Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận môn luật so sánh hệ thống pháp luật sharia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.56 KB, 31 trang )

Mục lục
I.

Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật sharia

II.

Nguồn gốc của Luật Đạo Hồi

III.

So sánh hệ thống cấu trúc nguồn luật của luật Hồi giáo với cấu
trúc

nguồn luật của Civil law và Common law.
IV.
V.
VI.

Các nguyên tắc của hệ thống pháp luật Sharia
Các đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo
Hiến pháp - Vai trò của thẩm phán ( Role of Judges ) - Tổ chức tòa
án và hệ thống pháp luật Hồi giáo

VII. Giải thích pháp luật Sharia ( interpretation of Sharia law )
VIII. Các trường phái của pháp luật sharia ( Schools of Sharia law )
IX.

Xem xét tính hợp hiến của pháp luật (Judicial review )

X.



Nguyên tắc về chống lợi nhuận bất hợp pháp ( the rule against
usury )

XI.

Tổ chức của Hồi giáo

XII. Sự thích ứng của pháp luật đạo Hồi đối với thế giới hiện đại và sự
bành trướng của nhà nước Hồi giáo IS


HỆ THỐNG PHÁP LUẬT SHARIA ( Sharia Law System )
I.

Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật sharia

Hồi giáo (đạo Islam) là một tôn giáo độc thần, thuộc nhóm các tôn giáo
Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ 2 trên thế giới, sau Kito giáo. Đạo Hồi ra đời
vào thế kỉ thứ 7, tại bán đảo Arab, do Thiên sứ Mohamed nhận mặc khải của
Thượng đế (Allah) để truyền lại cho con người qua thiên sứ Gabriel. Mohamed
được xem là vị thiên sứ cuối củng được Allah mặc khải qua kinh Koran
(Qu’ran). Đối với các tín đồ Hồi giáo, kinh Koran là linh thiêng, Koran đọc
đúng và đầy đủ nhất phải bằng tiếng Arab. Mohamed và đạo Hồi đã giúp thống
nhất bán đảo Arab.
Hệ thống pháp luật sharia có thể được gọi là hệ thống pháp luật hồi giáo
bởi vì nó được sinh ra và phát triển song song cùng Đạo Hồi ( Islam ) từ thế kỷ
thứ VII. Hiện nay trên thế giới đang có khoảng 1 tỉ người theo đạo hồi và họ
sinh tại nhiều quốc gia của các hệ thống pháp luật khác nhau và tập trung nhiều
ở các quốc gia Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á. Khác với những hệ thống pháp

luật đã xem xét , pháp luật đạo hồi không phải là lĩnh vực khoa học độc lập. Đó
chỉ là những khía cạnh của đạo Hồi.(1)
Đặc điểm mấu chốt của sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các
hệ thống pháp luật thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không
có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Ở đây, chính trị thần
quyền (chế độ cai trị của các tăng lữ, trong đó các luật lệ của nhà nước được tin
tưởng là luật lệ của Chúa Trời) bao trùm và điều chỉnh các vấn đề mang tính
chất công và tư. Cũng chính từ học thuyết này, Shari’ah là luật Thánh Alla ban
hành, không biến đổi và được nhà nước áp dụng cho mọi thời đại; nói khác đi,
nhà nước, luật pháp và tôn giáo chỉ là một. Khái niệm này có thể hiểu ở mức độ
khác nhau giữa các quốc gia, nhưng luật pháp, chính quyền đều dựa vào khái
niệm đó và là một phần của tôn giáo Đạo Hồi.(2)
Nền tảng của pháp luật đạo Hồi không chỉ mang tính chất tôn giáo . các
nhà luật học, thần học trong vòng nhiều thế kỷ đã tạo ra học thuật rộng lớn. Trên
nguyên tắc, pháp luật này được áp dụng chỉ với những ngườitheo đạo Hồi,
nguyên tắc tôn giáo làm cơ sở cho pháp luật : Đạo Hồi sẽ không có hiệu lực nếu
một trong các bên không phải là người theo đạo Hồi.
Trong đạo Hồi thống trị quan điểm về xã hội thần quyền, trong đó Nhà
nước có ý nghĩa chỉ phục vụ cho tôn giáo đang thống trị. Thay cho việc đơn giản
tuyên bố về những nguyên tắc đạo lý hay những giáo điều mà xã hội cần phải
điều chỉnh hệ thống pháp luật theo chúng, các luật gia và các nhà thần học đạo
Hồi xuất phát từ những lời của thượng đế, thảo ra hệ thống pháp luật rất chi tiết,


pháp luật của một xã hội lý tưởng vào một ngày nào đó sẽ được thiết lập trên
toàn thế gian và hoàn toàn tuân theo tôn giáo đạo Hồi.(1)
(1) Rene davis – Sđd trang 339
(2)Nguồn và bản chất của luật đạo hồi – Tiến sĩ Đổ Thị Mai Hạnh

II.


Nguồn gốc của Luật Đạo Hồi

Luật Hồi giáo chính là Luật Shari’ah. Luật này điều chỉnh, đưa ra nguyên
tắc và quy định hành vi của người dân, hoạt động của các cơ quan tổ chức, đưa
ra các quy phạm để áp dụng trong đời sống của một con người như: ăn kiêng,
cách nuôi dạy con cái, đồng thời cũng quy định và miêu tả những nguyên tắc
dành cho người tu hành, việc bố thí cho người nghèo và những vấn đề tôn giáo
khác. Bên cạnh đó Luật Shari’ah cũng được sử dụng như những hướng dẫn đối
với các hoạt động của con người trong xã hội cũng như đối với những tác động
qua lại giữa các nhóm dân tộc. Ở phạm vi rộng hơn, Luật Shari’ah được áp dụng
để giải quyết những tranh chấp trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với
nhau, đồng thời giải quyết những tranh chấp, xung đột quốc tế và vấn đề chiến
tranh. Do đó nguồn luật của Luật Hồi giáo cũng chính là các thành tố của Luật
Shari’ah. Luật này gồm 4 thành tố sau: Kinh Qu’ran (hay còn gọi là Koran),
Kinh Sunna, Idjmá và Qiyás.
Thành tố đầu tiên mang tính chất chủ đạo của Luật Hồi giáo là Kinh
Qu’ran. Đây cũng là nguồn luật với những quy định mang giá trị chung thẩm khi
được áp dụng. Kinh Qu’ran là nguồn luật cao nhất của Luật Hồi giáo, được coi
là những lời của Thánh Alla tiết lộ cho tiên tri Muhammed (570-632). Sự hình
thành và phát triển của Qu’ran với tư cách vừa là Kinh Thánh vừa là luật xuất
hiện ban đầu bởi sự truyền đạo của nhà tiên tri (Prophet) Mohammad tại thành
phố Madinah, sau đó đã đồng loạt xuất hiện ở mọi nơi cùng với sự gia tăng
những tín đồ của Đạo Hồi. Nhà tiên tri vừa là chỗ dựa tinh thần vừa là người
tạm thời đứng đầu cộng đồng.

Kinh Qu’ran (Koran). Ảnh: Internet


Về cấu trúc Kinh Qu’ran được chia thành 30 phần và 114 chương và được

sắp xếp theo ý của nhà tiên tri . Các chương lại chia nhỏ thành 6.200 khổ thơ
(verse), các luật gia Đạo Hồi gọi chúng là “ Những khổ thơ pháp luật”. Chỉ có
khoảng 3% các khổ thơ đó là liên quan đến pháp luật. Ví dụ, Luật Gia đình được
quy định trong khoảng 70 khổ thơ; các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực luật tư
khác được quy định trong 70 khổ thơ; khoảng 30 khổ thơ được coi là đặc trưng
cho Luật Hình sự; các vấn đề về tài chính và hiến pháp thì được đề cập trong
khoảng 20 khổ thơ; các vấn đề liên quan đến Luật Quốc tế thì cũng được quy
định trong khoảng 20 khổ thơ.
Cách thức thể hiện những điều răn dạy và điều cấm trong Kinh Qu’ran
bao giờ cũng theo cùng một công thức: điều răn dạy đều bắt đầu bằng lời giới
thiệu, sau đó kết thúc bằng một lời cấm đoán. Đơn cử như điều răn sau:
Đoạn đầu tiên, lời giới thiệu là: “Người dân hỏi nhà tiên tri về rượu và bài
bạc. Hãy nói rằng, cả hai thứ đó đều xấu xa, dù rằng nó có một thuận lợi nào đó
cho đàn ông, nhưng sự xấu xa của nó thì to lớn hơn sự thuận lợi đó nhiều lần”.
Đoạn thứ hai, lời giới thiệu hướng đến điều cấm đoán: “Hỡi những tín đồ,
không được cầu nguyện khi người đang say”.
Đoạn thứ ba, lời giới thiệu đã chuyển thành điều cấm hoàn toàn: “ Hỡi
những tín đồ, uống rượu và chơi cờ bạc là những hành động xấu xa, là công việc
của quỷ dữ, vì vậy phải tránh xa nó”.
Trong Kinh Qu’ran, tín ngưỡng tồn tại bên cạnh một số nguyên tắc pháp
lý và hầu hết các nguyên tắc pháp lý liên quan đến luật gia đình (kết hôn, ly dị
và thừa kế), một số liên quan đến Luật Hình sự (ngoại tình, vu khống, uống
rượu), một số liên quan đến hợp đồng (hình thức hợp đồng, phương thức thanh
toán), một số liên quan đến vấn đề pháp luật về tài chính, hiến pháp, tòa án,
tranh chấp quốc tế... Các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nghi lễ, nghi thức và
luật pháp rất ngắn gọn trong Qu’ran và hầu như mang tính nguyên tắc, không cụ
thể. Hơn thế nữa, vẫn có một số vấn đề bỏ ngỏ, chưa được đề cập. Vì vậy, về
nguyên tắc, vẫn rất cần sự giải thích và mô tả từ nhà tiên tri, hay nói cách khác,
bên cạnh Kinh Qu’ran vẫn cần có nguồn luật bổ trợ; đây chính là tiền đề để
nguồn luật quan trọng thứ hai của Luật Hồi giáo ra đời, đó là Kinh Sunna.

