Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của tổng công ty xây dựng công trình hàng không ACC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.09 KB, 96 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Vốn kinh doanh có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, là phương tiện để biến các ý tưởng kinh
doanh thành hiện thực. Tuy nhiên, vốn kinh doanh luôn là một nguồn lực có
hạn và không phải là phương thuốc kỳ diệu quyết định mọi sự thành bại trong
kinh doanh.
Thực tế qua hơn 20 năm đổi mới kinh tế của đất nước đã chứng minh,
có những doanh nghiệp có số vốn kinh doanh ban đầu ít ỏi, nhưng nhờ biết
cách quản lý, sử dụng vốn tiết kiệm hiệu quả nên không những được bảo toàn
được vốn mà còn sinh sôi, nảy nở, giúp cho doanh nghiệp phát triển. Trong
khi đó, nhiều doanh nghiệp khác, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, được
nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, vốn kinh doanh ban đầu đầy đủ, nhưng do yếu
kém trong khâu quản lý sử dụng vốn dẫn đến mất vốn, cụt vốn, kinh doanh bị
phá sản.
Điều đó càng chứng tỏ rằng, trong kinh doanh thì vốn kinh doanh mới
chỉ là điều kiện “cần”, còn việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
mới là điều kiện “đủ”. Trong thực tế, vốn kinh doanh và việc nâng cao hiệu
quả sử dụng là hai phạm trù kinh tế khác nhau, nhưng lại có quan hệ biện
chứng mật thiết và thường xuyên tác động qua lại, bổ trợ lẫn nhau trong quá
trình kinh doanh.
Thời gian qua, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đúng
mục đích, tiết kiệm, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Tổng Công ty xây
dựng công trình hàng không ACC chưa thực sự được nhìn nhận một cách
nghiêm túc và nghiên cứu có hệ thống. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Tổng Công ty xây dựng
công trình hàng không ACC” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp



2

thạc sĩ của mình với hy vọng đóng góp phần nào nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh Tổng công ty xây dựng công trình hàng không ACC.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua nhận thức lý luận, đối
chiếu với thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh hiện nay của Tổng
công ty ACC còn có những hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao
hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn cho thời gian tới.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, các nhiệm vụ nghiên cứu sẽ thực
hiện là
- Hệ thống hoá những vấn đề nhận thức lý luận về vốn và hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Đánh giá được thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Tổng
công ty xây dựng công trình hàng không ACC giai đoạn hiện nay với những
nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp và điều kiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử
dụng vốn của Tổng công ty xây dựng công trình hàng không ACC trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Vốn kinh doanh và hiệu quả vốn kinh doanh
trong các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Tổng công ty xây dựng công trình hàng không ACC
+ Về thời gian: Thực trạng chủ yếu từ thời kỳ đổi mới đến nay, những
định hướng cho tương lai là quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.


3


4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài kết hợp sử dụng đồng bộ các phương pháp
thông kê, phân tích, tổng hợp, so sánh…trên cơ sở nền tảng phương pháp luận
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phục lục, nội dung chính của luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Tổng Công ty
xây dựng công trình hàng không ACC hiện nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của Tổng Công ty xây dựng công trình hàng không ACC
Sau đây là nội dung của các chương.


4

Chương 1
VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và phân loại Vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài
sản hữu hình và tài sản vô hình được ứng trước phục vụ cho kinh doanh nhằm
mục đích kiếm lời.
1.1.1.2. Đặc điểm vốn kinh doanh của doanh nghiệp

Như vậy, Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt,
có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh, phải đạt tới mục tiêu sinh
lời và luôn thay đổi hình thái biểu hiện; tiền, vật tư hoặc tài sản vô hình
nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.
Căn cứ vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, vốn ứng trước
được đồng nghĩa với vốn kinh doanh. Đó là số vốn được dùng vào kinh doanh
trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích sinh lời. Đầu tư vốn là hoạt động
chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào một mục tiêu
kinh doanh nào đó với hy vọng sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao trong tương lai.
1.1.1.3. Phân loại vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được phân loại dựa theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
* Dựa theo nguồn hình thành vốn
Đối với một doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, về cơ bản bao gồm: vốn chủ sở hữu (E) và vốn huy động
(D).


