Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.86 KB, 94 trang )

Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam phát triển theo xu
hướng mở cửa và hội nhập quốc tế, tỷ giá hối đoái đóng vai trò ngày càng
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế đối ngoại, có những ảnh
hưởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội của Việt Nam. Một trong những tác
động rõ nhất đó là tác động đến xuất nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng đến cán cân
thương mại, cán cân thanh toán của Việt Nam. Vì vậy, chính sách tỷ giá hối
đoái luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ trong việc điều hành kinh
tế vĩ mô. Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu việc
hiểu và vận dụng tốt tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho họ có được những phản ứng
kịp thời trước những biến động của tỷ giá, làm giảm các rủi ro trong kinh
doanh.
Với những kiến thức đã được học và thực tiễn, tôi quyết định chọn đề
tài: “Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại ở Việt Nam”.
Trong luận văn này không chỉ nghiên cứu những vẫn đề lý luận về tác động
của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại, mà còn phân tích thực tế tác động
của tỷ giá lên cán cân thương mại của Việt Nam qua các thời kỳ và dựa vào
số liệu thu thập được trong giai đoạn (1996-2007) để phân tích định lượng
mối quan hệ giữa tỷ giá và cân cân thương mại.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và bài học kinh nghiệm về chính sách
tỷ giá ở một số nước, luận văn phân tích tình hình thực hiện chính sách tỷ giá
Page 1


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại


hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam thời gian qua, từ đó có những
đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
− Nghiên cứu cơ sở lý luận về tác động tỷ giá hối đoái đến cán cân
thương mại.
− Nghiên cứu chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam qua các thời kỳ.
− Nghiên cứu những tác động chủ yếu của tỷ giá hối đoái đến cán cân
thương mại thông qua hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
− Đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tỷ
giá hối đoái trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh. Đặc biệt, luận văn
đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để kiểm định tác động của tỷ giá hối đoái
lên cán cân thương mại của Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn luận văn đã có những đóng góp
sau:
 Hệ thống hóa lý thuyết về tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân
thương mại.
 Đánh giá tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại của Việt
Nam trong thời gian qua.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả chính sách
tỷ giá trong thời gian tới.
Page 2


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

6. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm có 3 phần chính:
Chương I: Những vấn đề lý luận về tác động của tỷ giá hối đoái đến
cán cân thương mại
Chương II: Thực trạng tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt
Nam trong thời gian qua
Chương III: Một số định hướng và giải pháp về chính sách tỷ giá hối
đoái trong thời gian tới.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Viện Đào tạo Sau đại học, Khoa
Kinh tế học, Bộ môn Kinh tế vĩ mô trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp
đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS.
Nguyễn Văn Công đã hướng dẫn rất tận tình và tỉ mỉ trong suốt thời gian tôi
viết luận văn này!

Page 3


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Chương 1
Những vấn đề lý luận về tác động của tỷ giá hối đoái đến cán
cân thương mại

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Tỷ giá hối đoái
1.1.1.1. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế
Trước hết, chúng ta cần phân biệt tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá
hối đoái thực tế.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (ER)
Nhìn chung, các nhà kinh tế thống nhất định nghĩa tỉ giá hối đoái là tỉ lệ

trao đổi giữa tiền của hai quốc gia. Chẳng hạn, Christopher Pass và Bryan
Lowes trong cuốn Distionary of Economics cho rằng: “Tỷ giá hối đoái là giá
của một loại tiền tệ được biểu hiện qua giá một tiền tệ khác.” hay Paul
Samuelson trong cuốn Kinh tế học đã viết: “Tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi
tiền của một nước lấy tiền của một nước khác”. Đó thực ra là tỷ giá hối đoái
danh nghĩa song phương, một khái niệm được sử dụng rất rộng rãi trong các
giao dịch hàng ngày cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ví dụ, Khi đến ngân hàng, bạn thấy tỷ giá giữa đồng đôla Mỹ và đồng
Việt Nam niêm yết là 18.000 đồng/một đôla 1,có nghĩa bạn sẽ nhận được 1
đôla khi bạn đưa cho nhân viên ngân hàng 18.000 đồng, và ngược lại bạn sẽ
có được 18.000 đồng khi bạn bán cho ngân hàng 1 đôla.

1

Trong thực tế ngân hàng sẽ niêm yết giá bán và mua đôla khác nhau. Sự chênh lệch này là một trong những
nguồn lợi nhuận của ngân hàng. Để đơn giản, chúng ta sẽ bỏ qua sự chênh lệch này.