Kinh Sunna chứa đựng những lời dạy bảo của tiên tri Mohamed và những
giai thoại, những câu chuyện (gọi là Hadith) về nhà tiên tri và các tín đồ của
mình đã sống một cuộc sống phù hợp với trật tự tôn giáo được quy định trong
Kinh Qu’ran. Những câu chuyện và giai thoại đó đã chi tiết hóa những vấn đề
được đề cập mang tính nguyên tắc, hoặc chưa rõ ràng trong Kinh Qu’ran. Cuộc
sống của Mohamad và tín đồ của ông dần được xem là khuôn mẫu cho cuộc
sống của người dân trong xã hội. Nội dung của Sunna gồm 3 loại: lời nói của
tiên tri về tôn giáo; hoạt động và hành vi của nhà tiên tri và sự chấp nhận của
tiên tri đối với một số hành vi nhất định của con người. Chúng ta có thể nhận
thấy rằng, trong một chừng mực nhất định, các nguyên tắc của Đạo Hồi, Luật
Hồi giáo cũng được rút ra từ nguồn Sunna này. Bởi vì Qu’ran nhìn chung chỉ
giải quyết những nguyên tắc lớn về pháp luật, những vấn đề cốt yếu về tôn giáo


và đi sâu vào chi tiết một số ít trường hợp. Điển hình như: Kinh Qu’ran cấm
uống ruợu, nhưng lại không nói gì về chế tài đối với hành vi này; chế tài này lại
được tìm thấy trong Kinh Sunna bằng việc miêu tả rằng nhà tiên tri đã ra chế tài
và bản thân ông là người thực thi hình phạt đánh roi đối với hành vi uống rượu
này[17]. Như vậy, Kinh Sunna đã chi tiết hóa những vấn đề đó bằng lời giải thích
và hành động của nhà tiên tri và của những tín đồ ngoan đạo đi theo ông.
Khác biệt hẳn so với Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật của
Luật Hồi giáo mang tính thần thánh, tự nhiên thì thành tố thứ ba của Luật Hồi
giáo là Idjimá lại được ra đời trên cơ sở sự thống nhất về quan điểm pháp luật
của các học giả pháp lý Đạo Hồi. Những vấn đề mà các nhà học giả pháp lý Đạo
Hồi bàn luận là những vấn đề về con người và cả chính trị nữa. Khi những vấn
đề đó đạt được sự thống nhất, chúng được giải thích là Idjimá. Những khái niệm
và ý kiến trong Idjimá thì không tìm thấy trong Kinh Qu’ran và Kinh Sunna.
Đơn cử như một quy định được đề cập trong Idjimá, phụ nữ không thể trở thành
thẩm phán. Quy định này không hề được đề cập trong Kinh Qu’ran và Kinh
Sunna mà lại được rút ra từ quan điểm thống nhất của các học giả pháp lý Đạo

Hồi.[19]Trong thực tiễn, các thẩm phán có thể kiểm tra trong Idjmá để tìm kiếm
nhiều giải pháp khả thi để áp dụng trong xã hội hiện đại. Và họ hoàn toàn tự do
sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm và vấn đề xã hội
dựa trên cơ sở những quan điểm được đề cập trong Idjimá. Do vậy thẩm phán có
quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjmá để giải
quyết một vụ việc cụ thể bất kỳ.
Thành tố thứ tư của Luật Hồi giáo là Qiyas, là án lệ được tuyên bởi thẩm
phán cấp cao. Nói một cách khác, Qiyas có thể gọi là “phương pháp suy xét theo
sự việc tương tự”. Các thẩm phán của các nước theo Luật Hồi giáo có thể sử
dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng
giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong Kinh Qu’ran, Kinh Sunna và
Idjmá. Ví dụ như đó là một tội phạm về máy vi tính, trộm cắp phần mềm máy
tính, trong Kinh Qu’ran và Sunna không đề cập đến loại tội phạm này. Hành vi
này là cần thiết bị cấm nên thẩm phán phải dựa trên lý lẽ và logic để sáng tạo ra
án lệ, hay còn gọi là Qiyas.
Vậy ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản
pháp luật hay không? Có thể nói rằng, có văn bản pháp luật ở các quốc gia theo
Luật Hồi giáo cũng như việc có tồn tại án lệ trong hệ thống pháp luật của những
quốc gia này. Nhưng đây là sự chuyển hóa những quan điểm pháp luật, ý kiến
pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào các văn bản
pháp luật. Và sự chuyển hóa này bắt đầu vào khoảng thế kỷ 19, thời điểm lịch sử
các quốc gia theo Luật Hồi giáo có một sự thay đổi rất lớn lao, khi các quốc gia
Phương Tây tăng cường quyền lực toàn cầu và chinh phục một phần rộng lớn
của thế giới, trong đó có các vùng lãnh thổ của Luật Hồi giáo(2).
Luật pháp Sharia, được ghi lại trong kinh Qu’ran và kinh Sunna. Sharia quy
định rất rõ 5 điều bổn phận và trách nhiệm của một giáo dân. 5 điều ấy thường
được gọi là Ngũ-Trụ-Hồi (Five Pillars of Islam). Ngũ Trụ Hồi là:


1/ Shahadan - Xưng tụng đức tin: một người được coi là giáo dân khi và chỉ

khi người ấy chịu xưng tụng câu “Không có chúa khác nào ngoài Allah, và
Muhammad là kẻ truyền tin của Người”. Khi mới sinh ra, câu đầu tiên một
đứa trẻ Hồi được nghe người thân nói là câu ấy, khi già rồi chết đi, câu ấy
cũng lại là lời cuối cùng bên tai.
2/ Salat - Cầu nguyện: 5 lần một ngày, vào lúc ban mai, trưa, chiều, hoàng
hôn, và tối, hướng về thánh địa Mecca để cầu nguyện. Giáo dân có thể cầu
nguyện ở bất cứ nơi đâu, nhưng buổi trưa ngày thứ sáu thì phải đến giáo
đường, vì đó là lễ quan trọng.
3/ Zakat - Bố thí: Năng làm việc phúc, giúp đỡ kẻ khó, mẹ góa con côi. Đúng
theo quy tắc thì bất cứ ai có khả năng về tài chính, mỗi năm phải bỏ ra ít nhất
2.5% tổng tài sản (tài sản chứ không phải thu nhập) để bố thí.
4/ Sawm - Nhịn ăn trong tháng Ramadan: Trong tháng Ramadan, tháng thứ
9 trong lịch Hồi giáo, tín đồ phải tuyệt đối tránh chuyện tình dục, không ăn
không uống từ bình minh cho đến hoàng hôn mỗi ngày. Mục đích việc này là
để trai giới cho tâm hồn thanh tịnh mà tưởng niệm Thượng Đế, lại cũng để
hiểu thấu nỗi khổ đau của những kẻ nghèo đói lang thang không có cái ăn, từ
đó mà biết thương người hơn.
5/ Hành hương về Mecca: Ít nhất một lần trong đời, ngƣời Hồi giáo phải
hành hương về Mecca, quê hương của Tiên Tri (Thiên sứ) Muhammad, và là
nơi tọa lạc Kaba (Căn Nhà Của Allah). Tương truyền Kaba được dựng lên bởi
cổ Tiên tri (Thiên sứ) Abraham, bên trong có chứa viên huyền thạch thiêng
liêng của Thượng Đế.
Ngoài Ngũ Trụ Hồi, đôi khi người ta cũng nói đến Jihad như một trụ cột
thứ 6 của Hồi giáo. Jihad không phải Thánh Chiến như người ta vẫn hiểu một
cách sai lệch. Jihad là “đấu tranh vì đạo, vì lẽ phải”. Cuộc đấu tranh ấy có thể
diễn ra bên ngoài xã hội, hay trong chính nội tâm của một cá nhân. Jihad bao
hàm nghĩa Thánh Chiến, vì một khi đã đấu tranh thì có thể dẫn tới chiến tranh,
nhưng Thánh Chiến không đồng nghĩa với Jihad(3) .



(3)Tác giả Nguyễn Minh sưu tầm trên website: vnthuquan.net

III.