5

- Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, bao
gồm số vốn chủ doanh nghiệp tự bỏ ra và phần hình thành bổ sung từ kết quả
kinh doanh. Vốn chủ sở hữu tại một thời điểm có thể được xác định bằng
công thức sau:
Vốn chủ sở hữu = Giá trị tổng tài sản – Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu gồm các khoản chính sau đây:
Vốn tự có: đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn tự có do NSNN cấp
ban đầu và cấp bổ sung; đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn tự có do chủ
doanh nghiệp bỏ ra thì thành lập doanh nghiệp; với công ty liên doanh hoặc
công ty cổ phần thì do các chủ đầu tư hoặc các cổ đông đóng góp. Vốn tự có

bổ sung từ lợi nhuận kinh doanh.
Các quỹ được hình thành trong quá trình sản xuất kinh doanh (quỹ dự
phòng, quỹ đầu tư phát triển)
- Vốn huy động bao gồm vốn vay của các cá nhân, các tổ chức tín dụng
dưới mọi hình thức, vốn huy động từ việc phát hành trái phiếu.
Vốn huy động luôn đi đôi với các cam kết thanh toán khi đến hạn thể
hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả cho
các tác nhân kinh tế khác như: nợ tiền vay, trái phiếu đến hạn thanh toán, các
khoản phải trả cho người bán, cho nhà nước, cho người lao động trong doanh
nghiệp.
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, thông thường
một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ
không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các yếu tố như: trạng thái của
nền kinh tế; ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp; quy
mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp; trình độ khoa học – kỹ thuật và tình


6

độ quản lý; chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp; thái
độ của chủ doanh nghiệp; chính sách thuế v.v.
* Dựa theo đặc điểm luân chuyển của vốn
Theo tiêu thức phân loại này, vốn kinh doanh được hình thành 2 loại:
vốn cố định và vốn lưu động
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận vốn sản xuất kinh doanh
ứng ra hình thành nên Tài sản cố định (TSCĐ) của doanh nghiệp. Là khoản
đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn cố
định nhiều hay ít sẽ quyết định đến quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến
trình độ trang bị kỹ thuật vật chất và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp. Song ngược lại, những đặc điểm vận động của TSCĐ trong
quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn
và chu chuyển của vốn cố định. từ mối liên hệ đó, ta có thể khái quát những
nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. có được
đặc điểm này là do TSCĐ tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp và phát huy tác
dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy, vốn cố định là hình thái biểu hiện
bằng tiền của TSCĐ cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
- Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần, từng phần trong các
chu kỳ sản xuất. khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi
hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần,
tức là nó bị hao mòn, và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng, thì giá trị
của nó cũng bị giảm đi, theo đó vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
+ Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ
được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi
phí khấu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao, sau khi sản phẩm hàng


7

hoá được tiêu thụ, quỹ khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất TSCĐ
nhằm duy trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
+ Phần còn lại của vốn cố định được “cố định” trong đó, tức là giá trị
còn lại của TSCĐ.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần dần
giảm xuống tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng TSCĐ. Kết thúc quá
trình vận động đó cũng là lúc TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được
chuyển dịch vào giá trị sản phẩm đã sản xuất và khi đó vốn cố định mới hoàn

thành một vòng luân chuyển.
Vốn cố định thường có chu kỳ vận động dài, sau nhiều năm mới có thể
thu hồi đủ số vốn đầu tư đã ứng ra ban đầu. Trong thời gian dài như vậy, đồng
vốn luôn vị đe doạ bởi những rủi ro, những nguyên nhân chủ quan và khách
quan làm thất thoát vốn như:
- Do kinh doanh kém hiệu quả, sản xuất làm ra không tiêu thụ được, do
giá bán thấp hơn giá thành nên thu nhập không đủ bù đắp mức độ hao mòn
TSCĐ.
- Do sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho mức độ hao mòn
của TSCĐ vượt qua mức dự kiến của TSCĐ về mặt hiện vật cũng như về mặt giá
trị.
- Do yếu tố thời gian của đồng vốn chịu sự tác động của lãi.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng và
chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất
kinh doanh nói chung. Quy mô của vốn cố định và trình độ quản lý sử dụng
nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất
kinh doanh. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân


8

theo tính quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền được ứng ra để
hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm
đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường
xuyên, liên tục.
Tài sản lưu động sản xuất bao gồm ở khâu dự trữ sản xuất như: nguyên
nhiên, vật liệu, công cụ, dụng cụ… Tài sản lưu động ở khâu thiết bị như sản
phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm. Các tài sản lưu động ở khâu lưu thông

bao gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các
khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả
trước… Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động sản
xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế và đổi chỗ cho
nhau đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành
liên tục và thuận lợi.
Khác với tài sản cố định, trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản
lưu động của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra
sản phẩm, hàng hoá và do đó, phù hợp với các đặc điểm của tài sản lưu động,
vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai
đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình
này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là
quá trình tuần hoàn chu chuyển của vốn lưu động.
Trong quá trình vận động, vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị
ngay trong một lần, qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động
lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang
hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa
vào chế tạo thành các bán thành phẩm và thành phẩm, sau khi sản phẩm được


