Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Luận văn thạc sỹ Quản lý nhà nước đối với hoạt động của cụm công nghiệp bắc từ liêm, thành phố hà nội11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.48 KB, 117 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan luận văn thạc sỹ kinh tế:“Quản lý nhà nước đối với hoạt
động của cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội” là do em thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đỗ Thị Ngọc.
Các số liệu, tài liệu, dẫn chứng được sử dụng trong luận văn do chính em thu
thập, xử lý mà không có sự sao chép không hợp lệ nào.

Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2015
Học viên

Lưu Văn Minh


ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành chương trình cao học và luận văn này, bên cạnh
những nỗ lực của bản thân, em đã nhận được sự quan tâm, động viên, giúp đỡ tận
tình của các thầy cô, gia đình và bạn bè.
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc nhất tới Người hướng dẫn
khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Ngọc. Đồng thời, em xin được gửi lời cảm ơn chân
thành tới:
- Các thầy cô Khoa Sau đại học – Trường Đại Học Thương Mại
- Tập thể lãnh đạo, CBNV Trung tâm phát triển cụm công nghiệp Bắc Từ
Liêm, Phòng kinh tế quận Bắc Từ Liêm và BQL đầu tư xây dựng các cụm, điểm
CN, TTCN.
- Các cơ quan hữu quan, các nhà khoa học, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã
nhiệt tình ủng hộ, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình học tập và nghiên cứu, nhưng do
năng lực nghiên cứu còn hạn chế, luận văn chắc hẳn vẫn còn nhiều thiếu sót. Kính
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của Hội đồng Khoa học, quý thầy cô và


quý vị bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2015
Học viên

Lưu Văn Minh

MỤC LỤC


iii
Hình thức tổ chức....................................................................................................................41


iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình thức tổ chức....................................................................................................................41


v
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BQL
CCN
CNH-HĐH
FDI
GPMB
KCN
KCX
KCNC

KKT
KTTĐ
SXKD
SXCN
TTCN
UBND
WTO

Diễn giải
Ban quản lý
Cụm công nghiệp
Công nghiệp hoá – hiện đại hoá
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giải phóng mặt bằng
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Khu công nghệ cao
Khu kinh tế
Kinh tế trọng điểm
Sản xuất kinh doanh
Sản xuất công nghiệp
Trung tâm công nghiệp
Uỷ ban nhân dân
Tổ chức thương mại thế giới


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta sớm
trở thành nước có nền công - nông nghiệp hiện đại, xây dựng nền kinh tế hướng về
xuất khẩu, Đảng và Nhà nước ta đã xác định “phát huy nội lực, tranh thủ tối đa các
nguồn lực từ bên ngoài”. Mặt khác, nước ta xuất phát điểm là một nước có nền kinh tế
yếu kém, lạc hậu do hậu quả của cuộc chiến tranh và việc áp dụng cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp kéo dài, do cơ sở hạ tầng lạc hậu, thu nhập bình quân đầu người thấp,
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế không cao, tuy vậy, trong những năm trước mắt, chúng ta
vẫn phải dựa chủ yếu vào việc huy động các nguồn vốn từ các dự án trong nước.
Để thu hút đầu tư được tốt, khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp
được đánh giá là một nhân tố quan trọng, ở đó các công trình cơ sở hạ tầng được tập
trung đầu tư nhanh với tốc độ cao, hình thành các dịch vụ cần thiết và các thủ tục đáp
ứng được các yêu cầu của các nhà đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đây là
một mô hình thành công, nên áp dụng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Theo báo cáo Cục Công nghiệp địa phương, tính đến cuối tháng 12/2012, cả
nước đã có hơn 878 cụm công nghiệp được thành lập trên 58 tỉnh, thành phố và các
quận huyện của cả nước. Cụm công nghiệp đã thu hút được một số lượng lớn các dự
án đầu tư vào CCN với trên 7.300 dự án, với tổng số vốn đầu tư trên 112.000 tỷ
đồng, giải quyết hơn 460 nghìn công ăn việc làm, nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Chỉ riêng tại địa bàn thành phố Hà Nội, tính đến năm 2010 Hà Nội đã xây dựng
và triển khai được 33 CCN với diện tích 2072 ha (chiếm 79% diện tích quy hoạch).
Phát triển các CCN ở Hà Nội trong những năm vừa qua đã góp phần tích cực vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoại thành, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy đáng kể
tăng trưởng kinh tế xã hội và trở thành nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của thủ đô; các KCN, cụm công nghiệp của Hà Nội chiếm 10% số
lượng và giá trị các khu, cụm công nghiệp của cả nước; tạo ra trên 40% giá trị sản
lượng công nghiệp toàn thành phố, trên 45% kim ngạch xuất khẩu, 20% GDP của