So sánh hệ thống cấu trúc nguồn luật của luật Hồi giáo với cấu
trúc

nguồn luật của Civil law và Common law.
1. Cấu trúc hệ thống nguồn luật của Luật Hồi giáo gồm những loại nguồn
không đồng nhất và khác biệt so với Common law và Civil law . Trong khi
Common law và Civil law đều có những loại nguồn cơ bản: án lệ (phán quyết
của toà án), pháp luật thành văn, tập quán. Do đó sẽ rất ngạc nhiên khi thấy luật
Hồi giáo không thừa nhận luật thành văn, án lệ và tập quán là nguồn luật như ở
Civil law và Common law. Nguồn luật cơ bản của luật Hồi giáo là kinh thánh.
Nguồn luật của luật Hồi giáo gồm: nguồn cơ bản (kinh Koran và Sunna); nguồn
phát sinh (Ijma và Qias), đây là bốn nguồn không đồng nhất và chỉ duy nhất có
ở luật Hồi giáo.
- Kinh Koran là cuốn thánh kinh của đạo Hồi gồm 114 chương (sura) và được
chia thành các tiết (ayah) với 6.237 đoạn thơ, nêu ra rất nhiều luật lệ mà các tín
đồ Hồi giáo phải tuân thủ. Những luật lệ này bao trùm một phạm vi rất rộng, từ
quy tắc ứng xử cá nhân tới gia đình, láng giềng và tới cả lĩnh vực chính trị quốc
gia,… Tuy nhiên, trong kinh Koran chỉ có rất ít đoạn có thể áp dụng như những
quy phạm pháp luật (3%). Những đoạn này thường không đủ độ chính xác và cụ
thể như những quy phạm pháp luật và điều chỉnh nhiều vấn đề như nhân thân
(70 đoạn), quyền dân sự (70 đoạn), hình sự (30 đoạn) , thủ tục tư pháp (13
đoạn),…. Đây chính là điểm độc nhất của nguồn luật của luật Hồi giáo. Trong
các nguồn luật của luật Hồi giáo, thì kinh Koran quan trọng nhất, được coi là
đạo luật gốc, cơ bản nhất, có thể coi là Hiến pháp của luật Hồi giáo.
- Nguồn cơ bản thứ hai là Sunna, Sunna nghĩa là “con đương quen đi ”, là lối
sống, cách hành xử trong cuộc đời của nhà tiên tri Mohammed. Sunna bao gồm

những hành động cụ thể, những lời khuyên dạy hoặc cấm đoán phát xuất trực
tiếp từ Mohammed. Sunna là nguồn luật quan trọng của Islam sau kinh Koran,
và nó có vai trò đưa ra các quy định mà trong kinh Koran không có chẳng hạn
quy định cấm uống rượu. Sunna có một điều rất lạ và độc đáo đó là quy định về


tầm quan trọng của lời thề trong tố tụng tư pháp, một quy định khó thấy trong
Civil law và Common law.
- Thứ ba là hai nguồn phát sinh: Ijma và Qias. Cả hai nguồn phát sinh này đều
có vai trò làm rõ các nguồn cơ bản. Ijma gần giống với án lệ của Common law
nhưng không phải là án lệ vì nó là các quan điểm chung, các giải pháp pháp lí
cho những tình huống mới do các học giả Hồi giáo đưa ra, trên cơ sở các nguyên
tắc chung của nguồn luật cơ bản, được những người có thẩm quyền chấp nhận.
Tuy Ijma gần giống tập quán của Civil law nhưng lại không phải tập quán, vì nó
không cần sự chấp nhận của mọi tín đồ hoặc của cộng đồng mà chỉ cần sự chấp
nhận của những người có thẩm quyền. Khi những người có thẩm quyền nhất trí
giải pháp pháp lí nào đó thì đó được coi là luật, tuy nhiên những giải pháp đó
vẫn gắn bó mật thiết với các nguyên tắc chung của nguồn luật cơ bản. Ngày nay
chỉ có một số nhà bác học lớn nghiên cứu trực tiếp 2 loại nguồn cơ bản. Còn lại
đa số các luật gia hồi giáo phải sử dụng Ijma để đưa ra giải pháp cho các vấn đề
của dân số hiện đại. Ví dụ như vấn đề sinh đẻ,…. Do đó Ijma có tầm quan trọng
đặc biệt trong thực tiễn. Còn Qias là phương pháp suy luận tương tự để giải
thích luật. Bằng phương pháp này các luật gia có thể “ kết hợp ý chí của thần
thánh với ý chí của con người”. Qias được cộng đồng hồi giáo tuân thủ nhờ dựa
trên kinh Koran và Sunna. Việc suy luận theo sự việc tương tự chỉ được xem
như phương thức giải thích và áp dụng pháp luật do luật hồi giáo được xác định
trên cơ sở của nguyên tắc uy tín.
Luật Hồi giáo không thừa nhận án lệ, pháp luật thành văn và tập quán là
nguồn luật vì luật Hồi giáo gắn liền với tôn giáo (đạo Hồi). Vì Hồi giáo được
thừa nhận là quốc giáo nên luật Hồi giáo được thừa nhận. Do luật Hồi giáo quy

định những quy định của pháp luật phải được sự chỉ đạo, chỉ dạy của thánh
Alan, không ai được sáng tạo luật thay thánh Alan (điều này được viết trong
kinh Koran).
2. Những nguồn luật được ghi nhận trong luật Hồi giáo mang tính tôn giáo,
thể hiện ý chí của thánh Alan.
Nguồn của luật Hồi giáo do Thượng đế đặt ra, thể hiện ý chí của Thượng
đế hay thánh Alan, là thiêng liêng bất khả xâm phạm, tín đồ chỉ có thể tuân theo
chứ không được sửa đổi, vì luật Hồi giáo độc lập so với cơ quan nhà nước hay
quyền lực nhà nước. Điều này hoàn toàn khác với Civil law và common law, các
nguồn luật của hai dòng họ pháp luật này thể hiện ý chí của nhà nước, do các cơ
quan nhà nước ban hành, thừa nhận (pháp luật thành văn, án lệ, tập quán) và có
được sửa đổi.


3. Những nguồn luật phổ biến trong Common law và Civil law nhưng
không được thừa nhận trong luật Hồi giáo và những thay đổi của luật Hồi
giáo hiện nay
Như đã nêu ở trên, pháp luập thành văn, án lệ và tập quán được coi là
những nguồn luật cơ bản của Common law và Civil law, nhưng luật Hồi giáo lại
không thừa nhận và coi trọng những nguồn luật này. Ở dòng họ Common law,
thường thì các tác phẩm gồm các cuốn sách do tác giả có uy tín viết cũng được
coi là nguồn luật thì trong Luật Hồi giáo lại không được coi trọng. Ở dòng họ
Civil law, các nguyên tắc chung của pháp luật cũng được coi là nguồn của pháp
luật. trong khi đó ở luật hồi giáo không có loại nguồn này. Để phù hợp với thế
giới hiện đại, luật Hồi giáo đã có nhiều sự thay đổi. Tuy tập quán không phải
nguồn luật nhưng có lúc được dùng để lấp cho trống của pháp luật. Ở nhiều
nước Hồi giáo luật thành văn, đặc biệt là hiến pháp đã được thừa nhận và ngày
càng nâng cao vai trò tuy nhiên những nội dung của pháp luật thành văn không
được trái với các quy định của luật Hồi giáo như Iran, Afghanistan, Thổ Nhĩ
Kì,...

IV.

Các nguyên tắc của hệ thống pháp luật Sharia

1 Nguyên tắc bền vững:
Luật Hồi giáo được xem là lời răng dạy của chúa, là ý chí của thần thánh
(không bao giờ bị bác bỏ, không bao giờ bị thay đổi) => phải phục tùng một
cách tuyệt đối.
2 Nguyên tắc hướng dẫn hành vi của con người
Các quy định thường mang nặng tính chất đạo đức, chứa đựng các giáo
điều mà tín đồ phải tin, quy định những điều mà tín đồ phải làm, nên làm, làm
cũng được, không làm cũng được, chê trách, không được làm, thường được ẩn
chứa dưới những lời răn dạy của đấng tối cao và gắn bó chặt chẽ với các tín điều
tôn giáo hướng dẫn đối với các hoạt động của con người trong xã hội cũng như
đối với những tác động qua lại giữa các nhóm dân tộc.
Luật Hồi giáo chia hành vi của con người thành 5 loại sau: hành vi buộc
phải làm (obligatoire); hành vi nên làm (recommandes); hành vi làm cũng được
không làm cũng được (indiffrerentes); hành vi bị khiển trách (blamables); hành
vi cấm (interdites). Đây là nguyên tắc đánh giá hành vi của con người vể cả
phương diện pháp luật và đạo đức.
3 Nguyên tắc độc lập:


+ Pháp luật Hồi giáo chỉ áp dụng với những người theo đạo Hồi tuyệt đối sẽ
không có hiệu lực gì nếu một trong các bên không phải người theo đạo (điều
chỉnh mối quan hệ giữa các công dân theo Đạo Hồi).
+ Pháp luật Hồi giáo là một hệ thống các quy định tôn giáo hoàn toàn độc
lập, không chịu sự chi phối cũng như độc lập với bất cứ sự hỗ trợ nào của
nhà nước và chính quyền, không thể bị thay đổi bởi bất cứ tác động nào,
thậm chí là Hiến pháp hay nhà nước, chính là nguyên nhân dẫn đến những

cách xử lý đôi phần đã lỗi thời trong thế giới hiện nay.
4 Nguyên tắc thứ bậc và kết hợp bổ trợ các nguồn luật khi áp dụng
Pháp luật Hồi giáo bao gồm bốn thành tố (bốn nguồn luật): Kinh Qu’ran,
Kinh Sunna, Idjmá và Qiyas; trong đó: Kinh Qu’ran có vai trò tối cao. Viết
những quy định ngắn gọn, chung chung và cần người dịch hoặc luật bổ trợ, Kinh
Sunna: nói về cách thực hành, ý kiến của Mohamed, Hadith, nội dung cụ thể
hơn. Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật chủ đạo nhất, có giá trị pháp
lý cao nhất đồng thời thể hiện là nguồn luật mang tính thần thánh và tự nhiên.
Idjmá là do các luật gia Hồi giáo bổ sung thiếu sót, còn Qiyas là án lệnh của
thẩm phán tối cao tuyên bố, bổ sung những yếu tố mới theo thời đại, đóng vai
trò là nguồn luật bổ trợ cho hai nguồn luật trên nhưng không thể thiếu được
trong hệ thống pháp luật của các quốc gia theo Luật Hồi giáo và là nguồn luật
thể hiện cho sự điều chỉnh pháp luật bằng việc kết hợp những tư tưởng thần
thánh tự nhiên với lý trí và sự thông thái của con người.
V.

