Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Phát triển nghiệp vụ môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán MB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.24 KB, 58 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và hoạt động được gần 7 năm trong lịch
sử phát triển. 7 năm là khoảng thời gian không thời gian để nhìn nhận và đánh giá lại
vai trò là kênh thu hút vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền
kinh nói chung. Bên cạnh những mặt đạt được như: Đóng góp ngày càng lớn vào sự
tăng trưởng GDP của đất nước, thu hút được đông đảo công chúng đầu tư tham gia vào
thị trường thì vẫn còn tồn tại nhiều mặt như: quy mô, cấu trúc thị trường… Mọi hoạt
động còn đang ở giai đoạn sơ khai, giai đoạn hình thành và dần hoàn thiện.
Thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả một phần là nhờ vào các nhà môi
giới và kinh doanh chứng khoán. Đa số các công ty hiện nay đều thực hiện hoạt động
này. Bản chất của hoạt động này là trung gian hoặc đại diện mua bán cho khách hàng.
Đây là một hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán nhưng hiện nay còn rất nhiều
vấn đề tồn tại: Lợi nhuận thu được từ hoạt động môi giới còn thấp, chưa xứng với tiềm
năng phát triển của công ty cũng như của thị trường. Vấn đề này có thể lý giải bằng
các nguyên nhân: đội ngũ nhân viên môi giới chưa chuyên nghiệp, các dịch vụ phụ trợ
chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư… Những tồn tại này làm cho nghiệp vụ
của công ty chứng khoán nói chung và MBS nói riêng chưa thực sự phát triển. Đây là
lý do em chọn đề tài: “Phát triển nghiệp vụ môi giới tại công ty cổ phần chứng
khoán MB“ làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương 1: Vấn đề cơ bản hoạt động của công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán MB.
Chương 3: Giải pháp phát triển nghiệp vụ môi giới của công ty cổ phần chứng
khoán MB.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của các anh chị ở MBS đặc biệt
là phòng môi giới đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.


2
CHƯƠNG I


HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Tổng quan về công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm về công ty chứng khoán
Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán có hiệu quả, một yếu tố
không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho
việc phát triển kinh tế và tạo tính thanh khoản cho loại chứng khoán. Thị trường chứng
khoán không giống như các thị trường hàng hóa thông thường khác vì hàng hóa của thị
trường là các chứng khoán-một loại hàng hóa đặc biệt. Với loại hàng hóa đặc biệt này
người mua và người bán không trực tiếp mua bán mà thông qua một trung gian. Do
vậy, để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một cách có trật tự, công bằng và
hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của các công ty chứng khoán. Là trung
gian giữa người mua và người bán vì chỉ có công ty chứng khoán đủ năng lực trình độ,
có khả năng phân tích sẽ đứng ra kết nối giữa người mua và bán. Lịch sử hình thành và
phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới cho thấy thời tiền sử của thị trường
chứng khoán, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Sau này, cùng với
sự phát triển của thị trường chứng khoán, chức năng và quy mô hoạt động giao dịch
của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của công ty chứng khoán là sự tập hợp
các tổ chức của các nhà môi giới riêng lẻ.
Theo giáo trình Thị trường chứng khoán của trường Học Viện Ngân Hàng:
“Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ
trên thị trường chứng khoán ”.
Theo quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17 thánh 6 năm 2004 của bộ trưởng
Bộ tài chính thì: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép
kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp”.


3
Công ty chứng khoán phải được Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép

thành lập và hoạt động, kinh doanh trên lĩnh vực chứng khoán, có tư cách pháp nhân
và đáp ứng đầy đủ các quy định :
- Có đủ trang thiết bị, cơ sỏ vật chất cần thiết cần thiết cho công ty chứng khoán
- Công ty chứng khoán khi thành lập đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định cho các
nghiệp vụ kinh doanh (theo điều 18 Nghi định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 01
năm 2007) như sau:
1. Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam;
2. Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam;
4. Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam;
Trong trường hợp công ty đề nghị cấp giấy phép cho nghiều nghiệp vụ kinh
doanh, vốn pháp định là tổng số vốn pháp định tương ứng với từng nghiệp vụ xin cấp
phép.
- Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên của công ty phải đáp ứng kiến
thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, mức độ tín nhiệm, tính trung thực và có giấy
phếp hành nghề.
Theo điều 60 Luật chứng khoán thì công ty chứng khoán được thực hiện các
nghiệp vụ sau:
- Môi giới chứng khoán;
- Tự doanh chứng khoán;
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
- Tư vấn đầu tư chứng khoán;
Ngoài ra công ty chứng khoán còn cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính và các
dịch vụ tài chính khác.


4
Trên thực tế, một công ty chứng khoán không nhất thiết phải thực hiện tất cả các
nghiệp vụ nói trên nhưng một nghiệp vụ tiêu biểu thể hiện rõ bản chất của công ty
chứng khoán đó là nghiệp vụ môi giới và nó trở thành nghiệp vụ cơ bản mà hầu hết

các công ty chứng khoán đều tham gia.
1.1.2 Phân loại công ty chứng khoán
1.1.2.1 Phân loại theo hình thức tổ chức kinh doanh
Hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng khoán, đó là: Công ty
hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
 Công ty hợp danh:
Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên. Căn cứ vào số vốn góp của
các bên tham gia mà xác định thành viên Ban giám đốc. Thành viên tham gia vào điều
hành công ty được gọi là thành viên hợp danh và phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ tài chính của công ty. Các thành viên góp vốn
không tham gia điều hành công ty gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm
hữu hạn trong số vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty.
Theo loại hình này thì hiện nay ở Việt Nam chưa có công ty chứng khoán nào.
 Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, các thành viên tham gai góp vốn gọi
là các cổ đông. Các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn về nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp. Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu
ra hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ đề ra các chính sách của công ty và chỉ định
giám đốc cùng với các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược
kinh doanh đã đề ra. Giám đốc (Tổng giám đốc) có thể là thành viên hội đồng quả trị
nhưng cũng có thể là thuê ngoài. Giám đốc chịu trách nhiệm trước trước Hội đồng quả
trị về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty
Theo loại hình này ở Việt Nam đã có các công ty như:
- Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt.


