đợt phát hành huy động vốn theo nhu cầu của
doanh nghiệp, đây là biểu hiện tích cực về hiệu lực hoạt động của TTCK, nhưng
đồng thời cũng có không ít đợt phát hành tiềm ẩn khả năng là để tranh thủ, tận
dụng nguồn vốn khá vô tư trước các cơn khát đầu tư trên thị trường, điều này
dẫn đến tình trạng sử dụng vốn không đúng theo phát triển, không theo dự án cụ
thể hay kế hoạch sử dụng vốn được xác lập, gây tổn hại đến niềm tin của nhà
đầu tư. Một đợt phát hành thành công cần có sự thống nhất về hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp và kỳ vọng của nhà đầu tư. Công việc này được chú
trọng trên thế giới nhưng ở Việt Nam thì gần như ít doanh nghiệp quan tâm
đúng mức.
* Thời điểm phát hành để huy động vốn không thích hợp
Việc tập trung quá nhiều doanh nghiệp phát hành cổ phiếu và tiến hành

phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) vào một thời điểm nhất định
trong năm có thế ảnh hưởng đến khối lượng huy động vốn hiệu quả của doanh
nghiệp và quyền lợi của cổ đông.
Đối với Công ty muốn phát hành chứng khoán ra công chúng thì lựa chọn
thời điểm phát hành là rất quan trọng, thị trường đang phát triển tốt, sôi động,
giá các cổ phiếu đang tăng trưởng và ở mức độ cao là điều kiện thuận lợi cho
đợt phát hành của Công ty. Nếu thị trường ảm đạm, nhà đầu tư đang bi quan vào
thị trường và cổ phiếu thị trường sẽ làm cản trở, khó khăn cho đợt phát hành
này. Ngoài ra cũng cần nắm bắt thị trường một cách cụ thể để lựa chọn chính
xác.
* Sự yếu kém trong khâu chuẩn bị hồ sơ phát hành chứng khoán
Việc chuẩn bị hồ sơ, thủ tục xin cấp phép phát hành chứng khoán của các
Công ty ở Việt Nam còn yếu kém. Điều này một mặt gây khó khăn cho


UBCKNN trong việc đánh giá tính chính xác và cấp phép cho phát hành chứng
khoán, mặt khác nó làm mất thời gian, công sức và làm gia tăng chi phí của đợt
phát hành chứng khoán của Công ty.
* Không xác định được cổ đông chiến lược trong đợt phát hành
Nếu như trước đây việc tìm cổ đông chiến lược, nhất là nhà dầu tư nước
ngoài đối với các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa có mục tiêu đầu tiên là
thu hút nguồn vốn để nâng cao năng lực tài chính thì hiện nay việc hợp tác và
tìm kiếm cổ đông chiến lược đang có sự thay đổi thực chất hơn. Doanh nghiệp
cổ phần hóa và nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đang tìm đến với nhau vì
những mục đích dài hạn như trao đổi kinh nghiệm quản lý, kiện toàn bộ máy
nhân sự cấp cao,…
* Xảy ra tình trạng loãng giá chứng khoán khi phát hành thêm chứng
khoán ra công chúng
Trong thời gian hiện nay thì việc “loãng” giá chứng khoán là một trong
những điều cân nhắc kĩ lưỡng trước khi phát hành chứng khoán bổ sung ra công

chúng đối với những Công ty đã có cổ phiếu lưu hành.
Phương pháp phát hành sai do đơn vị tư vấn thiếu kinh nghiệm hoặc không
sử dụng tư vấn. Nếu những Công ty tiến hành phát hành cổ phiếu ra công chúng
lần đầu (IPO) hoặc phát hành chứng khoán bổ sung mà không nắm chắc những
việc phải làm, trình tự các công việc, thủ tục pháp lý,… đã quy định thì rất dễ
dẫn đến những sai sót trong khi tiến hành.
* Mối quan hệ giữa cổ đông và Công ty
Khi mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư tốt, lợi ích đầu tiên là
dành cho doanh nghiệp phát hành. Việc phát triển mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và cổ đông góp phần quan trọng trong bảo vệ và gắn bó nhà đầu tư với
doanh nghiệp. Khi nhà đầu tư hiểu rõ doanh nghiệp, những quyết định đầu tư sẽ
đúng đắn hơn, sự gắn bó lâu dài hơn và họ sẽ thực sự thể hiện được vai trò của
cổ đông.