Đặc điểm của hệ thống pháp luật Sharia

1. Pháp luật hồi giáo có tính bền vững cao:
Về nguyên tắc luật Hồi giáo không thay đổi, ổn định, có tính bền vững cao
mà chỉ có các quan hệ xã hội thay đổi nên nó phải được áp dụng mềm dẻo. Và
khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định của tôn
giáo.
Luật Hồi giáo có quan niệm về hành vi không giống các hệ thống pháp luật
khác. Theo đó luật Hồi giáo chia hành vi của con người thành 5 loại sau: hành vi
buộc phải làm (obligatoire); hành vi nên làm (recommandes); hành vi làm cũng
được không làm cũng được (indiffrerentes); hành vi bị khiển trách (blamables);
hành vi cấm (interdites). Đây là nguyên tắc đánh giá hành vi của con người vể
cả phương diện pháp luật và đạo đức.



Theo kinh Coran (người Musulman còn gọi là Chariat) hành vi của con người
được chia làm 5 loại:
a. Hành vi bắt buộc phải làm (obligatoire), như nghĩa vụ chăm sóc con cái,
nghĩa vụ đóng thuế…
b. Hành vi nên làm (recommandés), ví dụ thăm một người bạn bị ốm, giúp
người nghèo khó v.v..
c. Hành vi làm cũng được, không làm cũng được (Indiffrerentes). Đây là các
hành vi không đáng kể, không cần phải lưu ý như tham dự các trò vui, tiêu khiển
có tính lành mạnh.
d. Hành vi đáng chê trách (blâmables), như sai giờ hẹn, chậm trễ, nói lời
không tế nhị, thiếu lễ phép, đi đứng không đúng tác phong.
e. Hành vi cấm (interdites): giết người, cướp của, lừa đảo, trộm cắp…
Đây được coi là nguyên tắc cơ bản để đánh giá hành vi của con người về
phương diện pháp luật cũng như đạo đức.
2. Vai trò
Luật Hồi giáo có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các lĩnh vực
pháp luật truyền thống như hôn nhân-gia đình, thừa kế, hình sự. Còn trong
các lĩnh vực pháp luật khác như hợp đồng sở hữu thì sự ảnh hưởng có phần ít
hơn.
3. Cấu trúc quy phạm luật Hồi giáo:
Một quy phạm pháp luật thông thường bao gồm ba bộ phận: giả định, quy
định, chế tài. Tuy nhiên, trong luật Hồi giáo không tuân theo những cấu trúc
thông thường như vậy. Trong các quy phạm pháp luật hồi giáo thông thường
không có phần chế tài, mà nội dung chính của nó bao gồm các lời răn đe,
khuyên bảo, quy định những việc được làm và không được làm mà không đặt ra
chế tài nào, thông thường quy định: làm việc như thế này “thì sẽ gặp được
Alaz”, tức là được lên thiên đàn, các tín đồ theo đó sẽ có nghĩa vụ tuân theo
những việc làm được cho là đúng đắng và hợp pháp như thế.
4. Pháp luật DS – TM các quốc gia Hồi giáo

Đặc điểm nổi bật của luật Islam giáo là qui định có tính chất đạo đức, ít có
qui định về thương mại hoặc quan hệ giữa các quốc gia. Mặc dù vậy, cũng có
một số nguyên tắc pháp luật của hệ thống Dân luật và hệ thống luật chung. Ví dụ
trong dân luật 1953 của Libya, có nói đến việc áp dụng tập quán, luật tự nhiên,
lẽ công bằng như trong hệ thống dân luật và luật chung.
Tập quán không thể khuyên làm theo những hành vi bị cấm đoán, hoặc
cấm đoán những gì pháp luật coi là bắt buộc, nhưng tập quán có quyền bắt buộc


những gì mà theo pháp luật được làm, cũng như cấm đoán những gì mà pháp
luật cho là đáng chê trách hoặc cho phép
Đây được coi là nguyên tắc cơ bản để đánh giá hành vi của con người về
phương diện pháp luật cũng như đạo đức..

VI.

Hiến pháp - Vai trò của thẩm phán ( Role of Judges ) - Tổ chức tòa
án và hệ thống pháp luật Hồi giáo

1. Hiến pháp ( Constitution )
Luật Hồi giáo có nguồn gốc thần thánh. Quyền lực của nguồn luật này là
ở chỗ chúng thể hiện mệnh lệnh của đấng tối cao, chứ không phải quyền lực của
nhà nước. Bản chất thần thánh này là: pháp luật là ý chí của thượng đế, không có
gì trên đời có thể thay đổi được luật là ý chí của thượng đế, không có gì trên đời
có thể thay đổi được các điều Thánh Kinh đã dạy, các tín đồ chi có quyền tuân
thủ chúng.
Luật Hồi giáo có hệ thống nguồn luật như sau: nguồn cơ bản bao gồm
Kinh Coran và Sunna; nguồn phát sinh bao gồm Ijma và Qias. Ngay ở đây
chúng ta có thể thấy nét đặc biệt của luật Hồi giáo: bổn nguồn – “bốn gốc rễ”
của nó bao gồm những yếu tố cấu thành không đồng nhất.

Kinh Koran là cuốn kinh thánh của đạo Hồi được viết bằng tiếng Ả rập
(koran hay qur’aan có nghĩa là “đọc lại”). Kinh Koran hình thành từ những gì
mà Mohammed tuyên đọc hay đọc lại những lời của thượng để thần khải qua
ông khi thuyết giảng. Những lời tuyên đọc này được tập hợp lại thành sách hai
mươi năm sau khi Mohammed chết.
Kinh Koran gồm 114 chương (gọi là surah), chia thành các tiết (gọi là
ayah) với 6.237 đoạn thơ. Các chương trong kinh Koran có độ dài không tương
xứng với nhau, có chương rất dài nhưng lại có những chương rất ngắn, vì chúng
được Mohamirn đọc ra dần dần trong quãng thời gian hơn 20 năm.
Kinh Koran nêu ra rất nhiều các luật lệ mà các tín đồ Hồi phải một mực
tuân thủ. Những luật lệ này bao trùm một phần rất rộng, từ những quy tắc ứng
xử cá nhân, quan hệ trong gia đình, với láng giềng, với cộng đồng cho đến đời
sống kinh thánh,chính trị của quốc gia, từ hôn nhân, bố thí cho đến quan hệ
những người không theo đạo Hồi và trừng phạt tội lỗi.
Trong kinh Koran chỉ có rất ít đoạn có thể áp dụng như nhím quy phạm
pháp luật. Những đoạn này lại thường không được chính xác và cụ thể như
những quy phạm pháp luật và điều chỉnh nhiều vấn đề như: nhân thân (70 đoạn),


quyền dân sự (70 đoạn ), hình sự (30 đoạn), thủ tục tư pháp (13 đoạn), “ hiến
pháp” (1 đoạn), “kinh tế và tài chính” (10 đoạn), “luật quốc tế” (25 đoạn )
Ví dụ về nguồn luật được thể hiện trong kinh Koran: “Khi vay nhau trong
thời hạn xác định, cần viết ra thành văn tự. Phải là có văn tự cụ thể giữa hai
bên…. Hãy để người vay nợ xác định rõ… Đừng ngần ngại viết ra dù nợ lớn hay
nhỏ, và thời hạn cần ghi rõ trên đó. Việc ấy sẽ hữu hiệu hơn như Thánh Allah
thấy, để được chắc chắn hơn về sau và là cách tốt nhất để bên khỏi nghi ngại
nhau…”(Koran, 2 : 282). “Thượng đế hi rằng việc buôn bán là hợp luật, còn cho
vay lấy lãi là không hợp luật”(Koran, 2 : 282).
Những đoạn mang nội dung pháp lí trong kinh Koran giống như những
quyết định Mohammed tuyên đọc với tư cách là quan toà và thiên sứ của thượng