2


thành phố, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của thành phố theo
hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, bước đầu tạo dựng hệ thống hạ tầng xã hội
phục vụ nhu cầu của công nhân tại các KCN, cụm công nghiệp.
Sự hình thành và phát triển các cụm công nghiệp trong những năm gần đây đã
mở ra hướng đi mới cho phát triển công nghiệp nhỏ và vừa của thủ đô cũng như cả
nước, góp phần giúp chúng ta cải cách hành chính, đổi mới cơ chế quản lý, giảm
thiểu mức tối thiểu phiền hà, phức tạp cho các DN vừa và nhỏ trong việc mở rộng
đầu tư cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội thời gian qua đã bộc lộ những bất cập về một số vấn đề có liên quan đến hoạt
động quản lý nhà nước. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối
với hoạt động của cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội” cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Các cụm công nghiệp là những tụ điểm nóng về phát triển kinh tế - xã hội.
Thuật ngữ CCN xuất hiện từ khá lâu trong lịch sử và tồn tại ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về CCN nói chung, CCN Bắc Từ Liêm
nói riêng đã sớm thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước.
Cho đến nay, khá nhiều công trình, bài viết cả về nghiên cứu học thuật và tổng kết
thực tiễn có liên quan đến cụm công nghiệp đã ra mắt bạn đọc; thêm vào đó là nhiều
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác QLNN đối với CCN được ban
hành. Những bài viết, công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan tới CCN Bắc Từ
Liêm và QLNN đối với hoạt động của CCN như:
- Công trình “Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách”
do Lê Chi Mai nghiên cứu và ra mắt bạn đọc năm 2001, xuất bản tại nhà xuất bản
Trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Công trình đã dành phần lớn
nghiên cứu, giới thiệu một số nội dung chính liên quan đến khái niệm chính sách
công và các bước hoạch định chính sách công.
- “Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công” do Nguyễn Hữu

Hải hoàn thành năm 2004 và xuất bản tại nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.


3

Giáo trình chủ yếu đề cập tới một số lý luận cơ bản về khoa học chính sách và quy
trình chính sách công nói chung, trong đó có liên hệ với thực tiễn Việt Nam.
- Bài viết của PGS,TS. Vũ Văn Phúc và TS. Trần Thị Minh Châu về “Các
khu công nghiệp tập trung và vai trò của nó trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
ở Việt Nam” được đăng trên Tạp chí Kinh tế Châu á – Thái Bình Dương số
12,13,14 năm 2004. Bài viết đã có cái nhìn tổng quan, sâu sắc về quá trình hình
thành và phát triển của các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam. Đồng thời, bài
viết cũng có những đánh giá chân thực về vai trò của các khu công nghiệp tập trung
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
- Bài viết “Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” do Bộ kế hoạch và đầu tư biên soạn. Bài viết
được đăng trên Tạp chí cộng sản - Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đồng Nai tháng
11/2004. Bài viết đã phân tích thực trạng phát triển các khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển của của KCN, KCX đặt trong những thời
cơ và thách thức của lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, một số đề tài tiêu biểu dưới dạng luận án tiến sỹ và luận văn thạc
sĩ nghiên cứu vấn đề này như:
- Đề tài “Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với Khu công nghiệp ở Việt
Nam” do Nguyễn Xuân Trình nghiên cứu và cho ra mắt bạn đọc năm 1994. Đề tài
đã đi sâu nghiên cứu các nội dung quản lý nhà nước như: hoàn thiện môi trường đầu
tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp, phát triển hạ tầng khu công
nghiệp và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp.
- Đề tài “Hoàn thiện chính sách và mô hình tổ chức quản lý nhà nước đối với
việc phát triển khu công nghiệp Việt Nam (thông qua thực tiễn các khu công nghiệp
miền Bắc)” do Lê Hồng Yến thực hiện và hoàn thành năm 2007. Đề tài đã giới

thiệu tổng quan lý luận ban hành và thực thi chính sách, mô hình tổ chức quản lý
nhà nước với việc phát triển khu công nghiệp Việt Nam. Từ những lý luận đó, đề tài
đã đi sâu hơn trong việc phân tích thực trạng về chính sách và mô hình tổ chức quản
lý nhà nước đối với các khu công nghiệp miền Bắc và đưa ra những quan điểm và


4

giải pháp cơ bản hoàn thiên chính sách và mô hình tổ chức quản lý nhà nước, góp
phần phát triển các khu công nghiệp Việt Nam.
- Đề tài “Hoàn thiện hoạch định chính sách đầu tư phát triển khu công
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” do Lê Tuấn Dũng thực hiện và hoàn thành
năm 2009. Tác giả đề tài đã có những nghiên cứu khá sâu sắc về chính sách đầu tư
phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam và quy trình hoạch định chính sách đầu tư
phát triển khu công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2008. Tác giả đề tài cũng đã làm
rõ nội hàm khái niệm chính sách đầu tư phát triển khu công nghiệp theo hướng bền
vững, xác định vai trò của hoạch định chính sách đầu tư phát triển khu công nghiệp
và những nội dung cơ bản của quy trình hoạch định chính sách đầu tư phát triển khu
công nghiệp. Từ thực tiễn hoạch định chính sách của một số nước và vùng lãnh thổ
trong khu vực, tác giả đề xuất phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện hoạch
định chính sách đầu tư phát triển khu công nghiệp Việt Nam thời gian tới.
Ngoài những công trình, bài nghiên cứu tiêu biểu trên, nghiên cứu về CCN,
QLNN đối với hoạt động của CCN và các nghiên cứu liên quan còn có một số công
trình khác có thể kể ra đây như:
- Công trình“Tài nguyên thiên nhiên môi trường và phát triển bền vững ở
Việt Nam” do GS,TS Trần Văn Chử nghiên cứu, hoàn thành năm 2006 và xuất bản
thành ấn phẩm tại Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bài nghiên cứu “Tổng quan về hoạt động của các khu công nghiệp” của Vũ
Huy Hoàng hoàn thành năm 2007, được đăng trên Kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế
xuất Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

- Trần Hồng Kỳ nghiên cứu đề tài “Phát triển KCN, KCX gắn liền sự hình
thành, phát triển đô thị công nghiệp – Kinh nghiệm một số nước châu Á và vận
dụng vào Việt Nam”, hoàn thành năm 2008 tại Bộ GD &ĐT.
- Bài viết“Chính sách thương mại và công nghiệp nhằm phát triển bền vững
công nghiệp Việt Nam” của Tiến sỹ Nguyễn Thị Hường thực hiện năm 2009 trong Báo
cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.