9

tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu
của nó. sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động mới hoàn thành một vòng
chu chuyển.
Trong các doanh nghiệp, quá trình sản xuất kinh doanh luôn được diễn
ra một cách thường xuyên, liên tục cho nên có thể thấy trong cùng một lúc,
vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân
chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. muốn cho quá trình sản
xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình

thái khác nhau đó đảm bảo cho việc chuyển hoá hình thái của vốn trong quá
trình luân chuyển được thuận lợi.
Từ những đặc điểm của vốn lưu động đã được xem xét ở trên đòi hỏi
việc quản lý và tổ chức sử dụng vốn lưu động cần chú trọng phải giải quyết
một số vấn đề sau:
- Xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, cần thiết tối thiểu cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo đủ vốn lưu động
cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức khai thác nguồn vốn tài trợ vốn lưu động, đảm bảo đầy đủ,
kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời
phải có giải pháp thích ứng nhằm quản lý và tổ chức sử dụng vốn lưu động có
hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất.
* Dựa trên góc độ quản lý về mặt pháp luật, vốn gồm
+ Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu cần phải có để được quyết định
thành lập đối với các doanh nghiệp ở các ngành nghề nhất định do nhà nước
quy định.
+ Vốn điều lệ: là số vốn đưa vào sản xuất kinh doanh khi thành lập
doanh nghiệp và được ghi trong điều lệ hoạt động của doanh nghiệp.


10

So sánh vốn điều lệ và vốn pháp định
Vốn điều lệ là số vốn do tất cả thành viên góp và được ghi vào Điều lệ
công ty. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng vốn pháp định để được phép thành lập
công ty nếu có quy định (vốn điều lệ tối thiểu).
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để có thể thành lập một
doanh nghiệp. Vốn pháp định do Cơ quan có thẩm quyền ấn định, mà nó được
xem là có thể thực hiện được dự án khi thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp
định sẽ khác nhau tùy theo lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh.

Đối với việc thành lập công ty TNHH thì pháp luật quy định vốn pháp
định tối thiểu là 1 tỷ đông.
Qua trên, thì vốn điều lệ có thể lớn hơn hoặc bằng với vốn pháp định
* Dựa vào phạm vi phát sinh vốn
Dựa vào căn cứ này, vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể
được chia thành: vốn bên trong và vốn bên ngoài.
+ Vốn từ bên trong doanh nghiệp:
Vốn này có ý nghĩa hết sức quan trọng cho sự phát triển của doanh
nghiệp. Việc doanh nghiệp huy động sử dụng nguồn vốn bên trong có ưu
điểm chủ yếu là doanh nghiệp được quyền tự chủ sử dụng vốn cho sự phát
triển của mình không phải chi phí cho việc sử dụng vốn, có nhiều chủ động
trong kinh doanh.
Tuy nhiên, cũng chính vì lợi thế về việc không phải trả chi phí sử dụng
nguồn vốn bên trong dẫn đến việc doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả.
+ Vốn từ bên ngoài doanh nghiệp: là loại vốn mà doanh nghiệp có thể
huy động từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Loại vốn này bao gồm: vốn vay ngân hàng, vay các tổ
chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ
khác.


11

Hình thức huy động vốn này có ưu điểm tạo cho doanh nghiệp một cơ
cấu tài chính linh hoạt hơn. Nếu doanh nghiệp đạt được mức doanh lợi cao
hơn chi phí sử dụng vốn càng nhiều thì việc huy động vốn bên ngoài nhiều sẽ
giúp cho doanh nghiệp phát triển mạnh hơn.
Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là: doanh nghiệp phải trả lợi
tức tiền vay và hoàn trả tiền vay đúng thời hạn, nếu doanh nghiệp sử dụng
vốn sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và bối cảnh nền kinh tế thay đổi bất lợi