5
- Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn.
- Công ty cổ phần chứng khoán Thănng Long.
- Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất...

 Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Đây là loại hình công ty mà theo đó các thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm
giới hạn trong phạm vi số vốn mà họ góp vào công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn có
hai loại hình chính la công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách
nhiệm hữu hạn nhiều thành viên. Tùy thuộc lượng vốn góp của các thành viên mà xác
định chức chủ tịch Hội thành viên.
Ưu điểm của hai loại công ty hình này là có thể dễ dàng huy động vốn qua việc
bổ sung vốn của các thành viên hoặc huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông
qua việc phát hành cổ phiếu (công ty cổ phần) và phát hành trái phiếu (công ty trách
nhiệm hữu hạn).
Theo loại hình này ở Việt Nam đã tồn tại nhiều công ty như:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên chứng khoán Ngân hàng Công
thương Việt Nam.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên chứng khoán Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam...
1.1.2.2 Phân loại theo các nghiệp vụ
Phân chia theo loại theo tiêu thức này có 6 loại công ty chứng khoán :
* Công ty môi giới: Hay còn được gọi là công ty thành viên vì nó là thành viên
của Sở giao dịch chứng khoán. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty môi giới là
thực hiện việc trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao
dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên để hưởng hoa hồng.
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: Công ty có lĩnh vực hoạt động chủ yếu
là giúp tổ chức phát hành thục hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ


6
chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn
đầu sau khi phát hành để hưởng phí hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
* Công ty kinh doanh chứng khoán: Là công ty chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự
doanh, nghĩa là tự đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty chi trả và tự

chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh. Công ty này phải cố giằng bán chứng khoán
với giá cao hơn giá mua vào. Do vậy loại hình công ty này hoạt động với tư cách là
người ủy thác chứ không phải là đại lý ủy thác.
* Công ty chứng khoán không tập trung: là công ty chứng khoán hoạt động chủ
yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò như các nhà tạo lập thị trường
* Công ty dịch vụ đa năng: những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một
lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài ba dịch vụ nói trên, họ còn
cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán
trên Sở giao dịch chứng khoán, ủy nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên
thị trường OTC. Sự kết hợp giữa các sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết
định cơ sở các dịch vụ mà họ có thể cung cấp cho khách hàng.
* Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: đây là loại hình công ty
mà theo đó công ty này nhận chênh lệch giá qua việc buôn bán chứng khoán, do đó
còn được gọi là nhà tạo lập thị trường, nhất là trên thị trường giao dịch OTC.
Các công ty chứng khoán là đối tượng quản lý của các nguyên tắc, quy chế do Ủy
ban chứng khoán Nhà nước ban hành. Các quy chế này chi phối kinh doanh của các
công ty chứng khoán, kiểm soát họ trong mối quan hệ của các công ty chứng khoán.
1.1.3 Vai trò, chức năng của công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán là các tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng
khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng
khoán, qua đó, một lượng vốn khổng lồ được vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn
vốn riêng lẻ trong công chúng.
Công ty chứng khoán có ba chức năng chủ yếu trên thị trường tài chính:


7
- Tạo cơ chế huy động vốn bằng cách nối những người có tiền (nhà đầu tư) với
những người muốn huy vốn (người phát hành chứng khoán, ví dụ như các công ty cổ
phần, chính phủ…)

- Cung cấp một cơ chế giá cả cho giá trị của các khoản đầu tư.
- Cung cấp cơ chế chuyển tiền mặt cho các nhà đầu tư.
Công ty chứng khoán giữ vai trò quan trọng đối với các chủ thể khác nhau trên
thị trường. Công ty chứng khoán vừa đóng vai trò là một nhà đầu tư (nghiệp vụ tự
doanh), vừa đóng vai trò là cầu nối giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư đồng thời
cung cấp các dịch vụ cần thiết.Cụ thể:
1.1.3.1 Vai trò huy động vốn
Các ngân hàng, các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư đều là các trung gian
tài chính với vai trò huy động vốn. Nói một cách đơn giản, các tổ chức này có vai trò
làm chiếc cầu nối và đồng thời là các kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ
phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của
nền kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường đảm
nhiệm vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
1.1.3.2. Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán nói riêng,
thông qua các cơ sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp
một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác
về giá trị khoản đầu tư của mình. Các sở giao dịch chứng khoán niêm yết giá cổ phiếu
của các công ty từng ngày một trên các báo tài chính. Ngoài ra, chứng khoán của nhiều
công ty lớn không được niêm yết ở sở giao dịch cũng có thể được công bố trên các tờ
báo tài chính.
Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị
trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của các nước, công ty
chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua


8
chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá
chứng khoán cao.
1.1.3.3. Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt

Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán
có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán
đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại
nhất khi tiến hành đầu tư. Chẳng hạn, trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở sở giao
dịch chứng khoán và thị trường OTC ngày nay, một nhà đầu tư có thể hàng ngày
chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không chịu thiệt hại đáng kể
đối với giá trị khoản đầu tư của mình (ít nhất thì cũng không chịu thiệt hại do cơ chế
giao dịch chứng khoán gây nên). Nói cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài
ảnh hưởng đến giá trị đầu tư, chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền
kinh tế, nhưng gía trị khoản đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua bán.
1.1.3.4. Thực hiện tư vấn đầu tư
Các công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh
của khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc
nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và cá nhân đầu tư.
1.1.3.5. Tạo ra các sản phẩm mới
Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với một tốc độ rất
nhanh do một số nguyên nhân, trong đó có yếu tố dung lượng thị trường và biến động
thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài
chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán.
Ngoài cổ phiếu (thường và ưu đãi) và trái phiếu đã được biết đến, các công ty
chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ (trung ương và địa phương), chứng
quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo
đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế.