5

-

Đề tài “Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc

Giang” do Hà Thị Thúy thực hiện và hoàn thành năm 2010 tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề tài “Chính sách quản lý các khu, cụm công nghiệp ở Bắc Ninh” do Lê
Thị Hoa nghiên cứu và hoàn thành năm 2013 tại đại học Thương Mại, Hà Nội.
- Đề tài “Chính sách quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp thành phố Hà
Nội” do Nguyễn Minh Thi thực hiện và ra mắt bạn đọc năm 2014 tại đại học Thương Mại,
Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình trên tập trung nghiên cứu, đánh giá các hoạt động sản
xuất kinh doanh và thu hút đầu tư vào các KCN, CCN, đồng thời đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách QLNN đối với các KCN, CCN trên phạm vi
tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một khu vực, một tỉnh. Nhiều công trình là bài viết,
bài nghiên cứu hay là ấn phẩm khoa học được xuất bản thành sách, tuy nhiên, xét tới
thời điểm hiện tại thì chưa có nghiên cứu về cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm cũng như
vấn đề QLNN đối với hoạt động của CCN Bắc Từ Liêm, do vậy, đề tài của em nhằm
mở rộng hơn phạm vi nghiên cứu để có những kết quả so sánh với các CCN tương

đương cấp quận khác đã được nghiên cứu hoặc thử sử dụng phương pháp mà các tác
giả khác đã sử dụng với khách thể nghiên cứu mới là cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
•Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là nhằm đề xuất một số giải pháp tăng
cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm.
• Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và phát triển một số cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với
các cụm công nghiệp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của cụm
công nghiệp Bắc Từ Liêm;
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
của cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm.
4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


6

• Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung và cách thức
triển khai việc quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm, thành phố
Hà Nội.
• Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu việc tổ chức triển khai các kế
hoạch, chiến lược, các quy định của nhà nước về quản lý cụm công nghiệp của các
cơ quan chức năng thuộc chính quyền quận Bắc Từ Liêm.
- Về không gian: Địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
- Về thời gian: Thực trạng QLNN đối với hoạt động của CCN Bắc Từ Liêm
trong giai đoạn từ 2010 – 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,

vận dụng các phương pháp phân tích, khái quát hóa, tổng hợp hóa các vấn đề thực
tiễn để rút ra những kết luận khách quan, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
• Phương pháp thu thập dữ liệu
- Dữ liệu thứ cấp: được thu thập từ các báo cáo tổ chức thực hiện, các dữ liệu
thống kê liên quan đến các kết quả quản lý, các hồ sơ quản lý nhà nước đối với cụm
công nghiệp Bắc Từ Liêm…
- Thu thập dữ liệu sơ cấp:
+ Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp trong CCN
và các nhà quản lý CCN.
+ Phương pháp quan sát: Tác giả sẽ tiến hành quan sát quá trình hoạt động của
CCN Bắc Từ Liêm, cách thức và phương thức tổ chức, điều hành CCN của Trung
Tâm phát triển CCN Bắc Từ Liêm.
• Phương pháp phân tích dữ liệu


7

Đề tài chủ ý sử dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích các dữ liệu thứ
cấp và sơ cấp đã thu thập được rồi so sánh, khái quát, đánh giá để đưa ra những kết
luận nghiên cứu phù hợp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Việc nghiên cứu thành công đề tài này góp phần tăng cường hơn hoạt động
quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp trên địa bàn cấp quận nhờ việc đánh giá,
phát hiện những kết quả đạt được cần phát huy, những hạn chế cần khắc phục, điều
chỉnh để tăng cường hiệu lực và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động của các cụm công nghiệp trên cả nước, góp phần thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận văn có kết

cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với cụm
công nghiệp
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
của cụm công nghiệp Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

CHƯƠNG 1


8

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI CỤM CÔNG NGHIỆP
1.1 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp
1.1.1 Một số khái niệm và thuật ngữ
1.1.1.1 Khái niệm về cụm công nghiệp
Cụm công nghiệp là một khái niệm khá quen thuộc, đã xuất hiện nhiều trong
nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, do những cách tiếp cận khác nhau, do những sự
khác biệt về trình độ nền sản xuất công nghiệp cũng như các điều kiện kinh tế xã
hội, đã dẫn tới có nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về cụm công nghiệp.
Theo quan điểm của Michael E. Porter, “Cụm công nghiệp là nơi tập trung về
mặt địa lý của các công ty và các thể chế có quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau trong
một lĩnh vực nào đó, ở một cụm vực đia lý có lợi thế cạnh tranh khác thường về lĩnh
vực đó”. Như vậy, quan điểm của M. Porter cho rằng cụm công nghiệp là nơi hội tụ
những DN có quan hệ mật thiết và liên đới với nhau trong cạnh tranh, hoặc được mở
rộng thành những DN cung cấp những sản phẩm bổ sung cho nhau. M. Porter kết luận,
để phát huy lợi thế cạnh tranh, các DN hỗ trợ nên định vị gần nhau thành các cụm công
nghiệp hỗ trợ chuyên ngành, hoặc những ngành sản xuất rất gần nhau về công nghệ, về