cho doanh nghiệp thì nợ vay phải trả đã trở thành một gánh nặng và doanh
nghiệp phải chịu rủi ro lớn.
Vì vậy, cần căn cứ vào những ưu điểm và nhược điểm của các nguồn
vốn (bên trong và bên ngoài) mà doanh nghiệp có thể kết hợp phát triển nhằm
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất và rủi ro là nhỏ nhất.
Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn sản xuất
kinh doanh cho thấy các doanh nghiệp hiện nay một mặt cần tăng cường quản
lý và sử dụng có hiệu quả đồng vốn hiện có, mặt khác chủ động tổ chức khai
thác các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Dựa vào thời gian sử dụng
Theo tiêu thức này có thể chia vốn của doanh nghiệp thành hai loại là:
vốn thường xuyên và vốn tạm thời.
+ Vốn thường xuyên: là tổng thể các vốn có tính chất lâu dài và ổn định
mà doanh nghiệp có thể sử dụng, vốn này được dùng cho việc hình thành tài
sản cố định và một phần tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho doanh
nghiệp, vốn thường xuyên bao gồm vốn riêng và các khoản vay dài hạn.
+ Vốn tạm thời: là vốn có tính chất ngắn hạn doanh nghiệp sử dụng đáp
ứng nhu cầu tạm thời, bất thường phát sinh trong doanh nghiệp kinh doanh
của doanh nghiệp. Vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Chúng ta có thể hình dung như sau:


12

TSLĐ

Nợ ngắn hạn
Nợ dài hạn
Vốn chủ sử hữu


TSCĐ

Vốn tạm thời
Vốn thường xuyên

Tài sản = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn + TSCĐ và đầu tư dài hạn
Nguồn vốn = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Trong đó:

Vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn
Vốn thường xuyên = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu

Việc phân loại vốn thường xuyên và vốn tạm thời giúp cho người quản
lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời
gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn sản xuất kinh doanh và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Cách phân loại này còn giúp nhà quản lý doanh nghiệp lập nên các kế
hoạch tài chính trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô và tổ chức sử dụng
vốn đạt hiệu quả cao.
1.1.2. Nguyên tắc huy động vốn
Trong quá trình tìm nguồn huy động vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động
sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản sau:
Thứ nhất, phải tuân thủ hệ thống phát luật, chế độ chính sách của nhà
nước hiện hành. Các chế độ chính sách nhà nước áp dụng cho các doanh
nghiệp nhằm hai mục đích chính sau:
- Phải trên cơ sở hệ thống pháp luật, chế độ chính sách của nhà nước
không chỉ biểu hiện sự tôn trọng pháp luật của các doanh nghiệp mà thông
qua đó các doanh nghiệp có thể nghiên cứu thêm các chính sách đó như là
một tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản

xuất kinh doanh và huy động vốn.


13

- Chế độ chính sách còn là quy định cho các doanh nghiệp phải tuân
theo hệ thống pháp lý nhà nước nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
giữa các doanh nghiệp với nhau.
Thứ hai, đa dạng hoá hình thức huy động vốn với chi phí thấp nhất.
trong nền kinh tế thị trường xuất hiện nhiều phương thức, lãi suất huy động
cũng như phương thức thanh toán khác nhau. các hình thức huy động này
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn hay dài hạn trong doanh nghiệp, phục vụ
cho chương trình, dự án đầu tư theo chiều sâu, hay chiều rộng. Tuỳ theo từng
thời kỳ, tính chất đầu tư mà các doanh nghiệp tìm nguồn huy động hợp lý với
chi phí vốn là thấp nhất.
Ngoài những nguyên tắc nêu trên, khi huy động vốn các doanh nghiệp
cũng cần phải lưu ý đến một số điều kiện cũng như các yêu cầu khác như các
điều kiện để vay vốn ngân hàng, điều kiện để phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Vốn huy động đảm bảo phải sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và đảm bảo
khả năng thanh toán sau này.
1.1.3. Nguồn huy động vốn
1.1.3.1. Nguồn tài trợ ngắn hạn
* Nguồn từ các khoản phải nộp và phải trả
Trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp thì các khoản tài trợ
này không lớn lắm, nhưng chúng giúp cho doanh nghiệp giải quyết những
nhu cầu vốn mang tính chất tạm thời. Các khoản phải nộp, phải trả cho doanh
nghiệp thường bao gồm:
- Các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp.
- Các khoản phải trả cho cán bộ công nhân viên nhưng chưa đến kỳ hay
nợ cán bộ công nhân viên.

- Các khoản đặt cọc cho khách hàng
- Các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ.