đế. Trong đó, Mohammed luôn vận dụng những tập quán phổ biến của các bộ
tộc Ả rập.
Trong các nguồn luật của luật Hồi giáo, thì kinh Koran quan trọng nhất,
được coi là đạo luật gốc, cơ bản nhất, có thể coi là Hiến pháp của luật Hồi
giáo.
Đọc thêm tại: />2. Vai trò của thẩm phán ( Role of Judges )
Thẩm phán có quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào
trong Idjmá để giải quyết một vụ việc cụ thể bất kỳ.
Thành tố thứ tư của Luật Hồi giáo là Qiyas, là án lệ được tuyên bởi thẩm
phán cấp cao[20]. Nói một cách khác, Qiyas có thể gọi là “phương pháp suy xét
theo sự việc tương tự”[21]. Các thẩm phán của các nước theo Luật Hồi giáo có
thể sử dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà
hướng giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong Kinh Qu’ran, Kinh Sunna
và Idjmá. Ví dụ như đó là một tội phạm về máy vi tính, trộm cắp phần mềm máy
tính, trong Kinh Qu’ran và Sunna không đề cập đến loại tội phạm này. Hành vi
này là cần thiết bị cấm nên thẩm phán phải dựa trên lý lẽ và logic để sáng tạo ra
án lệ, hay còn gọi là Qiyas.
Vậy ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản
pháp luật hay không? Có thể nói rằng, có văn bản pháp luật ở các quốc gia theo
Luật Hồi giáo cũng như việc có tồn tại án lệ trong hệ thống pháp luật của những
quốc gia này. Nhưng đây là sự chuyển hóa những quan điểm pháp luật, ý kiến
pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào các văn bản


pháp luật[22]. Và sự chuyển hóa này bắt đầu vào khoảng thế kỷ 19, thời điểm
lịch sử các quốc gia theo Luật Hồi giáo có một sự thay đổi rất lớn lao, khi các
quốc gia Phương Tây tăng cường quyền lực toàn cầu và chinh phục một phần
rộng lớn của thế giới, trong đó có các vùng lãnh thổ của Luật Hồi giáo[23].
[20] />[21] Réne David, sđd, tr. 345.
[22] />[23] />3. Tổ chức tòa án

Lý tưởng đạo Hồi về việc thiết lập mối thống nhất giữa xã hội những
người theo đạo và xã hội công dân không bao giờ được thực hiện. Tính chất hai
mặt trong tổ chức tòa án đã chứng tỏ điều này1.
Bên cạnh các tòa án kadi – theo pháp luật đạo Hồi là những co quan tòa
án hợp pháp duy nhất – luôn tồn tại những dạng tòa án khác áp dụng các tập
quán thô sơ hoặc những qui định của chính quyền. Hoạt động của những tòa này
trên mức độ ít hay nhiều đều chệch ra khỏi quỹ đạo của pháp luật Hồi giáo; xét
xử của cảnh sát, các thanh tra ở chợ, xét xử của halif hoặc những người đại diện
cho ông ta.
4. Hệ thống pháp luật của luật Hồi giáo
4.1. Luật hình sự.
Khái niệm tội phạm trong luật Hồi giáo nếu xét về phương diện hình phạt
bao gồm 2 loại:
– Tội phạm có thể trả bằng tiền.
– Tội phạm phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình.
Theo mức độ nặng nhẹ của tội phạm, kinh thánh Coran xác định 3 loại tội phạm:
a. Hudud: Tội phạm chống lại Chúa, bao gồm 7 tội: ngoại tình (kể cả thông
dâm), vu cáo, uống rượu (nơi công cộng cũng như ở nhà riêng), tội trộm, cướp
đường, phản đạo, vi phạm kinh thánh.
– Trong bảy tội phạm nói trên thì ba tội phạm đầu bao gồm: ngoại tình, vu cáo
và uống rượu sẽ bị đánh bằng roi.
– Tội trộm và cướp đường bị phạt đóng đinh vào thánh giá hoặc cắt tay, chân.
– Tội phản đạo, vi phạm kinh thánh sẽ bị hình phạt chặt đầu.
b. Quesas: là các tội phạm đòi hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình
người bị hại. Đó là các loại tội phạm: giết người (cố ý hoặc vô ý); gây thương
tích (cố ý hoặc vô ý); cưỡng dâm.


Khác với các hệ thống pháp luật khác, thông thường coi tội phạm giết
người là tội phạm nặng nhất, trong pháp luật Hồi giáo, các tội phạm chống lại

Chúa là tội phạm nặng nhất, còn tội phạm giết người và gây thương tích được
coi là các tội phạm chống lại cá nhân chứ không phải chống lại Chúa, nên được
coi là ít nghiêm trọng hơn Hudud. Nếu các tội trộm cắp, cướp của bị hình phạt
chặt tay, chân; người vợ ngoại tình bị xử tử hình, thì hình phạt ở đây được quan
niệm là phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình, vì vậy không thể chuộc
bằng tiền. Nhưng nếu phạm tội giết người thì tuỳ theo tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ mà xử tử hình hoặc chuộc tiền, tài sản. Theo luật Hồi giáo, giết một
người đàn ông có thể chuộc bằng 100 con lạc đà, giết một người đàn bà có thể
chuộc bằng 50 con lạc đà. Ngay cả thời hiện đại, ở Arập Xê -út (cho đến năm
1988) để được chuộc tội, người phạm tội phải trả 32.000 USD cho mạng một
người đàn ông Hồi giáo, 16.000 USD cho mạng một người đàn bà Hồi giáo và
một người đàn ông không phải là dân Hồi giáo; 8.000USD cho mạng một người
đàn bà không phải là người Hồi giáo.
c. Các tội Taazir: bao gồm các tội như ăn thịt lợn, đưa ra lời khai man trá, hối lộ,
làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ giao
thông… Việc truy tố và trừng phạt các tội Taazir thuộc quyền tự quyết của toà
án và các vị chức sắc trong tôn giáo. Hình phạt có thể là tù, phạt tiền và thường
là nhẹ hơn các tội Hudud và Quesas.
4.2. Luật dân sự.
Hệ thống luật nghĩa vụ rất phát triển. Nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng chia
làm 2 loại. Sự phân biệt hai loại này được xác định trên cơ sở có hay không sự
chuyển giao tài sản (là đối tượng hợp đồng).
a) Nhóm thứ nhất liên quan đến việc có chuyển giao tài sản là đối tượng của
giao dịch dân sự:
– Hợp đồng trao đổi.
– Hợp đồng cho vay.
– Hợp đồng mua bán.
b) Nhóm thứ hai là nhóm không cần chuyển giao tài sản.
– Hợp đồng vận chuyển hàng hoá.
– Hợp đồng uỷ thác…

Kinh Coran đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng lập thành văn bản và phải có ít
nhất hai người đàn ông, hay một người đàn ông và hai người đàn bà làm chứng
(Kinh Coran câu 2.282). Về thừa kế, người làm di chúc chỉ có quyền định đoạt
1/3 tài sản của mình. Người thừa kế chỉ hưởng quyền chứ không thừa kế nghĩa
vụ. Tài sản phân chia đều cho những người được thừa kế không phân biệt hàng
thừa kế thứ nhất, thứ hai như con hay cháu, đều hưởng như nhau.
4.3. Luật hôn nhân và gia đình
– Luật Hồi giáo tạo cho người đàn ông có uy thế tuyệt đối trong gia đình. Cho
đến ngày nay, Coran vẫn cho phép người đàn ông có 4 vợ và không hạn chế
nàng hầu. Trong hôn nhân không cần thiết sự đồng ý của người phụ nữ. Người


phụ nữ trước khi lấy chồng không được phép gặp gỡ, nói chuyện với những
người đàn ông khác, ra đường phụ nữ phải đeo mạng che mặt (nhiều quốc gia
Hồi giáo đã bỏ quy định này). Cũng theo Coran, người phụ nữ phải giữ trinh tiết
trước khi lấy chồng. Sau đêm tân hôn người vợ mới cưới có thể bị đuổi khỏi nhà
chồng, nếu người chồng mới cưới phát hiện cô dâu đã không còn trinh tiết. ở
nhiều nước Hồi giáo sử dụng nhiều tập quán pháp trong hôn nhân. Ví dụ, con
gái lấy chồng phải có của hồi môn của cha mẹ mang đến cho gia đình chồng. Vì
lý do này mà nhiều gia đình nghèo, con gái không thể lấy được chồng. ở một số
quốc gia Hồi giáo còn tồn tại tập quán “cướp dâu” và được thừa nhận như một
tập quán pháp luật. Theo tập quán pháp này, nếu người con trai muốn cưới một
cô gái làm vợ nhưng bị cha mẹ cô gái đó khước từ (với nhiều lý do khác nhau)
thì người con trai đó có thể “cướp dâu”. Nếu người con trai giữ được cô gái đó
qua đêm tại nhà mình và có người làm chứng thì hôm sau, anh ta có quyền đến
nhà bố mẹ cô dâu để xin cưới. Và trong trường hợp này bố mẹ cô dâu không thể
khước từ. Trên thực tế, cô gái có thể thỏa thuận ngầm với người con trai để cho
việc “cướp dâu” đó có thể tiến hành trót lọt.
Cũng như ở nhiều nước theo các tôn giáo khác, các nước Hồi giáo thường
cho rằng hôn nhân phải môn đăng hộ đối, nghĩa là gia đình cô dâu, chú rể phải

tương xứng nhau về mặt địa vị và tài sản. Nếu không tìm được người môn đăng
hộ đối, ở một số nước Hồi giáo người ta cho phép con cô, con cậu có thể kết hôn
với nhau để giữ tài sản cho dòng họ (mẹ của chú rể là chị (hoặc em) của bố cô
dâu hoặc ngược lại).
4.4. Luật tố tụng (hình sự và dân sự)
Các toà án ở các nước theo đạo Hồi là các toà án Hồi giáo truyền thống giải
quyết các vụ án hình sự cũng như dân sự. Các thẩm phán trong các toà án
Chariat gọi là Quadis được trải qua một khoá đào tạo tôn giáo cũng như pháp
luật. Thủ tục tố tụng được quy định trong kinh Coran. Trước toà, đương sự phải
có hai người đàn ông hoặc một người đàn ông và hai người đàn bà làm chứng.
Nếu chỉ có một người làm chứng thì đương sự có thể thề trước đấng Allah. Lời
thề trước đấng Allah được coi là bằng chứng trung thực.
4.5. Luật Nhà nước
Cho đến ngày nay, một số quốc gia theo đạo Hồi như Arập Xê -út vẫn còn
tồn tại chế độ quân chủ chuyên chế. Một số quốc gia Hồi giáo trong bộ máy nhà
nước chỉ có hai nhánh: hành pháp và tư pháp, không có Nghị viện lập pháp. ở
những nước này, quan niệm chỉ có đấng Allah mới có quyền làm ra luật để quy
định cách ứng xử của dân chúng trong xã hội. Nhà vua là người duy nhất nắm
trong tay quyền lực chính trị và là lãnh tụ tôn giáo tối cao của vương quốc. ở
Arập Xê -út không có đảng chính trị và lập pháp được thực hiện bởi các sắc lệnh
do vua ban hành. Vua bổ nhiệm các thẩm phán, các quan chức cao cấp trong
chính phủ, các thống đốc và các sĩ quan cao cấp trong quân đội (từ đại tá trở
lên). Nhà vua là người có quyền xét xử (tư pháp) cao nhất, là người có quyền ân
xá.