nhu cầu lao động, từ đó hình thành nên các cụm công nghiệp.
Trên thực tế, cụm công nghiệp là cụm vực tập trung các DN, cơ sở sản xuất
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; được
đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các DN
nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh;
do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) quyết định thành lập. Cụm công nghiệp hoạt động theo
quy chế và các quy định của pháp luật liên quan.
Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 (năm mươi) ha. Trường
hợp cần thiết phải mở rộng cụm công nghiệp hiện có thì tổng diện tích sau khi mở


9

rộng cũng không vượt quá 75 (bẩy mươi lăm) ha. Như vậy, xét về quy mô diện tích
thì cụm công nghiệp có quy mô trong khoảng 50ha đến 75ha.
Xét về loại hình, cụm công nghiệp có một số loại hình sau:
- Cụm công nghiệp tổng hợp (đa ngành): Là cụm công nghiệp được hình thành
trên địa bàn các huyện, thành phố, thường do UBND cấp huyện thực hiện đầu tư và
quản lý phát triển, nhằm thu hút đầu tư của các cơ sở sản xuất công nghiệp trong và
ngoài địa phương. Cũng có một số cụm công nghiệp tổng hợp do một vài cơ sở sản
xuất tự nguyện góp vốn, thành lập ban quản lý và triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng
chung phù hợp với quy hoạch chi tiết đã được duyệt.
- Cụm công nghiệp đơn ngành: Là cụm công nghiệp thường do một DN vừa
hoặc lớn thuê diện tích cả cụm, tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và nhà máy
bao gồm nhiều nhà máy hoặc nhiều phân xưởng sản xuất thuộc DN như: cụm công
nghiệp ô tô Đồng Vàng (Việt Yên); cụm công nghiệp Đoan Bái - Lương Phong
(Hiệp Hoà); cụm công nghiệp Tân Dân (Yên Dũng)…
- Cụm công nghiệp làng nghề: Đây là mô hình cụm công nghiệp tập trung quy
mô nhỏ, mục tiêu là phục vụ việc di dời các cơ sở sản xuất của làng nghề, xã nghề ở

ngay tại địa phương, nhằm mở rộng mặt bằng sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường của làng nghề. Các cụm công nghiệp làng nghề hầu như không có sự hiện
diện của DN ngoài làng nghề.
Ngoài ra có loại hình điểm công nghiệp, được hình thành tại một số địa
phương miền núi, có công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển. Đó là ở
một số khu vực có vị trí địa lý thuận lợi, địa phương khoanh vùng với diện tích
không lớn (2-3 ha) thu hút nhà đầu tư vệ tinh và dự kiến trong tương lai có thể mở
rộng, phát triển thành cụm công nghiệp.
1.1.1.2 Khái niệm quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp
• Khái niệm về quản lý
Theo “Đại Từ điển tiếng Việt” thì “quản lý” được hiểu: “1. Tổ chức, điều
khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan”, “2. Trông coi, giữ gìn và theo
dõi việc gì”. “Từ điển bách khoa Việt Nam 3”, “quản lý” lại được hiểu là “chức


10

năng và hoạt động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ
thuật, xã hội), bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động
tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó”.
Như vậy, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau tuỳ theo góc
độ tiếp cận. Theo nghĩa chung, quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể vào
các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra. Theo điều
khiển học, “quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ
vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá
trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích
đã định trước”.
Các Mác đã viết: “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội
của quá trình lao động” và để nhấn mạnh nội dung này, ông viết: “Tất cả mọi lao động
xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít

nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình,
còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.”
Luận điểm trên của Mác có thể áp dụng với mọi hoạt động chung của con người,
ở đâu có sự hiệp tác của con người thì ở đó cần có quản lý, quản lý tồn tại trong mọi
quan hệ xã hội, ở bất cứ lĩnh vực nào và trong bất cứ giai đoạn phát triển nào, bởi vì
hoạt động chung của nhiều người đòi hỏi phải được liên kết lại dưới nhiều hình thức.
Một trong những hình thức liên kết quan trọng là tổ chức, tổ chức là yếu tố quyết định
đem lại hiệu quả cho quản lý, không có tổ chức thì không có quản lý. Mặt khác, quản
lý để duy trì tính tổ chức, mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội,
nhằm đạt được mục tiêu nhất định.
Minh chứng cho điều này, Lênin đã viết: “Muốn quản lý tốt mà chỉ biết thuyết phục
không thôi thì chưa đủ, mà cần phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa”.
Để điều khiển, phối hợp hoạt động của những con người thì cần có những
phương tiện buộc con người phải hành động theo những nguyên tắc nhất định, phải
phục tùng những mệnh lệnh nhất định. Cơ sở của sự phục tùng là uy tín hoặc quyền