14

* Nguồn vốn từ mua bán chịu (TĐTM)
Nguồn vốn này được khai thác một cách tự nhiên trong quan hệ mua
bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có
ảnh hưởng lớn đến vốn của các doanh nghiệp. Tín dụng thương mại là
phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong các doanh nghiệp, được các
doanh nghiệp rất ưa chuộng. Mặt khác, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan
hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể được
ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận
thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt
quá giới hạn an toàn. Quy mô tín dụng này phụ thuộc vào chính sách tín dụng
của nhà cung cấp đối với doanh nghiệp. đối với mỗi doanh nghiệp khác nhau
thì nhà cung cấp sẽ áp dụng các chính sách áp dụng khác nhau sao cho phù
hợp.
* Nguồn vốn vay
Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời hay ngắn hạn của
mình bằng nguồn vay ngắn hạn ngân hàng theo nhiều phương thức khác nhau:
- Vay theo hạn mức tín dụng: là thoả thuận giữa doanh nghiệp và ngân
hàng, theo đó ngân hàng tạo sẵn cho doanh nghiệp một khoản tín dụng với
một hạn mức nhất định, trong hạn mức đó doanh nghiệp có thể rút tiền vượt
quá khỏi số dư trên tài khoản của mình mà không phải thế chấp. Hình thức
này có ưu điểm là chi phí thấp nhưng doanh nghiệp phải chủ động về mặt tài
chính vì ngân hàng có thể thu hồi bất cứ lúc nào hay không tiếp tục cho vay
nữa.
- Vay có bảo đảm: là doanh nghiệp dùng vật bảo đảm để vay tiền ngân

hàng, hình thức này bao gồm:
+ Vay thế chấp bằng tài sản hàng hoá: theo hình thức này khi muốn vay
doanh nghiệp phải dùng tài sản của mình thường là tài sản cố định làm vật


15

bảo đảm thông qua việc doanh nghiệp giao cho ngân hàng các giấy tờ chứng
minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
+ Chiết khấu thương phiếu: theo hình thức này khi có nhu cầu tiền mặt,
doanh nghiệp có thể đem các hối phiếu chưa đến hạn thanh toán bán lại cho
ngân hàng để nhận được những khoản tiền vốn ngắn hạn.
+ Vay thế chấp bằng các khoản phải thu: doanh nghiệp có thể dùng các
hoá đơn thu tiền, các hợp đồng kinh tế để làm vật bảo đảm cho các khoản vay.
Nếu ngân hàng đồng ý, họ sẽ đánh giá chất lượng các chứng từ, hoá đơn, sau
đó xác định khoản tiền vay tương ứng cho doanh nghiệp.
* Hợp đồng tài trợ
Hình thức này được thực hiện khi doanh nghiệp nhận đơn đặt hàng của
khách hàng, doanh nghiệp có thể đến ngân hàng đề nghị cho vay một khoản
tiền để thực hiện hợp đồng. nếu các chứng từ, văn bản là hợp lệ và thấy khả
năng thanh toán của khách hàng là đáng tin cậy thì ngân hàng có thể cấp tín
dụng cho doanh nghiệp.
* Thư tín dụng
Hình thức này được áp dụng đối với các doanh nghiệp có nhu cầu nhập
khẩu hàng hoá. Khi đó doanh nghiệp sẽ đề nghị với ngân hàng phục vụ mình
cấp một khoản tín dụng để nhập hàng hoá, nếu ngân hàng chấp nhận thì họ sẽ
phát hành một thư tín dụng cam kết sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua
ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Sau khi nhận được thông báo, nhà xuất
khẩu chuyển toàn bộ hàng hoá cho doanh nghiệp, đồng thời gửi các chứng từ
hoá đơn về việc chuyển hàng hoá đến ngân hàng phục vụ mình nhờ thanh

toán tiền. Sau khi số tiền trong thư tín dụng được thanh toán thì nó cũng trở
thành khoản nợ đối với doanh nghiệp.


16

1.1.3.2. Nguồn tài trợ dài hạn
* Nguồn đầu tư từ chủ sở hữu của doanh nghiệp
Nguồn vốn chủ sở hữu là số tiền của doanh nghiệp hay các đồng chủ sở
hữu cũng cam kết đầu tư để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn
vốn chủ sở hữu có tính chất ổn định lâu dài, doanh nghiệp không phải cam kết
thanh toán nên không phải là một công cụ nợ, nó bao gồm:
- Nguồn vốn đầu tư ban đầu: khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ
chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định. Số vốn này phụ
thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp, cụ thể là do Nhà nước cấp đối
với doanh nghiệp nhà nước, do cá nhân chủ doanh nghiệp đầu tư đối với
doanh nghiệp tư nhân, do các chủ sỡ hữu cùng góp đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay công ty liên doanh.
- Nguồn vốn tự bổ sung: trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp tạo ra một luồng tiền nội bộ, luồng tiền này cho biết khả năng
tự tài trợ cao nhất mà doanh nghiệp có thể khai thác. Đó là số tiền tăng thêm
trong kỳ bao gồm một phần của lãi ròng và khấu hao tích luỹ trong kỳ nhưng
trong thời gian chưa tái đầu tư tài sản cố định. Thực tế cho thấy, đối với các
doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì đây là một nguồn tài trợ đóng góp vai trò
quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn.
* Vốn tín dụng dài hạn và phát hành trái phiếu công ty
- Vay dài hạn có kỳ hạn: là một thoả ước tín dụng dưới dạng một hợp
đồng diễn ra giữa người vay (doanh nghiệp) và người cho vay (ngân hàng, các
công ty tài chính). Theo đó, người vay có nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay
theo lịch trình đã định. Việc hoàn trả được thực hiện theo định kỳ đều nhau