9
1.1.4 Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
1.1.4.1 Nghiệp vụ môi giới
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Tức công ty chứng khoán đại diện cho

khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng
khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết
quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán thể hiện rõ chức năng là nhà
tài chính trung gian. Cung cấp dịch vụ môi giới, công ty chứng khoán tạo ra sự kết nối
giữ người bán và người mua, đem đến cho khách hàng các loại sản phẩm và dịch vụ tài
chính. Bộ phận môi giới cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các
khuyến nghị đầu tư.
1.1.4.2 Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các
chứng khoán cho chính mình. Nghĩa là các công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích thu lợi nhuận cho chính công ty và
tự gánh chịu mọi rủi ro từ việc đầu tư của chính công ty.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên các giao
dịch tập trung (trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán), hoặc trên
thị trường OTC… Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các công ty
chứng khoán được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của
khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp
giữa các công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một
số nước, hoạt động theo tự doanh của các công ty chứng khoán còn được thực hiện
thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Trong hoạt động này, công ty chứng khoán
đóng vai nhà tạo lập thị trường, Nắm giữ một số lượng nhất định của một loại chứng
khoán và thực hiện mua bán với khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh lệch
giá.


10
Mục đích hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán kinh doanh bằng
nguồn vốn của công ty mình nhằm thu lợi nhận. Để đảm bảo sự ổn định và tính minh
bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán khi thực

hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định như: Công ty chứng
khoán phải có nguồn vốn lớn. Có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn có khả
năng phân tích và nhận định thị trường, có khả năng tự quyết cao và nhất là tính nhạy
cảm trong công việc…
1.1.4.3 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc công ty chứng khoán có chức năng bảo
lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ
chức việc phân phối và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát
hành. Nhờ nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán mà tổ chức phát
hành sẽ chắc chắn thu được vốn từ đợt phát hành và có kế hoạch sử dụng vốn sau khi
phát hành thông qua sự tư vấn của công ty chứng khoán. Qua hoạt động này công ty
chứng khoán sẽ thu được phí bảo lãnh.
1.1.4.4 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động
phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một
số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư, tái cơ cấu tài chính, chia
tách sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát hành và
niêm yết chứng khoán. Trong hoạt động tư vấn công ty chứng khoán cung cấp thông
tin, các hình thức đầu tư, thời điểm đầu tư và quan trọng nhất là loại chứng khoán đầu
tư phù hợp với khách hàng của mình. Thông thường hoạt động tư vấn đầu tư chứng
khoán gắn liền với các hoạt động khác như hoạt động môi giới, bảo lãnh phát hành.
1.1.3.5. Nghiệp vụ phụ trợ khác
▪ Nghiệp vụ tín dụng


11
Đây là một hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát triển. Các
nghiệp vụ này bao gồm cho vay ký quỹ, cầm cố chứng khoán, cho vay ứng trước tiền
bán chứng khoán, ứng trước tiền cổ tức.
Khi mà khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không đủ tiền ký quỹ,

công ty chứng khoán có thể thực hiện cho khách hàng vay cầm cố những loại chứng
khoán mà khách hàng đang nắm giữ để khách hàng có đủ tiền mua chứng khoán.
Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước
tiền thanh toán. Đến kỳ hạn đã thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số chênh lệch
cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì
công ty có quyền sở hữu số chứng khoán đã mua. Trong thời gian cầm cố chứng khoán
thì khách hàng không được giao dịch số chứng khoán đó, trong trường hợp khách hàng
muốn bán chứng khoán đó thì khách hàng phải thực hiện hợp đồng giải tỏa số chứng
khoán đó và chỉ được bán số chứng khoán đó để trả nợ. Số tiền thu được từ việc cầm
cố chứng khoán nhà, đầu tư chỉ được sử dụng để mua chứng khoán chứ không được sử
dụng vì mục đích gì khác.
Rủi ro xảy ra đối với công ty chứng khoán là chứng khoán thế chấp có thể bị
giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ. Vì vậy, khi thế
chấp khoản vay cầm cố công ty chứng khoán phải có những nguyên tắc riêng để đảm
bảo thu hồi vốn và tránh tập trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng
khoán nhất định như việc quy định hạn mức tối đa mà một hợp đồng được phép vay
cũng như tỷ lệ cầm cố so với giá trị của chứng khoán tại thời điểm thực hiện cầm cố.
Nghiệp vụ này thường đi kèm với nghiệp vụ môi giới trong một công ty chứng khoán.
▪ Lưu ký chứng khoán
Là việc giữ trữ bảo quản chứng khoán hộ khách hàng thông qua các tài khoản lưu
ký chứng khoán mà khách hàng mở tại công ty. Đây là quy định bắt buộc trong giao
dịch chứng khoán bởi vì các chứng khoán giao dịch trên thị trường tập trung hay thị
trường OTC là hình thức giao dịch dưới các bút toán ghi sổ (nếu chứng khoán phát
hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc dưới hình thức ký gửi chứng khoán (nếu chứng
khoán phát hành dưới hình thức chứng khoán vật chất). Khi thực hiện lưu ký chứng
khoán, công ty sẽ thu được phí lưu ký, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng


12
khoán. Việc lưu ký chứng khoán là hình thức bắt buộc đầu tiên trước khi công ty thực