11

uy, uy tín đóng vai trò là cơ sở quan trọng của sự phục tùng nhưng quyền uy vẫn là
cơ sở chủ yếu. Quyền uy là phương tiện rất quan trọng để chủ thể quản lý buộc đối
tượng quản lý phải phục tùng, là yếu tố không thể thiếu của quản lý.
Tóm lại, qua những phân tích nêu trên và dựa vào các tài liệu đã được công bố, ta
có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào đối tượng
quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện, cơ chế khác nhau, nhằm đạt được mục
tiêu quản lý đã đặt ra, phù hợp với quy luật vận động khách quan của xã hội.
• Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là một nội dung trong quản lý xã hội, là quản lý xã hội mang
quyền lực nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Theo nghĩa rộng,

quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và
tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Theo nghĩa
hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính
nhà nước nhằm bảo đảm chấp hành pháp luật và các nghị quyết của các cơ quan quyền
lực nhà nước để tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, nói cách khác, quản lý nhà
nước là hoạt động chấp hành - điều hành của nhà nước.
Từ khi xuất hiện nhà nước thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước
đảm nhiệm, tức là nhà nước đứng ra quản lý những quan hệ xã hội cơ bản nhất, bao
trùm nhất của đời sống xã hội, đó chính là quản lý nhà nước. Cùng với chủ thể quản lý
đặc biệt là nhà nước, tham gia vào quản lý xã hội còn có một số chủ thể khác như các tổ
chức xã hội, tổ chức tôn giáo..., tuy nhiên, đối tượng và phạm vi điều chỉnh nhỏ hẹp hơn
nhiều. Vì thế có thể coi quản lý xã hội là một khái niệm bao hàm quản lý nhà nước và
quản lý phần công việc còn lại của xã hội.
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội do nhà nước thực hiện bằng bộ máy nhà
nước, gắn với quyền lực nhà nước. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi phụ
thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua
các giai đoạn lịch sử. Quản lý nhà nước xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thông qua ba hoạt động đặc thù này mà quản lý
nhà nước có những điểm khác biệt so với quản lý xã hội khác, cụ thể là:


12

- Quản lý nhà nước chỉ xuất hiện khi nhà nước xuất hiện. Khi nhà nước xuất
hiện thì phần quan trọng các công việc của xã hội do nhà nước quản lý.
- Pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý nhà nước. Bằng pháp luật, nhà
nước có thể trao quyền cho các tổ chức hoặc các cá nhân để họ thay mặt nhà nước
tiến hành hoạt động quản lý nhà nước.
- Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hay cá nhân mang quyền lực
nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý nhà nước

bao gồm: Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được nhà nước trao
quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước (hay nói cách khác là thực hiện các
chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp).
- Khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước, trật tự này do
pháp luật quy định.
Từ những điểm khác biệt đã nêu trên, ta có thể hiểu: Quản lý nhà nước là sự
tác động có mục đích, chủ yếu bằng pháp luật, của các tổ chức, cá nhân mang
quyền lực nhà nước lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội,
đối ngoại của nhà nước.
• Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế
Nhà nước ra đời cùng với chức năng quản lý, lúc đầu là quản lý xã hội, quản
lý hành chính, bảo đảm trật tự an ninh, dần dần chuyển sang quản lý kinh tế. Vai trò
quản lý kinh tế của nhà nước ngày càng tăng lên theo sự phát triển quy mô và trình
độ của nền kinh tế, và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt động của
quản lý nhà nước.
QLNN về kinh tế là một tất yếu khách quan của mọi quốc gia, không kể chế
độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước cũng bắt nguồn từ
kinh tế. Ngày nay cạnh tranh giữa các quốc gia cũng là cạnh tranh về tiềm lực kinh
tế.Vấn đề quan trọng là mỗi nhà nước phải xác định được phạm vi, mức độ, vai trò
của mình trong QLKT sao cho phù hợp với bản chất và định hướng chính trị, đồng
thời có kỹ năng để thể hiện vai trò của mình trên thực tế.


13

Quản lý nhà nước về kinh tế chính là sự tác động của hệ thống quản lý hay chủ thể
quản lý (nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (nền kinh tế) nhằm
hướng sự vận hành của nền kinh tế theo các mục đích đặt ra.
• Khái niệm quản lý nhà nước về cụm công nghiệp
Như vậy, quản lý nhà nước về cụm công nghiệp cũng được hiểu là sự tác động

của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay
khách thể quản lý (cụm công nghiệp) nhằm hướng sư vận hành của cụm công
nghiệp theo mục đích đã đề ra.
1.1.1.3 Một số thuật ngữ liên quan
1. Đơn vị kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp (sau đây gọi là đơn vị kinh doanh
hạ tầng): là các DN, tổ chức, cá nhân được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật Việt Nam hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam
trực tiếp đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng cụm công nghiệp. Trong
trường hợp cụm công nghiệp dự kiến thành lập, mở rộng không có đơn vị kinh doanh
hạ tầng thì có thể thành lập Trung tâm phát triển cụm công nghiệp.
2. Hạ tầng cụm công nghiệp bao gồm hệ thống đường nội bộ, hệ thống cấp
nước, thoát nước, xử lý nước thải, chất thải, cấp điện, chiếu sáng công cộng, thông
tin liên lạc nội bộ, nhà điều hành, bảo vệ và các công trình khác phục vụ hoạt động
của cụm công nghiệp.
3. Doanh Nghiệp sản xuất, kinh doanh trong cụm công nghiệp (sau đây gọi là
DN): là DN, hợp tác xã, tổ hợp tác được thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam; cá nhân, hộ gia đình đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, thực
hiện đầu tư sản xuất, kinh doanh và các dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh trong
cụm công nghiệp.
4. Trung tâm phát triển cụm công nghiệp: Là đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu
trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, được thành lập để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị kinh doanh hạ tầng. Tổ chức, biên chế, kinh phí hoạt động của
Trung tâm phát triển cụm công nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật.