gồm cả gốc và lãi trong suốt thời gian diễn ra giao dịch với những khoản tiền
bằng nhau. Doanh nghiệp đi vay có thể thiết lập một lịch trình trả nợ phù hợp
với dòng tiền thu nhập của doanh nghiệp. Lãi suất áp dụng cho loại này có thể


17

là lãi suất thải nổi hay cố định tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên. Hình thức tín
dụng này được áp dụng rất phổ biến, có ưu điểm giúp doanh nghiệp chủ động
được kế hoạch trả nợ và là nguồn ổn định lâu dài phù hợp với các dự án đầu
tư dài hạn.
- Trái phiếu công ty: là một công cụ tài chính thường được các doanh
nghiệp dùng để vay dài hạn, là một giấy nhận nợ do doanh nghiệp đi vay phát
hành cam kết sẽ hoàn trả cả gốc và lãi cho trái chủ sau một khoảng thời gian
nhất định. Có nhiều hình thức phát hành trái phiếu, với mỗi hình thức đều có
những ưu nhược điểm riêng nên doanh nghiệp cần xem xét tình hình tài chính
cụ thể để lựa chọn loại trái phiếu phù hợp:
+ Trái phiếu có lãi suất cố định, lãi suất thay đổi.
+ Trái phiếu có thể thu hồi.
+ Trái phiếu có bảo đảm.
- Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số vốn đã đóng góp vào công ty và quyền
được hưởng lợi tức (hay chịu lỗ) tương ứng với phần vốn đã góp và chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình.
Cổ phiếu có những ưu nhược điểm sau:
+ Cổ phiếu là lá chắn chống lại sự phá sản của doanh nghiệp.
+ Khi công ty gặp khó khăn thì có thể chưa cần phải trả hoặc trả
rất ít cổ tức cho cổ đông.
+ Có thể bị san sẻ quyền lãnh đạo công ty bởi vì khi cổ phần mới
được bán thì những cổ đông mới cũng hoàn toàn có quyền lợi như các cổ

đông khác.
+ Chi phí của vốn cổ phần thường cao hơn chi phí của các khoản
vốn khác.


18

Cổ phiếu ưu đãi thường chiếm tỷ trọng nhỏ, nó có ưu điểm nhất định
đó là khi công ty vừa tăng được vốn chủ sở hữu, chống lại sự phá sản nhưng
vừa không bị sản sẻ quyền lãnh đạo. Tuy nhiên, khi mà tình hình tài chính của
công ty gặp khó khăn thì việc trả lãi thường xuyên và cố định cũng là điều bất
lợi cho công ty.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề hết sức phức tạp, có liên
quan đến nhiều yếu tố, nhiều khía cạnh trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp như lao động, nguyên vật liệu, năng lượng, các yếu tố kỹ
thuật và thời gian được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm được thực hiện qua
một hay nhiều quá trình sản xuất.
Khái niệm hiệu quả kinh doanh đã cho thấy bản chất của nó là phản ánh
mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh
trình độ lợi dụng các nguồn lực đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy
nhiên để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù hiệu quả kinh doanh vào việc
xác lập các chỉ tiêu, các công thức cụ thể nhằm đánh giá tính hiệu quả các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chúng ta cần làm rõ
những vấn đề sau:
- Thứ nhất, Phạm trù hiệu quả kinh doanh về mặt định lượng thực chất
là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và yếu tố nguồn lực đầu vào và
có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Mối quan hệ so sánh ở đây có thể

là so sánh tuyệt đối và cũng có thể là so sánh tương đối.
Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả kinh doanh là:
H=K–C

(2.1)

Còn về so sánh tương đối thì: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được