1.6. Rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải trong việc huy động vốn bằng cổ
phiếu thường
Mặc dù, huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu thường mang
lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro
mà doanh nghiệp khó tránh khỏi, như:
Một là, việc phát hành cổ phiếu thường sẽ làm tăng thêm cổ đông mới, từ
đó làm phân chia quyền biểu quyết và kiểm soát của Công ty, dẫn tới quyền
phân phối thu nhập cao cho các cổ đông mới và làm bất lợi cho cổ đông hiện
hành. Vì vậy, các Công ty nhỏ hoặc mới thành lập thường né tránh việc phát
hành thêm cổ phiếu ra bên ngoài để không phải chia sẻ quyền kiểm soát Công ty
cho người khác. Những Công ty đang làm ăn phát đạt, có khả năng thu lợi nhuận
cao, nếu sử dụng trái phiếu để đáp ứng nhu cầu tăng vốn sẽ có lợi hơn cho các
cổ đông hiện hành so với việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới.
Hai là, chi phí cho việc phát hành cổ phiếu thường: Chi phí hoa hồng,
quảng cáo, bảo hiểm, bảo lãnh,… nói chung cao hơn so với chi phí phát hành cổ

phiếu ưu đãi và trái phiếu. Nguyên nhân là do đầu tư vào cổ phiếu thường có
mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào các loại chứng khoán khác. Để thực
hiện trọn vẹn đợt phát hành cổ phiếu phải thu hút được người đầu tư trên diện
rộng hơn; từ đó, các chi phí quảng cáo, chi phí phân phối cổ phiếu thường phải
cao hơn.
Ba là, theo cách đánh thuế thu nhập doanh nghiệp ở nhiều nước, lợi tức cổ
phần không được tính trừ vào thu nhập chịu thuế, trong khi đó, lợi tức trái phiếu
hay lợi tức tiền vay được tính trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Điều
này làm cho chi phí sử dụng cổ phiếu thường cao hơn nhiều so với chi phí sử
dụng trái phiếu.
Bốn là, việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng làm tăng số cổ phiếu
đang lưu hành. Nếu hoạt động kinh doanh của Công ty không tốt thì sẽ có nguy
cơ làm sụt giảm thu nhập trên một cổ phần. Điều này tác động bất lợi tới giá cổ
phiếu trên thị trường.


Ngoài ra, để đi đến quyết định phát hành thêm cổ phiếu thường đáp ứng
nhu cầu tăng vốn dài hạn kinh doanh, doanh nghiệp cần phải cân nhắc các yếu tố
mang tính chất điều kiện như sau:
Thứ nhất, sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận trong tương lai. Nếu tình
hình kinh doanh của Công ty chưa ổn định thể hiện qua sự thay đổi bất thường
về doanh thu và lợi nhuận; trong trường hợp này, việc tăng vốn bằng cách phát
hành cổ phiếu thường là hợp lý hơn so với vay vốn. Bởi nếu vay vốn thì mức độ
rủi ro của việc huy động vốn do phải trả lợi tức cố định là rất cao.
Thứ hai, tình hình tài chính hiện tại của Công ty, đặc biệt kết cấu nguồn
vốn là vấn đề hết sức quan trọng. Nếu hệ số mắc nợ của Công ty đã ở mức cao
so với các doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng ngành, thì việc huy động
vốn bằng phát hành cổ phiếu thường là có thể chấp nhận được.
Thứ ba, yêu cầu giữ nguyên quyền quản lý và kiểm soát Công ty của cổ
đông thường. Nếu các cổ đông coi trọng vấn đề giữ nguyên quyền kiểm soát