Mặc dù không có văn bản pháp luật nào hạn chế quyền lực của nhà vua,
nhưng quyền lực của nhà vua cũng bị hạn chế bởi các quy định của kinh Coran.
Kinh Coran đòi hỏi khi nhà vua trị vì phải tham khảo ý kiến nhân dân và cần
phải được sự ủng hộ của các học giả tôn giáo. Nhà vua Arập Xê -út có một Hội

đồng tư vấn và Hội đồng Hồi giáo tối cao bao gồm các nhà lãnh đạo thế tục và
tôn giáo để giúp đỡ và cố vấn cho nhà vua. Ngoài ra, ông còn có một Hội đồng
Bộ trưởng để xây dựng và quản lý việc thực hiện các chính sách của Chính phủ.
Một số quốc gia Hồi giáo như Iran có chính thể Cộng hoà Hồi giáo. Chính
thể Cộng hoà Hồi giáo của Iran khá đặc thù so với các mô hình chính thể phổ
biến trên thế giới. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Iran được thiết
lập theo Hiến pháp 1979 (sửa đổi 1989), một bản Hiến pháp được thông qua
bằng trưng cầu dân ý. Quyền lực tối cao về chính trị và tôn giáo thuộc về Lãnh
tụ tôn giáo của quốc gia. Lãnh tụ được Hội đồng chuyên viên bầu ra và giữ
cương vị suốt đời. Lãnh tụ tôn giáo có quyền cách chức Tổng thống sau khi cơ
quan lập pháp hoặc Toà án tối cao đề nghị. Lãnh tụ tôn giáo cũng chịu trách
nhiệm hoạch định các chính sách quốc gia trong mọi lĩnh vực. Hội đồng chuyên
viên gồm 83 đại biểu được nhân dân bầu ra với nhiệm kỳ 8 năm. Hội đồng này
có quyền lực rộng rãi, ngoài việc bầu và bãi miễn lãnh tụ tôn giáo, còn có quyền
xây dựng dự án sửa đổi Hiến pháp để đưa ra trưng cầu dân ý. Cơ quan lập pháp
gọi là Majlis (Hội đồng tư vấn Hồi giáo) gồm 290 thành viên được bầu bằng phổ
thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Hội đồng tư vấn Hồi giáo không thể bị
giải thể trong bất kỳ hoàn cảnh nào hoặc bất cứ quyền lực nào. Hội đồng thông
qua các đạo luật, giám sát các cơ quan nhà nước, buộc tội và cách chức các bộ
trưởng. Hội đồng tiến hành buộc tội Tổng thống khi có 1/3 thành viên đề nghị và
có thể cách chức Tổng thống khi có 2/3 số phiếu tán thành. Tổng thống do dân
bầu trực tiếp, có nhiệm kỳ bốn năm và được phép tái cử một lần. Với Hiến pháp
sửa đổi 1989, Tổng thống vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ, chủ
toạ các phiên họp của Hội đồng bộ trưởng. Tổng thống là Chủ tịch Hội đồng an
ninh quốc gia tối cao (thành viên bao gồm 2 thành viên đại diện cho Lãnh tụ tôn
giáo, Chánh án toà án tối cao, Chủ tịch Quốc hội (Hội đồng tư vấn Hồi giáo),
Tổng tham mưu trưởng và Bộ trưởng các bộ: Nội vụ, Ngoại giao, Thông tin, Kế
hoạch và ngân sách).
VII. Giải thích pháp luật Sharia ( interpretation of Sharia law )
Sharīʿah (tiếng Ả Rập: ‫ شريعة‬šarīʿah, IPA: [ʃaˈriːʕa], "đường" hay "đạo") là luật

hành vi hoặc luật tôn giáo của Hồi giáo. Phần lớn tín đồ Hồi giáo tin rằng Sharia
bắt nguồn từ hai nguồn của luật Hồi giáo cơ bản:
Giới được quy định trong Kinh Koran, và ví dụ do nhà tiên tri Hồi
giáo Muhammad đưa ra trong Sunnah. Người Hồi giáo tin rằng Sharia là Thiên
Chúa của pháp luật, nhưng chúng khác nhau như chính xác những gì đòi hỏi.
Hiện đại, truyền thống và trào lưu, tất cả đều giữ những quan điểm khác nhau
của Sharia, cũng như tín đồ các trường phái khác nhau của tư tưởng Hồi giáo và


học bổng. Quốc gia khác nhau và các nền văn hóa đã thay đổi cách diễn giải của
Sharia là tốt.
Sharia đề ra nhiều chủ đề giải quyết bằng luật pháp thế tục, trong đó có tội
phạm, chính trị và kinh tế, cũng như các vấn đề cá nhân như vệ sinh, chế độ ăn
uống, cầu nguyện và ăn chay. Trường hợp được hưởng tình trạng chính thức,
Sharia được áp dụng bởi các thẩm phán Hồi giáo, hoặc qadis. Các thầy tế có
trách nhiệm khác nhau tùy thuộc vào việc giải thích của Sharia, trong khi thuật
ngữ này thường được dùng để tham khảo các lãnh đạo của lời cầu nguyện xã,
các thầy tế cũng có thể là một học giả, lãnh đạo tôn giáo, hoặc lãnh đạo chính
trị.
Nội dung Luật Sharia
Với đàn ông:


Hành lễ 5 lần 1 ngày, nhịn chay trọn tháng Ramadhan, đóng Zakat (bố
thí);



Đối với người làm Imam (chủ lễ) đọc Adhan mỗi khi đến giờ hành lễ
nhằm thông báo cho mọi người biết;




Tích cực học Qur'an và truyền đạo cho vợ, cho con cái;



Nghiêm cấm giết người vô tội trừ trường hợp gặp phải kẻ giết người hay
kẻ phá hoại tôn giáo nếu không sẽ bị hành hình;



Nghiêm cấm gian dâm, ngoại tình nếu không sẽ bị đánh 100 roi với tội
ngoại tình



Luôn dang tay cứu giúp những người nghèo và tuyệt đối không được xúc
phạm hay đánh đập họ;







Không được phép ăn cắp nếu không sẽ bị chặt tay;
Nghiêm cấm đánh vợ và có những hành vi xúc phạm đến danh dự và nhân
phẩm của vợ, nhưng trường hợp muốn dạy người vợ ngang bướng thì hãy chỉ
bảo nhẹ nhàng nếu không được thì đánh nhẹ tay cấm được dùng gậy gộc để

dạy vợ nếu người vợ chịu nghe lời thì không được kiếm chuyện rầy rà với
vợ;
Khi cưới vợ cần tặng quà cưới bằng 1 khoản tiền tuỳ theo khả năng.
Khi cảm thấy không thể chung sống được với nhau thì giải phóng người
vợ một cách thỏa đáng và giữ lại tiền cưới nếu người vợ không đòi lại;




Không được phép ăn thịt lợn, chó, các loại động vật bị săn bắn, bị thắt cổ
chết,... nói chung là không ăn những loại động vật không được cắt cổ theo
đúng nghi thức nhưng nếu trong trường hợp bất khả kháng thì được phép ăn
những thứ trên để duy trì sự sống;



Phải dùng những thực phẩm đã được cấp chứng chỉ Halal;



Không được uống rượu bia hay những loại đồ uống có cồn.

Với phụ nữ




Hành lễ 5 lần 1 ngày (Fajr, Dhuhr, Asr, Maghrib, Isha'a) và nên hành lễ
tại nhà, nhưng khi hành lễ tại masjid tuyệt đối không được hành lễ chung với
nam giới;giống như Phật giáo, Cao đài ...ngày xưa người Thiên chúa giáo

củng làm như thế kể từ khi phong trào thế tục quật ngả được chế độ nhà thờ
vào năm 1905 thì có thay đổi chút ít, như mải đến năm 1960 dưới thời kỳ của
Vatican 2 thì mới cho phép nam nư hành lể chung do áp lực của phe thế
quyền chứ không phải lệnh của Thiên Chúa
Tích cực đọc Qur'an.