14

5. Diện tích đất công nghiệp là phần diện tích đất của cụm công nghiệp dành
cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
6. Tỷ lệ lấp đầy là tỷ lệ giữa diện tích đất công nghiệp đã được thuê hoặc đăng

ký thuê trên tổng diện tích đất công nghiệp.
7. Giá cho thuê lại đất có hạ tầng kỹ thuật: là đơn giá tính theo m2 bao gồm chi phí
phần đất đầu tư cho cơ sở hạ tầng trong cụm công nghiệp và giá thuê đất nguyên thổ theo
quy định của Ủy ban nhân dân thành phố tại địa bàn đóng cụm công nghiệp.
8. Phí quản lý: là kinh phí để duy tu, bảo dưỡng hạ tầng kỹ thuật cụm công
nghiệp mà DN cụm công nghiệp có trách nhiệm đóng hàng năm cho DN đầu tư xây
dựng hạ tầng kỹ thuật. DN quản lý, khai thác hạ tầng kỹ thuật theo hợp đồng đã kí kết.
9. Suất đầu tư: là chi phí đầu tư xây dựng 1m2 đất có đủ hạ tầng kỹ thuật theo quyết
định đầu tư của Ủy ban nhân dân thành phố để cho DN thuê trong cụm công nghiệp.
10. Chi phí để tính suất đầu tư bao gồm các khoản kinh phí: chuẩn bị đầu tư,
giải phóng mặt bằng, xây dựng các hạng mục hạ tầng kỹ thuật (san nền, đường, hệ
thống cấp thoát nước và xử lý nước thải, chiếu sáng, hàng rào, cây xanh, nhà điều
hành và các hạng mục khác, trừ khoản kinh phí được thành phố hỗ trợ ghi rõ trong
quyết định đầu tư).
11. Diện tích đất để tính suất đầu tư là toàn bộ diện tích đất các DN được thuê
trong cụm công nghiệp (bao gồm cả diện tích đất để xây dựng nhà xưởng cho thuê
hoặc công trình phụ trợ để kinh doanh, không tính phần diện tích đất sử dụng chung
như: đường, hè đường, thoát nước, hàng rào chung cụm công nghiệp, trạm điện, cụm
xử lý nước thải, nhà điều hành và các hạng mục công cộng khác).
12. Đơn vị quản lý hoạt động CCN là các tổ chức, DN có tư cách pháp nhân,
có năng lực tổ chức, quản lý và thực hiện các dịch vụ được cấp có thẩm quyền giao
nhiệm vụ quản lý hoạt động của cụm công nghiệp.
1.1.2 Đặc điểm của cụm công nghiệp
Qua một số khái niệm về cụm công nghiệp đưa ra ở trên, có thể thấy có khá
nhiều quan đểm khác nhau về cụm công nghiệp, nhưng nhìn chung các quan điểm
đều có chung một số đặc điểm chính về cụm công nghiệp như sau:


15


1.1.2.1 Tập trung về mặt địa lý
Cụm công nghiệp là một khi vực với quy mô nỏ bao gồm nhiều DN tập trung sản
xuất các mặt hàng có liên quan với nhau, nhờ có tính tập trung, dẫn đến các DN tiết
kiệm được các chi phí trong sản xuất và chi phí quản lý. Ngoài ra sự tập trung theo địa
lý của các DN cũng được tiếp kiệm đáng kể, tạo ra các thể chế thúc đẩy sự hình thành
và phát triển các mối quan hệ giữa các DN trong cùng một địa điểm. Đồng thời, tạo ra
một mạng lưới các nhà cung cấp mang lại sự đổi mới và lợi ích chung cho các DN
trong cụm công nghiệp.
1.1.2.2 Có tính chuyên môn hoá
Thông thường, các cụm công nghiệp được hình thành để sản xuất và cung ứng
những sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm tương tự như nhau. Trong đó cũng có thể bao
gồm các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp và ngành công nghiệp phụ trợ cho các
ngành này. Chính vì vậy, các cụm công nghiệp thường mang tính chuyên môn hóa
cao. Trong cụm công nghiệp, việc chuyên môn hoá vào một ngành nghề không
những tiết kiệm được chi phí sản xuất, gia tăng tổng mức hàng hoá, dịch vụ mà còn
nâng cao hiệu quả công tác quản lý, đội ngũ lao động; sản phẩm sản xuất ra bảo
đảm chất lượng, tạo vị trí của cụm công nghiệp trong nền kinh tế.
1.1.2.3 Các DN có mối liên kết với nhau
Theo tiêu chí của cụm công nghiệp thì các DN trong cụm công nghiệp sản
xuất các sản phẩm phải tương đồng hoặc có liên quan tới nhau, đây là lợi thế vừa
tạo ra thị trường chung vừa gia tăng chất lượng sản phẩm.
1.1.2.4 Tạo cơ sở hạ tầng đồng bộ
Các cụm công nghiệp đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện, nước, thông tin
liên lạc… tạo điều kiện cho việc liên kết, kết nối, vận tải, thông tin liên lạc, các yếu
tố đầu vào của các DN. Rõ rang, yếu tố cơ sở hạ tầng hiện đại và đồng bộ là yếu tố
gắn liền với sự phát triển của cụm công nghiệp.