hiện niêm yết trên sàn giao dịch tập trung hay thị trường OTC. Sau khi thực hiện lưu
ký chứng khoán hộ khách hàng công ty lại tiến hành tái lưu ký tại trung tâm lưu ký
quốc gia.
 Quản lý cổ tức cho khách hàng:
Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký chứng
khoán. Khi thực hiện nghiệp vụ quản lý hộ, công ty phải tổ chức theo dõi tình hình thu
từ lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Tuy nhiên,
trên thực tế các công ty thường không trực tiếp quản lý mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu
giữ chứng khoán.
Ngoài các nghiệp vụ kể trên, công ty chứng khoán còn có thể thực hiện một số
các hoạt động khác như cho vay chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm…
1.2 Nghiệp vụ môi giới tại công ty chứng khoán:
1.2.1 Khái niệm về nghiệp vụ môi giới
Theo giáo trình TTCK của trường Học Viện Ngân Hàng, hoạt động môi giới
chứng khoán của công ty chứng khoán được hiểu là: “Hoạt động trung gian hoặc đại
diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí hoặc hoa hồng”.
Người trung gian môi giới chứng khoán là những người hoạt động chuyên nghiệp
trên thị trường, họ có khả năng nhận biết giá trị hiện tại và khả năng trong tương lai
của từng loại chứng khoán, cũng như xu thế chung toàn thị trường. Hoạt động của họ
ngoài trung gian giao dịch mua bán chứng khoán cho người đầu tư, họ còn tư vấn,
hướng dẫn nhà đầu tư và người phát hành thực hiện đầu tư và phát hành chứng khoán
một cách hiệu quả.
Môi giới chứng khoán là những chuyên gia tài chính, họ có khả năng phân tích
tình hình kinh tế - tài chính; phân tích đánh giá tình hình thị trường hiện tại, và nhận
định xu hướng tương lai, họ am hiểu và nắm vững pháp luật. Người môi giới không
đơn giản là người trung gian giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng, họ còn
là người tư vấn, giải thích đúng đắn mọi đặc điểm, tình hình và khuynh hướng biến
động giá của mỗi loại chứng khoán, họ có những lời khuyên “giá trị bằng vàng” cho



13
những người đầu tư. Người môi giới là người có uy tín trên thị trường, họ luôn tự giác
tuân thủ luật pháp và luôn luôn tôn trọng đạo đức nghề nghiệp.
Ở đây chúng ta chỉ xem xét họat động môi giới là một hoạt động kinh doanh của
công ty chứng khoán, trong đó công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành
giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC
mà chính khách hàng phải chịu hậu quả kinh tế do hoạt động đầu tư của mình.
1.2.2 Phân loại nhà môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán cũng có thể phân chia thành nhiều loại với những đặc
điểm khác nhau:
- Môi giới được ủy nhiệm hay thừa hành: Nhà môi giới này làm việc hưởng
lương của CTCK, được bố trí thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho chính công ty
hay cho khách hàng trên sàn giao dịch. Do đó, họ còn được gọi tên khác là môi giới
trên sàn.
- Môi giới độc lập hay “hai đô la”: nhà môi giới này làm việc cho chính họ và
hưởng hoa hồng theo dich vụ. Họ là những thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở giao
dịch (sàn giao dịch). Họ thực thi lệnh cho các công ty thành viên khác tại sàn giao
dịch. Khi đó, các CTCK sẽ hợp đồng với các nhà môi giới độc lập để thực hiện cho
khách hàng của mình, và trả cho loại môi giới này một khoản tiền nhất định.
Tuy phân chia thành các loại khác nhau nhưng họ đều hoạt động tuân thủ nguyên
tắc, yêu cầu của hoạt động môi giới.
Hiện nay, ở Việt Nam chỉ tồn tại một loại hình nhà môi giới là môi giới uỷ nhiệm
thừa hành mà không tồn tại môi giới 2 đô la. Một nhân viên của công ty chứng khoán
muốn trở thành một nhân viên kinh doanh chứng khoán thì họ phải đáp ứng một số
tiêu chuẩn nhất định. Người môi giới trên thị trường chứng khoán Việt Nam, theo luật
chứng khoán số 70/2006/QH 11 của Quốc Hội về chứng khoán và thị trường chứng
khoán phải có giấy phép hành nghề do Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước cấp.

1.2.3 Vai trò của nghề môi giới chứng khoán



14
Nghề môi giới chứng khoán không chỉ là kết quả của quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường mà đồng thời nó còn có vai trò ngược lại là thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Vai trò này của nghề môi giới chứng
khoán được nhìn nhận trên khía cạnh sau:
1.2.3.1 Giảm chi phí giao dịch
Trên thị trường hàng hoá thông thường, người mua và người bán phải trực tiếp
gặp nhau để thẩm định chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả; điều này đòi hỏi
người mua và người bán mất rất nhiều thời gian cũng như tiền bạc và công sức để có
thể tìm được các đối tác và loại hàng hoá phù hợp với mục đích của mình. Trên thị
trường chứng khoán, cả người mua và người bán đều mua bán một loại hàng hoá đặc
biệt đó là chứng khoán. Chứng khoán là loại hàng hoá có giá trị chứ không có giá trị
sử dụng nên các nhà đầu tư không thể thẩm định được thông qua việc quan sát thông
thường như đối với các hàng hoá khác mà họ phải bỏ ra một chi phí khổng lồ để thu
thập và xử lý thông tin và các chi phí bỏ ra để tham gia các lớp học bổ sung kiến thức
về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các
hoạt động mua bán rất sôi động. Điều này khiến các nhà đầu tư phải thu thập thông tin
từ nhiều phương diện và xử lý một cách nhanh chóng các thông tin đó.
Sự xuất hiện của các nhà môi giới đã làm giảm chi phí thẩm định chất lượng của
các loại chứng khoán trên thị trường vì họ có thể thông qua lời tư vấn của các nhà môi
giới có thể lựa chọn cho mình những chứng khoán phù hợp. Còn đối với nhà phát hành
thì không phải mất quá nhiều chi phí để tìm nhà đầu tư mua loại chứng khoán mà mình
phát hành ra. Vì vậy, môi giới có vai trò lớn trong việc tiết kiệm chi phí.
1.2.3.2 Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường
Công ty môi giới chứng khoán và các nhân viên bán hàng của công ty, khi thực
hiện vai trò làm trung gian giữa người bán (nhà phát hành) và người mua (nhà đầu tư)
có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng
hóa và dich vụ. Có thể nói hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung
cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả

của quá trình đó, xét trong dài hạn là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm và dịch