Công ty, thì việc huy động vốn bằng phát hành thêm cổ phiếu thường không
được tính đến.
Thứ tư, chi phí phát hành cổ phiếu mới. Mặc dù chi phí phát hành cổ phiếu
thường cao hơn so với các loại chứng khoán khác, tuy nhiên trong nhiều trường
hợp với những bối cảnh nhất định, việc huy động vốn bằng cổ phiếu thường có
những ưu thế nổi trội hơn so với các công cụ khác thì việc chấp nhận phát hành
cổ phiếu thường với chi phí phát hành khá cao vẫn là quyết định đúng đắn.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC
PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU THƯỜNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC
PHẨM HÀ TÂY
2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây

Tên Công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM HÀ TÂY
Tên giao dịch quốc tế: HA TAY PHARMACEUTICAL JOINT STOCK
COMPANY
Tên viết tắt

: HATAPHAR

Trụ sở chính

: 10A, Quang Trung, Hà Đông, Hà Nội

Số điện thoại

: 04.338 24685


Số fax

: 04.338 29054

Website

: www.hataphar.com.vn

Số lượng cổ phần phát hành : 6.677.400 cổ phần
Mệnh giá

: 10.000 đồng/cổ phiếu.

Giấy CNĐKKD

: Số 0500391400 do Phòng đăng ký kinh doanh Sở kế

hoạch và đầu tư tỉnh Hà Tây cấp lần đầu ngày 10/01/2011, cấp thay đổi lần thứ
10 ngày 15/12/2010 do Phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và đầu tư thành
phố Hà Nội.


2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Dược phẩm
Hà Tây
Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây tiền thân là Xí nghiệp Dược phẩm Hà
Tây được thành lập năm 1965. Năm 1985 Xí nghiệp Dược phẩm Hà Tây hợp
nhất với Công ty Dược phẩm Hà Tây và Công ty Dược liệu Hòa Bình thành Xí
nghiệp liên hợp Dược phẩm Hà Sơn Bình.
Ngày 16/07/1991 theo Quyết định số 246/QĐ-UB của UBND tỉnh Hà Sơn
Bình, Xí nghiệp liên hợp Dược phẩm Hà Sơn Bình chia thành Công ty Dược

phẩm Hà Tây và Công ty Dược phẩm Hòa Bình.
Ngày 29/03/1993 theo quyết định số 114/QĐ-UB của UBND tỉnh Hà Tây,
Xí nghiệp liên hiệp Dược Hà Tây đổi tên thành Công ty Dược phẩm Hà Tây.
Đến ngày 11/05/2000 theo Quyết định số 223/QĐ-UB của UBND tỉnh Hà Tây
đã tiến hành cổ phần hóa và thành lập ban quản trị mới quản lý doanh nghiệp
Dược phẩm Hà Tây để phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế.
Ngày 21/12/2000 theo Quyết định số 1911/QĐ-UB của UBND tỉnh Hà
Tây, Công ty Dược phẩm Hà Tây được chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Dược
phẩm Hà Tây trực thuộc Sở y tế với Vốn điều lệ 8,4 tỷ đồng, trong đó Vốn Nhà
nước chiếm 25%.
Trải qua 40 năm hoạt động, Công ty đã đạt được những bước tiến đáng kể
trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có tốc độ tăng trưởng cao trong
10 năm trở lại đây. Ngày nay, Công ty mở rộng sản xuất sang các mặt hàng tân
dược như: Các thuốc kháng sinh, thuốc cảm cúm, thuốc ho,… đồng thời phát
triển cả hoạt động thương mại (xuất nhập khẩu thuốc tân dược).
Với những thành tích đạt được trong quá trình phát triển Công ty, cán bộ
công nhân viên chức Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây đã vinh dự được Nhà
nước tặng thưởng nhiều huân huy chương các loại và nhiều bằng khen của các
ngành, các cấp:
- “Giải thưởng chất lượng Việt nam” năm 2001 của Bộ khoa học công
nghệ.


×