16


1.1.3. Vai trò của các cụm công nghiệp với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
Cùng với các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp ra đời và hoạt
động ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp nói riêng
và phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên phạm vi toàn tỉnh và các địa phương
khác, cụ thể:
Một là, các cụm công nghiệp đã tạo ra nền tảng để huy động được lượng vốn
đầu tư của các thành phần kinh tế trên địa bàn trong nước và ngoài nước phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hoá của tỉnh.
Hai là, sự phát triển của CCN góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tăng trưởng kinh tế của tỉnh, của từng địa phương theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Các cụm công nghiệp có tác dụng lan toả tích cực tới phát triển các ngành,
lĩnh vực của địa phương. Cụm công nghiệp cũng là một trong những nơi thu hút đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn; góp phần duy trì, phát triển ngành nghề truyền
thống, làng nghề cổ truyền, tạo điều kiện phát triển nghề mới tạo sự phong phú về
các sản phẩm của làng nghề.
Ba là, cụm công nghiệp góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm,
nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội.
Bốn là, phát triển các cụm công nghiệp tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng
công nghiệp mới, có giá trị lâu dài, đồng thời góp phần hiện đại hoá hệ thống kết
cấu hạ tầng trên địa bàn. Hơn nữa, các cụm công nghiệp sử dụng ngày càng hiệu
quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết trong phát
triển kinh tế.
Năm là, các cụm công nghiệp góp phần quan trọng vào việc bảo vệ cảnh quan
thiên nhiên, môi trường sinh thái.
1.1.4 Sự cần thiết và nguyên tắc quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp
1.1.4.1 Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp
Quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp là một tất yếu khách quan vì
những lý do:



17

- Quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp là một chức năng đặc thù của quản
lý nhà nước nói chung. Việc phát triển các cụm công nghiệp có mối quan hệ trực tiếp
tới sự phát triển công nghiệp của địa phương cũng như của cả nước nói chung. Đồng
thời, nó cũng chịu sự tác động, sự chi phối của nhiều yếu tố khác như luật pháp, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Do đó, nhà nước cần tiến hành quản lý quá trình hình thành và phát
triển của các cụm công nghiệp.
- Mục tiêu của DN là tối đa hóa lợi nhuận, do đó nhà nước cần sử dụng quyền
lực và sức mạnh của mình để điều tiết và khống chế những hành vi không có lợi của
DN đối với cộng đồng, khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị truờng, điều
chỉnh hoạt động của các DN trong cụm công nghiệp theo những mục tiêu đã định.
Bởi vậy, mục tiêu của hoạt động quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp là tạo
ra môi trường đầu tư hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
đầu tư, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành công nghiệp có hiệu
quả, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính quản lý nhà
nước đối với cụm công nghiệp vừa tạo điều kiện tối đa cho DN thực hiện mục tiêu
của họ, vừa hướng mục tiêu của DN vào việc thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của
phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp
phải nhằm thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư vào cụm công nghiệp, thực hiện cơ cấu
trong cụm công nghiệp phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Mặt
khác, quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp còn nhằm phát huy ưu điểm và
thế mạnh của mỗi cụm công nghiệp, thúc đẩy quá trình hợp tác giữa các DN trong
cụm công nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trong
nước. Đồng thời, quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp phải nhằm khai
thác được các lợi thế của phát triển công nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực, về tài nguyên thiên nhiên cũng như
các nguồn lực khác của nền kinh tế. Việc quản lý nhà nước đối với các cụm công
nghiệp còn nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các DN trong cụm công nghiệp,

đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các DN bên ngoài chuyển vốn vào hoạt động
kinh doanh cũng như triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh trong cụm công


18

nghiệp. Qua đó phát huy vai trò của từng DN cũng như của các cụm công nghiệp
đối với sự phát triển công nghiệp vừa và nhỏ.
- Thông qua việc ban hành các thể lệ, chính sách và giám sát thực thi các quy
định của pháp luật thì đồng thời nhà nước đã tạo ra môi trường thuận lợi để thúc
đẩy việc xây dựng, phát triển cụm công nghiệp, thực hiện thành công chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp là điều kiện cần thiết, góp phần
giúp cho các DN cụm công nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách tiết
kiệm và có hiệu quả, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, nhà nước
còn tạo điều kiện cho các DN phát triển mở rộng hợp tác với nhau thông qua việc
hình thành chuỗi cung ứng trong cụm công nghiệp. Chính công tác quản lý nhà
nước nhằm đảm bảo cho các cụm công nghiệp được phát triển theo quy hoặch đã
định, chủ động phối hợp mục đích riêng của từng DN nhằm đạt tới mục đích chung
của nền kinh tế.
1.1.4.2 Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp
Trước tiên cần khẳng định rằng quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp
không chỉ là các hoạt động quy hoạch, điều hành, kiểm soát sự phát triển của các
cụm công nghiệp mà còn bao hàm cả hoạt động khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển
của các cụm công nghiệp. Quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp bao gồm việc
tạo lập môi trường pháp lý ổn định và bình đẳng cho các DN, xác lập chính sách
khuyến khích đầu tư phát triển và biện pháp xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện cho các
DN phát triển, phối hợp đồng bộ trong việc cung cấp các nguồn nhân tài vật lực
đảm bảo thông suốt đầu vào và đầu ra cho DN. Việc quản lý nhà nước cũng phải
đáp ứng những yêu cầu sau:

- Chính sách, biện pháp đưa ra phải phù hợp với luật pháp và các yêu cầu của
xã hội. Một mặt phải bảo đảm kỉ cương, tuân thủ những giá trị đạo đức của dân tộc;
mặt khác phải không gây ra những khó khăn trở ngại đến tính chủ động sáng tạo
của các DN cụm công nghiệp.


19

- Nhà nước phải tạo ra môi trường ổn định và bình đẳng cho các DN hoạt
động trong cụm công nghiệp và phải kết hợp hài hòa các mục tiêu của DN với các
mục tiêu chung của đất nước.
- Quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp tức là tạo điều kiện để tăng
khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các DN trong nước
trong thị trường nội địa cũng như khi xuất khẩu. Điều đó có nghĩa nhà nước phải có
những chính sách thích hợp để thúc đẩy các DN tập trung tìm kiếm thế mạnh và
phát huy hết khả năng sản xuất kinh doanh của mình.
- Nhà nước phải cung cấp đầy đủ các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực cũng như
các thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác để giúp cho việc xây dựng,
phát triển các cụm công nghiệp đạt hiệu quả cao.
1.2 Nội dung quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp
Cũng giống với các đối tượng quản lý khác, quản lý nhà nước đối với cụm
công nghiệp gồm một số nhóm nội dung chính và tùy theo chức năng được phân
công cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ có những nhiệm vụ cụ thể. Tuy
nhiên, các nội dung chính bao gồm: (1) Hoạch định chính sách, ban hành các văn
bản quy định quản lý; (2) Tổ chức triển khai quản lý nhà nước đối với các cụm công
nghiệp; (3) Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quản lý nhà nước đối với cụm công
nghiệp; và (4) Khắc phục, xử lý những vấn đề phát sinh và các vi phạm đối với cụm
công nghiệp.
1.2.1 Hoạch định chính sách, ban hành các văn bản quy định quản lý đối
với cụm công nghiệp

Sự thành công hay thất bại của các cụm công nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
song yếu tố có tính quyết định là chính sách của nhà nước đối với các cụm công
nghiệp. Thông qua nghiên cứu các quan niệm chung về chính sách của các học giả trên
thế giới và Việt Nam, có thể hiểu khái niệm chính sách cụm công nghiệp như sau:
Chính sách phát triển cụm công nghiệp là tổng thể các quan điểm, các biện
pháp tác động của nhà nước (trung ương và địa phương) vào quá trình hình thành,


20

hoạt động của các cụm công nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong
những giai đoạn nhất định.
Chính sách phát triển các cụm công nghiệp gồm 06 đặc trưng chủ yếu:
- Chủ thể ban hành chính sách cụm công nghiệp là các cơ quan nhà nước hoặc
người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chính sách cụm công nghiệp gồm nhiều quyết định có liên quan đến nhau
như: luật, các văn bản dưới luật, các công ước và luật pháp quốc tế, các hiệp định
mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia liên quan đến cụm công nghiệp.
- Chính sách cụm công nghiệp là những quyết định không chỉ thể hiện dự định
của nhà hoạch định chính sách, mà còn bao gồm những hành vi triển khai thực hiện
các dự định đó.
- Chính sách cụm công nghiệp tập trung giải quyết một hoặc một số vấn đề đặt
ra đối với cụm công nghiệp: vấn đề đến bù giải phóng mặt bằng cụm công nghiệp,
bảo vệ môi trường, thu hút đầu tư, nhà ở cho người lao động…
- Khách thể của chính sách cụm công nghiệp là các cơ quan nhà nước (cơ
quan thực thi), DN, nhà đầu tư vào cụm công nghiệp, người lao động và nhân dân
trong vùng có cụm công nghiệp, địa phương có cụm công nghiệp.
- Chính sách cụm công nghiệp hướng vào mục tiêu phát triển cụm công nghiệp
và mục tiêu chung của đất nước, của từng địa phương trong từng thời kỳ.
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư phát triển cụm

công nghiệp, quy chế hoạt động của các cụm công nghiệp, các văn bản hướng dẫn thực
hiện cũng như các văn bản pháp quy có liên quan và hoàn thiện chúng qua từng thời kỳ
nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng bộ và điều chỉnh có hiệu quả hoạt động của cụm công
nghiệp cũng như của từng DN trong cụm công nghiệp. Quy định và hướng dẫn việc
hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý hoạt động của cụm công nghiệp.
Xây dựng và áp dụng các biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi ích của
nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi kinh tế áp dụng tại
cụm công nghiệp: bình đẳng, các bên cùng có lợi, được thể chế hoa về mặt pháp lý.
Đồng thời các biện pháp này cũng được điều chỉnh linh hoạt về mặt pháp lý để theo


×