Phụ nữ được đeo nữ trang; nam giới bị cấm đeo trang sức bằng vàng,
hàng lụa



Cả nam lẫn nữ nên hạ đôi mắt xuống để tránh nhìn thẳng vào người đối
diện



Chỉ cưới với người nam Muslim, vì lý do nếu lấy chồng là người khôngmuslim thì e rằng sau khi cưới sẻ bị ép buộc bỏ đạo. Nam được phép cưới
người Do thái giáo và người Thiên chúa giáo mà không bắt buộc người vợ
phải theo đạo. Thiên sứ Mahomed có 2 người vợ một là tín đồ Do Thái giáo
và một là tín đồ Thiên chúa giáo. Cả 2 không bị bắt buộc cải giáo trong ngày
cưới , mà họ chỉ cải đạo sau một thời gian đã sống chúng với thiên sứ



Các trẻ em gái khi đến trường học phải được xếp lớp học chỉ toàn học
sinh nữ, không được cho học sinh nữ ngồi cạnh học sinh nam; luật nầy củng
ảnh hưởng bên mình đến khoảng 1960 thì mới xoá đi. Hiện nay ở các nước
châu Âu vẩn còn giử luật nầy.




Phụ nữ nên chăm lo công việc nội trợ ở nhà trong khi chồng đi làm nhưng
nếu cần thiết có thể đi làm để trang trải cho cuộc sống;




Nếu bị bắt gặp ngoại tình bị đánh 100 roi cả 2 người nam và nữ chứ
không ném đá như kinh Coran đả phán ở câu "24.2. Administrez à la femme
et à l'homme coupables de fornication cent coups de fouet chacun. Le respect
de la loi de Dieu exige que vous n'ayez aucune pitié pour eux, si vous croyez
en Dieu et au Jugement dernier. Ce châtiment devra être exécuté en présence
d'un groupe de croyants."

Luật ném đá người ngoại tình chỉ có trong kinh sách Cựu ước của người Thiên
Chúa giáo mà thôi.

VIII. Các trường phái của pháp luật sharia ( Schools of Sharia law )
Hồi giáo dòng Sunni và Hồi giáo dòng Shia.
Trong quá trình phát triển của mình, Hồi giáo ngày càng vươn xa tới
nhiều vùng, miền khác nhau trên thế giới và qua mỗi thời kỳ, tôn giào này đã có
những điều chỉnh nhất định để thích nghi với bối cảnh kinh tế, xã hội, văn hóa
tại các địa phương. Dù vậy, một trong những biến động lớn của Hồi giáo là sự
kiện Nhà tiên tri Mohammed mất (năm 632) và các tranh cãi về quyền kế thừa
đã khiến cho Hồi giáo tách thành hai dòng lớn: Hồi giáo dòng Sunni và Hồi
giáo dòng Shia (còn gọi là Hồi giáo Shiite). Mặc dù sự phân tách theo hai dòng
Hồi giáo như trên có nguyên nhân lịch sử từ nhiều thế kỷ trước đây nhưng các
khuynh hướng phát triển Hồi giáo hiện đại lại thể hiện nhiều đặc điểm mới

khiến cho sự chia tách như vậy đang trở thành vấn đề sâu xa đằng sau nhiều sự
kiện biến động nổi bật của giai đoạn hiện nay.
Người Hồi giáo Sunni tự coi mình là dòng chính thống và truyền thống
của đạo Hồi. Từ Sunni xuất phát từ cụm từ “ahl al-Sunna”, nghĩa là con người
của truyền thống. Người Hồi giáo Sunni sùng kính tất cả các đấng tiên tri được
nêu trong kinh Koran, đặc biệt là Mohammed. Trong khi đó, người Hồi giáo
Shia theo nghĩa đầy đủ là “Shiat Ali” tự coi mình là nhóm thừa hưởng các
quyền lợi của Ali, con rể Mohammed và họ tự coi họ là những người đi theo
đường lối chính trị, nối dõi trong việc lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo. Cả hai dòng
Hồi giáo này đều tôn thờ thánh Alla và Muhammed, cùng thực hiện 5 trụ cột cơ
bản của Hồi giáo. Tuy nhiên, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohammed mất, hai
dòng Hồi giáo trên đã có những xung đột liên quan đến việc ai sẽ là người lãnh
đạo đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ phát triển, sự khác biệt giữa hai dòng Hồi giáo
ngày càng gia tăng với những tranh cãi liên quan tới quan điểm chính trị, những
khác biệt về lý luận logic và một số khác biệt khác về cách thức thực hiện nghi
lễ tôn giáo.
Hồi giáo dòng Sunni là dòng Hồi giáo lớn nhất và các tín đồ Hồi giáo
Sunni thường được coi là “những người của truyền thống Mohammed và của


cộng đồng”. Hồi giáo Sunni được coi là dòng chính thống và danh từ “Sunni” có
từ nguyên là Sunnah để chỉ những lời răn rạy và hành động của Thánh
Mohammed được ghi lại trong Sách thánh Hadith. Tín đồ Hồi giáo Sunni
coi Sahih al-Bukhari và Sahih Muslim là Sách thánh Hadith chính thức của
mình.
Hồi giáo dòng Sunni có 4 trường phái tư tưởng chính thức (gọi là các
madh’hab) được chấp nhận rộng rãi bao gồm: Trường phái Hanefit; Trường
phái Malekit; Trường phái Hafecit và Trường phái Hanbal.
Cả 4 trường phái này đều nghiên cứu về các tập quán tôn giáo, việc thực
thi các nghi lễ tín ngưỡng và về các Hadith do vị Imam thứ 6 là Jaffar Al-Sadiq

(cháu nội của nhà tiên tri Mohammed) kể lại. Hồi giáo dòng Sunni chỉ chấp
nhận 4 vị Caliph đầu tiên là người kế thừa chính trị hợp pháp của Mohammed
và chấp nhận các Hadith do những Sahabah của Mohammed kể lại
- Trường phái Sunnit lớn nhất – trường phái Hanefit do Abu Hanif
thành lập ở Iraq vào thế kỷ thứ nhất. Trường phái này có tính chất tương đối duy
lý trong phương pháp nghiên cứu các quy tắc thượng đế và thái độ cẩn trọng đối
với các truyền thống. Trường phái Hanefit xâm nhập vào Ai Cập, Syria, Ba Tư,
Ấn Độ, Trung Quốc và Trung Á. Hôm nay nó có mặt ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nước
cộng hòa đạo Hồi của Liên Xô cũ, Jordan, Syria, Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ
và Bengal.
- Trường phái Sunnit đáng chú ý tiếp theo là trường phái Malekit do
Malik Ibn Anas sáng lập. Trường phái Malekit là trường phái tôn thờ những tập
quán của Medina chú ý tập trung đến đạo luật tôn giáo. Trường phái này phổ
biến ở Ai Cập, Mahrib, Sudan, Koweit, Quatar, Bahrein, các Tiểu Vương Quốc
Ả Rập và bờ đông bán đảo Arab. Trường phái Malekit cũng có mặt ở các nước
Tây Phi.
- Trường phái Hafecit do El Hafei thành lập vào thế kỷ thứ II. Học
thuyết của ông về nguồn pháp luật theo đuổi lý tưởng tôn giáo chứ không dựa
trên việc nghiên cứu sáng tạo thực tế. Do đó, trường phái không có đủ những
khái niệm cần thiết để phân tích thực trạng pháp lý – điều đã không cho phép
phát triển ngành khoa học pháp lý riêng biệt. Trường phái Hafecit có môn đồ tại
Palestin, Aden và Nam bán đảo Arad, Pakistan, Ai Cập, Indonesia, Malaysia,
Seilon, Philippines, Ấn độ và Đông Phi.
- Trường phái Hanbal do Ahmad Ibn Hanbal thành lập là trường
phái trung thành nhất với truyền thống. Trường phái này được phổ biến rộng rãi
chỉ sau thế kỷ thứ IV, còn ở Ai Cập vào thế kỷ thứ VII. Hiện nay nó có mặt ở Ả
Rập Xê út và một số địa phương của Iraq và Syria.
Những người không theo Sunnit ( Shiit và Haregit ) cũng có trường phái
riêng của mình và đến hôm nay vẫn có môn đồ. Trong số các trường phái phi
Sunnit có thể nhắc đến trường phái Zeidit do Zeid ben Ali sáng lập – trường