15
vụ, nhờ đó đa dạng hóa được cơ cấu khách hàng, thu hút được càng nhiều nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng.
Có thể nhận thấy kết quả này không chỉ trong những hàng hóa đơn lẻ như cổ
phiếu, trái phiếu, hay bất kỳ một công cụ tài chính nào khác, mà còn trong cả những ý
tưởng về danh mục đầu tư, về sự phối hợp các sản phẩm nhằm vào những lợi ích nhất
định… Chẳng hạn, ngày nay hàng hóa trái phiếu đã được đa dạng hóa tới mức không
có một trái phiếu nào chỉ có những đặc trưng cơ bản của loại công cụ này (thời hạn,
mệnh giá và lãi suất cuống phiếu) mà không được kèm theo những đặc tính bổ sung,
như trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ
thông, trái phiếu kèm theo quyền mua lại hoặc bán lại, trái phiếu có bảo đảm hoặc
không có bảo đảm… tùy theo nhu cầu cụ thể của các bên tham gia vào từng giao dịch.
Trong thị trường mới nổi, hàng hóa và dịch vụ còn nghèo nàn đơn điệu, nếu được
tổ chức phát triển tốt, nghề môi giới chứng khoán có thể góp phần cải thiện được môi
trường này. Môi trường đầu tư đa dạng về sản phẩm với phí dịch vụ thấp đáng sẽ thu
hút được nguồn vốn nhàn rỗi cho tăng trưởng và có lợi nhuận thỏa đáng.
Bên cạnh đó, tùy vào sự phát triển của thị trường mà xuất hiện các loại sản phẩm
khác như: Hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai… Hỗ trợ tốt hơn cho sản phẩm trên
thị trường, đồng thời góp phần giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư. Nhưng để sử dụng
sản phẩm này một cách có hiệu quả tốt nhất nhà đầu tư cần có sự nhạy bén trong việc
dự đoán sự lên xuống của giá cả các chứng khoán trên thị trường. Điều này một mặt
tạo ra sự phong phú của các loại hàng hoá trên thị trường, đồng thời biểu hiện thị
trường chứng khoán đang ở giai đoạn nào của sự phát triển.
1.2.3.3 Cải thiện môi trường kinh doanh
 Góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư: Hoạt động của công ty môi giới và
nhân viên môi giới chứng khoán một khi đã thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng doanh
nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên cái gọi là

một nền văn hóa đầu tư. Những đặc trưng chủ yếu của một nền văn hóa đầu tư là:
-

Ý thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng


16
-

Thói quen và kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư, mà phổ biến là dịch

vụ môi giới chứng khoán
-

Môi trường pháp lý, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật

 Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh: Để thành công trong
nghề môi giới chứng khoán, điều quan trọng là từng công ty môi giới và từng người
môi giới phải thu hút được nhiều khách hàng tìm đến, giữ chân được những khách
hàng đã có và ngày càng gia tăng được khối lượng tài sản khách hàng ủy thác cho họ
quản lý.
 Hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và làm
phong phú thêm cho môi trường đầu tư: Với phương thức hoạt động tìm đến khách
hàng, đặc biệt là những khách hàng cá nhân và đem đến cho họ những dịch vụ tài
chính tốt nhất, nên công ty chứng khoán nào cũng có lực lượng những người bán hàng
rất đông đảo.
1.2.4 Các kỹ năng của người môi giới
Thành công của công ty chứng khoán với hoạt động môi giới phụ thuộc vào sự
tinh thông nghiệp vụ cá nhân của lực lượng người môi giới trong công ty. Theo một số
kết quả điều tra người ta cho rằng: Sự thành công của 20% nhà môi giới hàng đầu,

những người đã chiềm lĩnh tới 80% tổng nguồn thu của công ty. Để đạt được những
thành công này các nhà môi giới chuyên nghiệp cần phải có những kỹ năng cơ bản
như sau:
 Kỹ năng truyền đạt thông tin: Người môi giới trao đổi với khách hàng của
mình thường xuyên và liên tục về nguồn thông tin thị trường cập nhật được. Khách
hàng tiếp cận thông tin đó khác nhau, có sự phản hồi khác nhau. Điều này là do có
nhiều nhà đầu tư nhận thức rằng người môi giới đơn thuần chỉ là người bán hàng với
mục tiêu duy nhất là kiếm được tiền từ khách hàng; hay người môi giới đã truyền đạt
được rõ ràng những điều cần thiết, cũng có thể chưa có sự đồng cảm giữa nhà môi giới
và khách hàng. Chính vì vậy, nhà môi giới muốn truyền đạt thông tin tốt cần nhờ vào
kỹ thuật sau:


17
- Thái độ quan tâm: Để thành công trong công việc, nhà môi giới phải đặt khách
hàng lên trên hết, doanh thu chỉ là thứ hai. Lợi ích của nhà môi giới gắn bó với lợi ích
của khách hàng nên thể hiện một sự quan tâm chân thành cũng không phải là điều quá
khó.
- Điều chỉnh giọng nói, cách biểu lộ cảm xúc sao cho phù hợp với từng khách
hàng, từng hoàn cảnh cụ thể, phải thể hiện được sự coi trọng khách hàng và những nhu
cầu của khách.
- Cần tạo sự tín nhiệm và lòng tin: Nhà môi giới cần phải nắm được những kỹ
thuật giao tiếp khiến cho khách hàng cảm nhận được một sự hòa đồng, đồng cảm và từ
đó dẫn đến sự tin cậy từ phía khách hàng đối với nhà môi giới.
 Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: Có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách
hàng. Tất cả các phương pháp đó đều có hiệu lực trong một khoảng thời gian nào đó,
đều liên quan tới nỗ lực và ý thức không ngừng tìm kiếm khách hàng của nhà môi giới,
đều có những lợi thế và bất lợi. Có những phương pháp tìm kiếm khách hàng thông
dụng như: Dựa vào những đầu mối do công ty xây dựng hoặc các tài khoản giao lại,
dựa vào nguồn khách hàng được giới thiệu tới, qua các chiến dịch viết thư, các cuộc

hội thảo, cuộc gọi điện thoại…
 Kỹ năng khai thác thông tin: Một trong những nguyên tắc của hoạt động môi
giới là phải hiểu khách hàng, nắm bắt nhu cầu tài chính, cách nghĩ, cách ra quyết định
đầu tư… Chính vì lẽ đó, nhà môi giới cần có kỹ năng khai thác thông tin, tìm hiểu về
khách hàng để thiết lập sự đồng cảm với khách hàng, phát hiện các nhu cầu, mục tiêu,
các vấn đề của khách hàng từ đó sắp xếp, xây dựng chiến lược riêng.
 Kỹ năng bán hàng: Tùy từng đối tượng khách hàng nhà môi giới có cách tiếp
cận riêng nhưng khi đã gặp gỡ hay trao đổi với khách hàng cần đưa ra giải pháp cho
vấn đề của khách hàng, giải thích rõ ưu và nhược điểm, những lợi ích thích hợp của
sản phẩm hay dịch vụ.
1.2.5 Quy trình nghiệp vụ môi giới của công ty chứng khoán