19

xác định bằng cách đối chiếu so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí hoặc
các nguồn lực tạo ra kết quả đó.
K
H =

(2.2)
C

Trong đó:
H: hiệu quả kinh doanh
K: kết quả kinh doanh (bằng các chỉ tiêu sau: GTTSL, Tổng DT, LN…)
C: Nguồn lực đầu vào (Lao động, chi phí kinh doanh, vốn, tài sản…)
Do đó để tính được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính
kết quả đạt được và nguồn lực đầu vào
Về mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh doanh thu được phản ánh trình
độ năng lực quản lý sản xuất kinh doanh. Hai mặt định tính và định lượng của
hiệu quả kinh doanh không được tách rời nhau.
- Thứ hai, Phải phân biệt hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội với
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi

dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục
tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong
phạm vi toàn xã hội phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng
cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Còn hiệu quả kinh tế xã hội
phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu cả về
kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trên phạm
vi từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế.
- Thứ ba, Hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài: các chỉ tiêu hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu của doanh
nghiệp do đó mà tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các giai


20

đoạn khác nhau. Xét về tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của
toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của
doanh nghiệp là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả
trước mắt (hiện tại) thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu hiện tại mà Doanh
nghiệp đang theo đuổi. Trong thực tế để thực mục tiêu bao trùm lâu dài của
doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, có rất nhiều doanh nghiệp hiện tại
không đạt được mục tiêu là lợi nhuận mà lại thực hiện các mục tiêu nâng cao
năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao uy tín danh tiếng của doanh
nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu… do đó mà các chỉ
tiêu hiệu quả ở đây về lợi nhuận là không cao nhưng chỉ tiêu có liên quan đến
các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta không thể kết luận
là doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, mà phải kết luận là doanh
nghiệp đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả mà tính
hiệu quả trước mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục
đích của nó lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài.
Việc phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đánh giá trình

độ khai thác và tiết kiệm các nguồn lực đã có. Phát huy ưu điểm, khắc phục
nhược điểm trong quá trình sản xuất, đề ra các biện pháp nhằm khai thác mọi
khả năng tiềm tàng để phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạ
giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người lao động.
Dưới góc độ người chủ sở hữu doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh
được thể hiện bằng hiệu quả tài chính, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Để hiểu rõ hơn bản chất của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
cần phân biệt được 2 khái niệm hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh.
Kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình


21

kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật (tấn,
tạ, kg, m2, m3…) và đơn vị giá trị (đồng, triệu đồng…) hay cũng có thể phản
ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh như uy tín, danh tiếng của công
ty, của chất lượng sản phẩm. Kết quả còn phản ánh qui mô hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, một doanh nghiệp đạt kết quả lớn thì chắc chắn
qui mô của doanh nghiệp cũng phải lớn. Việc xác định kết quả sản xuất kinh
doanh cho dù là kết quả định lượng của một doanh nghiệp gặp rất nhiều khó
khăn bởi nhiều lý do ví dụ như sản xuất sản phẩm. Kết quả là những gì doanh
nghiệp đạt được sau quá trình sản xuất kinh doanh, là mục tiêu của doanh
nghiệp.
Trong khi đó, hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực sản xuất hay phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh không phải là sự chênh lệch giữa kết quả và hao phí
nguồn lực vì mức chênh lệch đó là một số tuyệt đối còn hiệu quả kinh doanh

chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối, tỷ số giữa kết quả và hao phí
nguồn lực để có kết quả đó. Việc xác định hiệu quả kinh doanh cũng rất phức
tạp bởi kết quả kinh doanh và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể
nào đó đều rất khó xác định một cách chính xác.
Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối
đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí
nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Như vậy,
hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất kinh
doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
Xét về bản chất của hiệu quả và kết quả khác hẳn nhau. Kết quả phản
ánh quy mô còn hiệu quả phản ánh sự so sánh giữa các khoản bỏ ra và khoản