phái gắn với các trường phái Sunnit nhất. Tác phẩm chính của Zeid ben Ali –


tuyển tập những lời truyền của Nhà tiên tri. Trường phái này chiếm ưu thế ở
Yemen.
Các trường phái pháp luật đạo Hồi khác nhau về chi tiết, nhưng các
nguyên tắc chung đều thống nhất với nhau. Môn đồ của một trường phái có thể
gia nhập trường phái khác. Nhà cầm quyền có thể bắt buộc các thẩm phán áp
dụng những quan điểm của trường phái khác với trường phái đang ngự trị ở
nước đó. Các nhà lý luận về pháp luật đạo Hồi hiện đại cố gắng xích các trường
phái kể trên lại gần nhau hơn1.
Hiện nay nhà lập pháp ở các nước có truyền thống Islam thường vận dụng
những phương pháp của thuyết chiết trung khi thảo ra các bộ luật, ví dụ như
trong lĩnh vực luật gia đình2.
Hồi giáo dòng Shia là dòng Hồi giáo lớn thứ hai sau Hồi giáo Sunni.
Những tín đồ Hồi giáo Shia được gọi là những người Hồi giáo Shi’ites hoặc
Shias. Shia là chữ viết tắt của cụm từ Shi’atu ‘Ali có nghĩa là người tin theo Ali
hoặc Trường phái Ali. Hồi giáo Shia cho rằng gia đình của Mohammed (với tên
gọi Ahl al-Bayt) và một số thành viên nhất định trong số những người kế thừa
của ngài (gọi là các Imam) là những người có đầy đủ thần quyền và thế quyền
để cai trị cộng đồng Hồi giáo. Các tín đồ Hồi giáo Shia cũng tin rằng Ali (con rể
của Mohammed) là người đầu tiên trong những Imam này và do vậy là người kế
thừa chính thức của Mohammed. Điều này có nghĩa là Hồi giáo Shia phủ nhận
tính hợp pháp của 3 vị Caliph khác.
Tín đồ Hồi giáo Shias coi Ali là lãnh đạo tôn giáo quan trọng thứ hai sau
Nhà tiên tri Mohammed và họ cũng cho rằng Mohammed đã nhiều lần chỉ ra
rằng Ali sẽ là người kế thừa vị trí lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo sau khi ngài mất.
Ali với tư cách người kế thừa của Mohammed không chỉ nắm quyền lãnh đạo
mà còn có quyền diễn giải Luật Sharia và những hàm ý bí truyền của luật này.
Ali được coi là vị Imam đầu tiên, là người “hoàn hảo” và tín đồ Hồi giáo Shia

chỉ chấp nhận các Hadith về Mohammed và các Imam (chứ không chấp nhận
các Hadith của người đồng hành Sahabah như đối với Hồi giáo Sunni)
Sự khác biệt trong chấp nhận các Hadith được coi là một trong những
khác biệt và mâu thuẫn lớn giữa Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Shia.


1

Smit W.C. Étude L’lslam dans le monde moderne. 1962

2

Chehata C. Étude de droit musulman, 1970, P.19
IX.

Xem xét tính hợp hiến của pháp luật (Judicial review )

Bảo đảm sự tôn trọng đối với hiến pháp là điều kiện cốt lõi cho sự hình thành
Nhà nước pháp quyền. Chắc chắn không thể có một xã hội thượng tôn luật
pháp chừng nào hiến pháp, đạo luật gốc của toàn bộ hệ thống pháp luật, ở
trong tình trạng dễ bị tổn thương bởi hành vi của các chủ thể trong đời sống
chính trị, pháp lý. Xem xét tính hợp hiến của một đạo luật, quyền lực xã
hội, thậm chí quyền lực tôn giáo như ở các nước theo đạo Hồi. Đối với các
nước thừa nhận tính tối cao của luật Hồi giáo thì bị chi phối mạnh.
Luật Hồi giáo được chia làm hai bộ phận:
+ Học thuyết tôn giáo: Chứa đựng các giáo điều mà tín đồ phải tin.
+ Luật thần thánh: Quy định những điều mà tín đồ phải làm và không được
làm.
- Luật Hồi giáo chỉ ràng buộc với những người theo đạo Hồi (điều chỉnh mối
quan hệ giữa các công dân theo Đạo Hồi).

- Luật Hồi giáo được hình thành khoảng thế kỷ VII (năm 622).
- Quan điểm pháp luật của những người theo Đạo Hồi: Là ý chí của thần
thánh (không bao giờ bị bác bỏ, không bao giờ bị thay đổi) => phải phục
tùng một cách tuyệt đối.
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật
là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình lập pháp.
Căn cứ đánh giá hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước


Thứ nhất, về tính hợp hiến. Đây là nhân tố hàng đầu đảm bảo sự thống nhất
của toàn bộ hệ thống pháp luật. Tính hợp hiến đòi hỏi tất cả các quy phạm
pháp luật thuộc bất kỳ một ngành luật nào trong hệ thống pháp luật cũng
không được trái hoặc mâu thuẫn với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ
bậc, hiệu lực pháp lý của văn bản, tạo thành một hệ thống thống nhất về tên
gọi với thứ bậc cao thấp khác nhau theo quy định của Hiến pháp. Các đạo
luật, pháp lệnh trái với Hiến pháp sẽ bị đình chỉ, bãi bỏ. Tính hợp hiến không
chỉ được xác định trên cơ sở những lời văn, những quy định cụ thể mà còn
trên cơ sở tinh thần, tư tưởng, nguyên tắc của Hiến pháp.
Thứ hai, về tính hợp pháp. Thuật ngữ này khi được sử dụng cùng với thuật
ngữ “tính hợp hiến” không bao hàm ý nghĩa về sự phù hợp với các quy định
của pháp luật nói chung (trong đó có Hiến pháp) mà chỉ đề cập đến sự phù
hợp với các quy định của các đạo luật và văn bản dưới luật. Theo nghĩa như
vậy, để bảo đảm tính hợp pháp, văn bản quy phạm pháp luật phải được ban
hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định. Bên cạnh đó, hình
thức của văn bản phải phù hợp với quy định về kỹ thuật văn bản.
Thứ ba, về tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Đây là phạm trù có liên hệ
mật thiết với hai phạm trù được trình bày trên (là tính hợp hiến và tính hợp
pháp), bởi lẽ, khi văn bản pháp luật đã bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp thì
giữa chúng đã đạt được sự thống nhất nhất định, cả về nội dung và hình thức.
Có thể nói tính thống nhất là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất

lượng của một đạo luật, pháp lệnh. Tiêu chí này chủ yếu là để đánh giá mối
liên hệ gắn bó nội tại giữa các yếu tố nội dung của đạo luật, pháp lệnh cũng
như giữa đạo luật, pháp lệnh đó với toàn bộ hệ thống pháp luật. Ngoài ra,
tính thống nhất của hệ thống pháp luật cũng bao hàm cả sự thống nhất về mặt
hình thức. Tuy nhiên, về cơ bản, tính thống nhất về mặt nội dung luôn có vai
trò quyết định.
Khi xem xét tính thống nhất của hệ thống pháp luật, cần phải nghiên cứu
ở cả hai khía cạnh: Tính thống nhất trong chính đạo luật, pháp lệnh và tính
thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hoạt động của
bộ máy nhà nước nói chung, trong các văn bản quy phạm pháp luật và văn
bản áp dụng pháp luật nói riêng là một nguyên tắc, yêu cầu khách quan, tất
yếu của mọi Nhà nước.
Đạo Hồi chính là lời răn dạy của thánh Allah mà Mohammed đã tìm ra và
truyền lại cho người đời, điều đó đã được khái quất thông qua lời cầu
nguyện: “ Không có chúa trời khác nào ngoài Allah và Mohammed là tiên tri
của Ngài ” Luật Hồi giáo chính là hệ thống các quy định mang tính tôn giáo
của những người theo đạo và các quy định này hoàn toàn độc lập, không chịu
sự chi phối của nhà nước, không có quyền lực nào có thể thay thế luật Hồi
giáo.


Về nguyên tắc luật Hồi giáo không thay đổi, ổn định mà chỉ có các quan
hệ xã hội thay đổi nên nó phải được áp dụng mềm dẽo. và khó có thể phân
biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định của tôn giáo. Nhà cầm
quyền dù quốc vương hay nghị viện đều không phải là ông chủ của pháp luật
mà là kẻ phục vụ của nó theo pháp luật đạo Hồi. Nhưng pháp luật Hồi giáo
vẫn công nhận tính hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính quyền đưa
ra và thẩm quyền đó được áp dụng rộng rãi.


X.

Nguyên tắc về chống lợi nhuận bất hợp pháp ( the rule against
usury )

Từ Allah trong tiếng Ả Rập mang nghĩa là Thượng Đế. (Những Kitô
hữu người Ả Rập khi cầu nguyện cũng gọi Đức Chúa Cha là Allah). Thượng
Đế dĩ nhiên phải cao hơn Thánh và là duy nhất, vả lại trong đạo Hồi chính
thống hoàn toàn không có khái niệm Thánh. Người Do Thái giáo và Thiên
Chúa giáo cũng được tín đồ Hồi giáo tương đối coi trọng và gọi là Giáo Dân
Thánh Thư (People of The Book). Kinh Thánh Kitô giáo cũng là sách thiêng
trong Hồi giáo, có điều người ta coi nó không đầy đủ và hoàn thiện như
Koran.
Nói về những độc ác của Hồi Giáo Cực Đoan, người ta hay nhắc tới những
thánh chiến chống những người không phải là Hồi Giáo và các tối hậu thư
chính phủ Hồi Giáo trên khắp thế giới đều phi Hồi Giáo và bất hợp pháp,
Nguyên tắc chỉ đạo là: vô chính phủ và sát hại đồng đạo Hồi Giáo tệ hại …
XI.

Tổ chức của Hồi giáo

Tổ chức Hồi giáo trên thế giới gồm có hệ thống các chức sắc tôn giáo, các
nơi sinh hoạt tập thể của Hồi giáo. Về hệ thống chức sắc Hồi giáo thì từ khi
thành lập đến nay, nó không được thống nhất và luôn bị thay đổi tùy theo các
giáo phái Hồi giáo:
- Giáo chủ (còn gọi là Giáo trưởng) (tiếng Hồi: Califa, Emir) là người
đứng đầu một quốc gia Hồi giáo (Califate, Emirates)
- Ommal là người đứng đầu Hồi giáo ở tỉnh
- Hakim (giáo cả) là người cai quản thánh đường
- Naib Hakim (phó giáo cả), người phụ tá cho giáo cả

- Ahly, người đứng đầu thôn ấp Hồi giáo


×