18
Quy trình nghiệp vụ là các bước công việc mà mỗi bộ phận, mỗi nhân viên phải
làm để thực hiện hoạt động của công ty. Mỗi công ty chứng khoán tuỳ theo yêu cầu,
đặc điểm riêng mà có quy trình nghiệp vụ môi giới khác nhau nhưng nhìn chung về
nội dung cơ bản có sự giống nhau. Cụ thể:
Tìm kiếm khách hàng: Bộ phận môi giới luôn xác định khách hàng của mình là
ai, đối tượng cần quan tâm đến như thế nào sau đó có thể chia thành từng nhóm để mỗi
nhân viên phụ trách riêng, tự tìm khách hàng riêng, khách hàng tiềm năng cho mình
hay cho công ty. Đối với công việc này thì hoạt động marketing, quảng cáo, tiếp thị
chiếm vị trí quan trọng.
Sàng lọc khách hàng, chọn ra khách hàng tiềm năng và cố gắng để tiếp xúc
với họ: Nhà môi giới lúc này có danh sách khách hàng mục tiêu trên tay với các nguồn
thông tin sơ bộ về tình hình tài chính, nhu cầu, mức độ quan tâm của họ tới thị trường
chứng khoán… Nhà môi giới sẽ phân loại, lựa chọn khách hàng tiềm năng nhất và tìm
cách để tiếp xúc và trao đổi với họ vì mỗi khách hàng có các yêu cầu riêng.
Tìm hiểu nhu cầu, mục tiêu tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro... của khách
hàng: Nhà môi giới cần có khả năng giao tiếp tốt, cần vận dụng linh hoạt các kỹ năng

nghề nghiệp của mình đặc biệt là khả năng khai thác thông tin thì mới có thể thành
công khi gặp gỡ khách hàng.
Khuyến nghị các dịch vụ đáp ứng cao nhất nhu cầu, mục tiêu của khách hàng:
Dựa trên cơ sở về mục tiêu tài chính, nhu cầu của khách hàng, dựa vào khả năng
truyền đạt thông tin, kỹ năng thuyết phục khách hàng của nhà môi giới để cung cấp
cho khách hàng dịch vụ. Tuy nhiên, khách hàng luôn nghi ngờ về những gì công ty
cung cấp bởi họ luôn nghĩ là không cần thiết với họ mà nhà môi giới cố lôi kéo họ sử
dụng để thu phí. Vì vậy, để làm tốt thì nhà môi giới cần thể hiện rõ mục tiêu làm việc
của mình là vì lợi ích cao nhất của khách hàng.
Cung cấp các dịch vụ khi khách hàng đã chấp nhận và những dịch vụ sau bán
hàng: Nhà môi giới mở tài khoản cho khách giao dịch, tư vấn hay đưa lời khuyến nghị
khách mua, bán chứng khoán kết hợp sử dụng các dịch vụ kèm theo của công ty. Nhà


19
môi giới còn theo dõi tài khoản cho khách, theo dõi diễn biến thị trường để đưa ra
những lời khuyến cáo hợp lý, chăm sóc khách hàng chu đáo.
Ngoài ra, nhân viên môi giới còn có các công việc khác như:
- Nhận lệnh giao dịch cho khách hàng
- Nhận, giao chứng khoán và tiền cho khách kể cả cổ tức, tiền do mua bán chứng
khoán, lưu ký chứng khoán…
- Theo dõi hoạt động của tài khoản, xử lý kế toán cho tài khoản tiền mặt thường
do kế toán giao dịch đảm nhiệm.
- Giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng, xử lý các khiếu nại.
- Nghiên cứu thị trường, phân tích, đưa ra các báo cáo khuyến nghị mua, bán,
cung cấp dịch vụ phù hợp.
Tuỳ theo quy mô hoạt động của công ty chứng khoán mà hoạt động môi giới này
lớn hay nhỏ nhưng nhìn chung đều được chú trọng. Nó có thể là một công ty con trong
tập đoàn tài chính hay công ty chứng khoán lớn, là một bộ phận nhỏ chỉ thực hiện
công việc đơn giản như nhận, nhập lệnh, xử lý yêu cầu của khách.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động môi giới của
công ty chứng khoán. Những nhân tố này xuất phát từ chính bản thân công ty, nó thúc
đẩy hay cản trở sự phát triển của hoạt động môi giới.
1.3.1.1. Nhận thức của ban lãnh đạo công ty về hoạt động môi giới
Hoạt động môi giới là “bề nổi”, là “bề mặt” của một công ty chứng khoán. Một
công công ty chứng khoán mà hoạt động môi giới không mạnh thì công ty không tạo
được chỗ đứng, danh tiếng, uy tín trên thị trường cho dù công ty kinh doanh có lãi từ
nhiều nguồn khác. Chính vì vậy, Ban lãnh đạo công ty cần xác định rõ được vai trò
của hoạt động môi giới. Từ đó xây dựng chiến lược phát triển, có các chính sách phù
hợp với yêu cầu của thị trường như cung cấp dịch vụ giá rẻ hay chất lượng cao, đào