22

thu về. Kết quả chỉ cho thấy quy mô đạt được là lớn hay nhỏ và không phản
ánh chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Có kết quả mới tính đến
hiệu quả. Kết quả dùng để tính toán và phân tích hiệu quả tong từng kỳ kinh
doanh. Do đó, kết quả và hiệu quả là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
Sự phân chia giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội chỉ là tương đối
vì chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Quản lý sử dụng vốn là một trong những lĩnh vực của quản lý kinh
doanh và là lĩnh vực có tính chất quyết định vì thế mọi doanh nghiệp đều luôn
chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn
được phản ánh bằng kết quả lợi nhuận mang lại từ một đồng vốn so với chi
phí huy động một đồng vốn. Thông thường khi nói đến hiệu quả sử dụng vốn
người ta thường so sánh tỷ lệ sinh lời trên vốn đầu tư cao hơn lãi suất huy
động thì hoạt động sử dụng vốn được coi là có hiệu quả, số chênh lệch này

càng lớn thì hiệu quả càng cao.
Phân biệt hiệu quả sử dụng và hiệu suất sử dụng
Hiệu quả là những thứ mình tạo ra khi sử dụng 1 lượng nguồn lực nào
đó (nguyên vật liệu, nhân công).
Hiệu suất là khả năng sử dụng ít đầu vào hơn nhưng vẫn tạo được kết
quả cao hơn.
Hiệu quả vốn kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử dụng
vốn kinh doanh của một doanh nghiệp, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt kết
quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất.


23

1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chung
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi
C của vốn =
Hệ số sinh lời

Lợi nhuận sau thuế

(2.3)

Tổng vốn SXKD

Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế – Thuế thu nhập DN
Tổng vốn SXKD = Vốn đầu tư tại DN + Vốn tự huy động + Vốn khác
Hệ số này cho biết một đồng vốn SXKD của DN thu được bao nhiêu

đồng lợi nhuận của DN trong kỳ. Nếu hệ số lớn hơn hoặc bằng 1 nói lên
doanh nghiệp đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn, nếu hệ số nhỏ hơn 1 nói lên
dn sử dụng vốn chưa hiệu quả.
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời của vốn chủ sở hữu =
C
Tổng vốn chủ sở hữu

(2.4)

Tổng vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu + Nguồn kinh phí và quỹ khác
Hệ số này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận trong kỳ. Nếu hệ số lớn hơn hoặc bằng 1 nói lên doanh nghiệp
đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn chủ sở hữu, nếu hệ số nhỏ hơn 1 nói lên DN
sử dụng vốn chưa hiệu quả.
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời doanh
C thu thuần =

Doanh thu thuần

(2.5)


24

Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ – Các
khoản giảm trừ.
Hệ số này cho biết một đồng doanh thu thuần thực hiện trong kỳ tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Nếu hệ số lớn hơn hoặc bằng 1 nói lên doanh

nghiệp kinh doanh có hiệu quả, nếu hệ số nhỏ hơn 1 nói lên DN kinh doanh
chưa hiệu quả.
Doanh thu thuần
Hệ suất sử dụng tổng tài sản =
C

Tổng tài sản

(2.6)

Tổng tài sản = Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thể hiện ở mức doanh
thu thuần được tạo ra từ tổng số vốn doanh nghiệp đã đầu tư. Chỉ tiêu này
phản ánh vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ và chỉ ra một đồng vốn đầu tư vào
sxkd tạo ra được mấy đồng doanh thu.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán.
C
Hệ số thanh toán ngắn hạn =

Tài sản lưu động

(2.7)

Nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động = Mã số 100 bảng cân đối kế toán
Nợ ngắn hạn = Mã số 310 bảng cân đối kế toán
Hệ số này thể hiện ở mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn
hạn, cho biết khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là
cao hay thấp. Nếu chỉ số này lớn hơn hoặc bằng 1 thì tài sản lưu động của
doanh nghiệp đủ để đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn, nếu chỉ số này nhỏ hơn 1

thì doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.


25

Tiền, các khoản tương đương tiền
và các khoản đầu TCNH
Hệ số thanh toánCnhanh =

Nợ ngắn hạn

(2.8)

Tiền, các khoản tương đương tiền (mã số 110 BCĐKT) và các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn (mã số 120 BCĐKT).
Nợ ngắn hạn = Mã số 310 BCĐKT
Hệ số này phản ánh khả năng tài chính của dn có đủ đáp ứng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn hay không. Nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1
thì khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn là tốt và ngược lại.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
C
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =

Doanh thu thuần

(2.9)

Nguyên giá TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ = MS 222 + MS 225 + MS 228 BCĐKT
Hệ số này phản ánh một đồng TSCĐ tham gia trong kỳ tạo ra được bao

nhiêu đồng doanh thu. Nếu hệ số lớn hơn hoặc bằng 1 phản ánh doanh nghiệp
sử dụng TSCĐ có hiệu quả, nếu nhỏ hơn 1 thì ngược lại.
Vốn cố định
Hệ số hàm lượng vốn cố định =
Doanh thu thuần

Vốn cố định = Chi tiết MS 411 BCĐKT
Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ – Các
khoản giảm trừ.


×