20
tạo, tuyển dụng, lương thưởng cho nhân viên, tăng cường hoạt động kiểm soát… Mỗi
chính sách khác nhau sẽ ảnh hưởng tới hoạt động môi giới công ty chứng khoán là
khác nhau.
1.3.1.2 Yếu tố con người
Một công ty có đội ngũ nhân viên với số lượng phù hợp, chuyên môn cao, tận
tâm với công việc thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công. Người môi giới chứng
khoán không chỉ nắm kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội mà cả những kỹ năng
làm việc, những phẩm chất khác nữa. Hoạt động môi giới không chỉ đòi hỏi số lượng
lao động lớn hơn các hoạt động chứng khoán khác mà còn đòi hỏi về chất lượng, tư
cách đạo đức, tư cách làm việc… Tuy vậy không nhất thiết phải được đào tạo với bằng
cấp chuyên môn về chứng khoán nhưng đòi hỏi họ phải say mê chứng khoán, thích tìm
hiểu về chứng khoán và đặc biệt phải nắm vững thành thục bốn kỹ năng cơ bản. Vì
những kỹ năng đó họ thường xuyên vận dụng khi hành nghề. Công ty chứng khoán có
đội ngũ nhân lực mạnh tất yếu sẽ góp phần không nhỏ tạo nên thành công lớn.
1.3.1.3. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật

Hoạt động môi giới chứng khoán đòi hỏi rất lớn về hệ thống công nghệ thông tin:
máy tính, hệ thống mạng… phục vụ cho giao dịch và nghiên cứu, phân tích. Môi giới
chứng khoán tuy có thể môi giới tại bất cứ địa điểm nào nhưng nếu công ty chứng
khoán mà có cơ sở hạ tầng tốt, trụ sở đẹp thì thu hút được khách hàng, tạo nên sự
thành công.
1.3.1.4. Vốn
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có
vốn. Riêng kinh doanh chứng khoán thì ngoài các điều kiện về chuyên môn còn có
điều kiện về tài chính. Ở Việt Nam, quy định phải có số vốn tối thiểu là bằng vốn pháp
định. Đối với hoạt động của công ty môi giới chứng khoán vốn pháp định là 25 tỷ
đồng (theo luật chứng khoán số 70/2006/QH 11). Tuy nhiên, nếu công ty mà có nhiều
vốn đầu tư cho hoạt động này thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn nhiều. Bởi hoạt động
môi giới đòi hỏi khá nhiều chi phí hoạt động. Đó là:


21
- Chi phí cho máy móc thiết bị về công nghệ thông tin vì hệ thống giao dịch của
toàn thị trường diễn ra liên tục, thay đổi trên diện rộng. Hay máy móc phục vụ cho
tìm kiếm, phân tích thông tin…
- Chi phí đào tạo và duy trì đội ngũ nhân viên môi giới lành nghề.
- Chi phí nghiên cứu thị trường, khách hàng để xây dựng sản phẩm, dịch vụ
cung cấp cho phù hợp.
- Chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo, tìm kiếm khách hàng…
Ngoài ra vốn điều lệ cũng là một vấn đề bất cứ ai cũng quan tâm đến. Bởi vốn
lớn sẽ tạo niềm tin cho khách hàng là công ty hay hoạt động đó mới có thể thực hiện
tốt được, mới có thể mở rộng mạng lưới chi nhánh thu hút khách hàng. Khi nhà đầu
tư tìm đến với công ty có vốn lớn họ cũng kỳ vọng rằng nhu cầu của họ cũng được
đáp ứng hiệu quả nhất.
1.3.1.5. Sự phát triển của các hoạt động khác
Bất kỳ hoạt động nào cũng cần có sự hỗ trợ từ các hoạt động khác. Đối với lĩnh

vực chứng khoán cũng vậy, hoạt động môi giới không thể tách rời với các hoạt động
khác trong công ty. Hoạt động tiếp thị, tư vấn sẽ hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động môi
giới.
Bộ phận phân tích cũng có thể cung cấp nguồn thông tin đã qua xử lý cho nhân
viên môi giới hay có thể nghiên cứu những sản phẩm, dịch vụ mới cung cấp cho toàn
bộ môi giới để làm việc với khách hàng. Khách hàng đến với công ty nhiều phần lớn
là nhờ vào sản phẩm, dịch vụ cung cấp đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu của đông
đảo khách hàng. Vì vậy, hoạt động môi giới làm được tốt là nhờ vào các bộ phận khác.
Bên cạnh đó, hoạt động môi giới cũng tác động làm cho bộ phận khác phát triển.
Hoạt động môi giới sẽ chính là nơi cung cấp ý tưởng cho hoạt động nghiên cứu dịch
vụ mới. Bởi chính họ trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nhiều nhất, hiểu nhu cầu cũng
như mục tiêu của khách hàng. Như vậy, các hoạt động luôn tác động trở lại lẫn nhau
để tạo điều kiện cho nhau phát triển.
1.3.2. Nhân tố khách quan


22
Đây là những nhân tố tác động gián tiếp tới hoạt động môi giới mà công ty
chứng khoán không thể kiểm soát được, hầu hết các hoạt động môi giới trên thị trường
đều chịu tác động của nó. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng là khác nhau phụ thuộc vào
sự điều chỉnh của công ty.
1.3.2.1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán phát triển thì công ty chứng khoán, hoạt động môi giới
cũng phát triển theo. Thị trường phát triển thể hiện ở những mặt: hàng hóa phong phú,
đa dạng cả về mặt lượng lẫn mặt chất, số lượng nhà đầu tư tham gia trên thị trường
đông đảo, cơ cấu và tổ chức thị trường hoàn chỉnh… Thị trường có phát triển thì mới
có môi trường tốt cho môi giới phát triển, mới có cơ sở, nguồn thông tin phong phú
cho nhân viên môi giới cung cấp cho khách hàng, hoàn thành tốt công việc.
1.3.2.2 Hệ thống pháp luật
Pháp luật điều chỉnh mọi hoạt động. Đặc biệt, môi giới chứng khoán ngay từ bản

chất của nó đã thể hiện là nghề với những tranh chấp lợi ích không thể tránh khỏi. Bởi
hoạt động môi giới có ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều người, liên quan tới nhiều vấn
đề khó có thể nhìn nhận bằng mắt thường. Do đó, hoạt động này cần có sự điều chỉnh
lớn của hệ thống pháp luật, có sự nhất quán về các văn bản luật. Có như vậy thì hoạt
động môi giới hóa mới phát triển lành mạnh được.
1.3.2.3 Trình độ, sự hiểu biết về chứng khoán của công chúng đầu tư
Khi nhà đầu tư hiểu biết vể chứng khoán, về cách thức giao dịch, ưu và nhược
điểm của TTCK họ sẽ tham gia thị trường tích cực hơn. Họ sẽ tìm đến đầu tư chứng
khoán chứ không phải là loại hình đầu tư khác. Người môi giới cũng dễ dàng hơn khi
tìm kiếm khách hàng, khi tư vấn và giới thiệu về thị trường chứng khoán. Mặt khác,
khi nhà đầu tư có trình độ người môi giới có giải thích, tư vấn cũng sẽ được chấp nhận
một cách nhanh chóng, họ cũng dễ dàng tạo được sự đồng cảm ở nhau.
1.3.2.4 Sự cạnh tranh của các công ty chứng khoán khác
Các CTCK đều có nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Hoạt động này đã được triển
khai từ những ngày đầu của TTCK. TTCK cũng không chỉ cung cấp những hoạt động


23
thông thường như nhận lệnh của khách hàng mà còn cung ứng rất nhiều dịch vụ tiện
ích khác. Tất cả đều có sự cạnh tranh lẫn nhau: Về mức độ tiện ích, về chi phí để
hưởng dịch vụ, về sự đa dạng phong phú ở mỗi công ty… Khách hàng là một yếu tố có
giới hạn về số lượng. Khách hàng đã tìm đến công ty này sẽ không tìm đến công ty
khác nữa. Chỉ có trường hợp đặc biệt, khi dịch vụ không đáp ứng đủ các yêu cầu của
nhà đầu tư. Vì khi đã có mối quan hệ với các nhân viên môi giới tại công ty đó họ ngại
phải đặt lại mối quan hệ tại công ty mới. Do đó, hoạt động môi giới của TTCK luôn
không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng để cạnh tranh với các công ty khác.
1.3.2.5 Các nhân tố khác
Bên cạnh ảnh hưởng của những nhân tố trên, hoạt động môi giới của CTCK còn
chịu sự tác động của các yếu tố khác như hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước,
cơ quan quản lý thị trường, các hiệp hội chứng khoán, hiệp hội nhà đầu tư… Các chính

sách, quy định của mỗi tổ chức này cũng ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động môi giới.

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG
KHOÁN MB.

2.1 Khái quát về công ty cổ phần chứng khoán MB
2.1.1 Quá trình hình thành và một số thông tin cơ bản của MBS


24
2.1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển.
Thông tin sơ lược
Được thành lập từ tháng 5 năm 2000 bởi Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), với
tên gọi ban đầu là Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long (TLS), MBS là một
trong 5 công ty chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam. Sau 12 năm không ngừng phát
triển, MBS đã trở thành một trong những công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam.
Đặc biệt, trong các năm 2009 và 2010, TLS đã vươn lên dẫn đầu thị phần môi giới tại
cả hai sở giao dịch: Sở GDCK Hà Nội (HNX) và Sở GDCK TP. HCM (HSX).
Với thế mạnh là công ty thành viên trong Hệ thống MB, MBS liên tục vươn lên đạt
các mốc phát triển mới cả về quy mô và nghiệp vụ. Vốn điều lệ của MBS đã tăng dần
qua các năm từ 9 tỷ đồng lên 1.200 tỷ đồng. Tổng tài sản đạt gần 7.000 tỷ đồng, trở
thành một trong những công ty có quy mô tài sản lớn nhất hiện nay.
Từ hai nghiệp vụ đầu tiên là môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư, hiện nay MBS
đã triển khai đầy đủ các nghiệp vụ của một công ty chứng khoán bao gồm môi giới
chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bảo lãnh, tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư. Mạng
lưới chi nhánh và các phòng giao dịch của MBS đã được mở rộng và hoạt động có
hiệu quả tại nhiều thành phố trọng điểm. MBS đã thu hút và phát triển được một đội
ngũ trên 600 nhân sự năng động trong đó có hàng chục chuyên gia phân tích và hàng

trăm chuyên viên quan hệ khách hàng cá nhân (PCS) chuyên nghiệp được đào tạo bài
bản, có tư cách đạo đức tốt, không ngừng phấn đấu để cung cấp dịch vụ và các giải
pháp kinh doanh cho khách hàng với sự cẩn trọng, chuyên nghiệp và trách nhiệm cao
nhất

Một số thông tin chính về công ty.
Tên Tiếng Việt: Công ty Cổ phần Chứng Khoán MB
Tên Tiếng Anh: MB Securities Joint Stock Company
Tên viết tắt: MBS


25
Trụ sở chính: Tầng 7, tòa nhà số 03 Liễu Giai, Quận Ba Đình, TP Hà Nội
Điện Thoại: 043.7262600, Fax: 043.7262601
Website: www.mbs.com.vn
Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán số 005/GPHĐKD do Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước cấp ngày 11/05/2000.
Giấy phép bổ sung điều chỉnh sửa đổi số 85/GPDC-UBCK do UBCKNN cấp
ngày 07/05/2012.
Vốn điều lệ: 1221 tỷ đồng.
Lĩnh vực kinh doanh chính: Môi giới chứng khoán, Tự doanh chứng khoán, Tư
vấn đầu tư chứng khoán, Lưu ký chứng khoán.

Logo:

 Các mốc sự kiện quan trọng


Thành lập bởi Ngân hàng TMCP Quân Đội với vốn điều lệ 9 tỷ
đồng




Tăng vốn điều lệ lên 43 tỷ đồng



Khai trương Chi nhánh tại TP.HCM



Tăng vốn điều lệ lên 120 tỷ đồng



Cổ phần hóa



Tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng

Năm 2008



Tăng vốn điều lệ lên 420 tỷ đồng

Năm 2009




Tăng vốn điều lệ lên 800 tỷ đồng



Khai trương Chi nhánh Hải Phòng

Năm 2000
Năm 2003
Năm 2006
Năm 2007


×