Page 4


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Nếu tỷ giá hối đoái thay đổi sao cho 1 đôla có thể đổi được nhiều đồng
Việt Nam hơn thì chúng ta gọi đó là sự giảm giá của đồng Việt Nam. Ngược
lại, nếu 1 đôla mua được ít đồng Việt Nam hơn thì chúng ta gọi đó là sự lên
giá của đồng Việt Nam. Ví dụ, khi giá đô la tăng từ 18.000 đồng lên 18.500
đồng, thì đồng Việt Nam được coi là giảm giá và đồng đôla được coi là lên
giá.
Chúng ta thường nghe thấy trên các phương tiện thông tin đại chúng
nói rằng đồng Việt Nam mạnh hay yếu, điều này thường đề cập đến sự thay

đổi trong tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Khi một đồng tiền lên giá, người ta gọi
đồng tiền đó mạnh hơn vì nó có thể mua được nhiều ngoại tệ hơn. Ngược lại,
khi một đồng tiền giảm giá, người ta gọi đồng tiền đó yếu đi.
Tỷ giá có thể được niêm yết theo hai cách: trực tiếp hoặc gián tiếp.
Cách thứ nhất, yết giá trực tiếp, có nghĩa là giá đồng ngoại tệ tính theo nội tệ
và do đó sự tăng lên của tỷ giá có nghĩa là đồng nội tệ xuống giá. Cách thứ
hai, yết giá gián tiếp, có nghĩa là giá một đồng nội tệ bằng bao nhiêu đồng
ngoại tệ, với hình thức yết giá này thì sự tăng lên của tỷ giá có nghĩa là đồng
nội tệ lên giá. Trong luận văn này, chúng ta ngầm định sử dụng cách yết giá
thứ nhất: tỷ giá hối đoái được tính bằng số đơn vị nội tệ đổi lấy một đơn vị
ngoại tệ và ký hiệu là ER.
Tỷ giá hối đoái thực tế (RER)
Tỷ giá hối đoái thực tế là giá tương đối của hàng hoá và dịch vụ được
trao đổi giữa hai nước. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái thực tế cho chúng ta
biết tỷ lệ mà dựa vào đó hàng hoá một nước được trao đổi với hàng hoá của
nước khác. Tỷ giá hối đoái thực tế đôi khi còn được gọi là tỷ lệ trao đổi. Như
vậy khi một nước có giao thương với các nước trên thế giới (có xuất, nhập
khẩu hàng hoá) thì ngoài việc chịu tác dụng của tỷ giá hối đoái danh nghĩa
còn chịu tác động bởi tỷ giá hối đoái thực tế, có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh
Page 5


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

nghĩa được điều chỉnh theo lạm phát tương đối giữa trong nước và nước
ngoài. Ví dụ: giá bán 1 áo sơ mi tại Mỹ là 50đôla, chiếc áo sơ mi tương tự của
Việt Nam giá là 450.000 đồng. Để so sánh được chúng ta chuyển về đồng
Việt Nam theo tỷ giá là 18.000 đồng/đôla, áo sơ mi Mỹ có giá là 900.000
đồng, đem so sánh ta nhận thấy 1 áo sơ mi Mỹ bằng 2 áo sơ Việt Nam..
Vì các nhà kinh tế vĩ mô quan tâm đến nền kinh tế với tư cách một tổng

thể, nên họ chú ý tới mức giá chung, chứ không xem xét từng loại giá riêng
biệt. Do vậy, thay vì dùng giá áo sơ mi để tính tỷ giá hối đoái thực tế, các nhà
kinh tế vĩ mô sử dụng chỉ số giá của mỗi nước. Công thức tính tỷ giá hối đoái
thực tế cho một quốc gia như sau:
RER =

ER.P *
P

(1-1)

Trong đó:
+ RER là tỷ giá đối đoái thực tế.
+ RER là tỷ giá đối đoái danh nghĩa.
+ P là chỉ số giá trong nước.
+ P* là chỉ số giá ở nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái thực tế cho biết giá cả một giỏ hàng hoá và dịch vụ của
nước ngoài so với giá một giỏ hàng hoá và dịch vụ trong nước tính theo cùng
một loại tiền (trong trường hợp này là tính theo đồng bản tệ). Khi RER tăng,
đồng bản tệ được coi là giảm giá thực tế so với đồng tiền nước ngoài. Khi
RER giảm, đồng bản tệ được là lên giá thực tế so với đồng tiền nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái thực tế là nhân tố quyết định một nước sẽ xuất khẩu và
nhập khẩu mặt hàng gì với số lượng là bao nhiêu. Ví dụ: Việt Nam sẽ nhập
phôi thép của Trung Quốc hay Nhật Bản? Để có được quyết định nhà nhập
khẩu đã so sánh xem giá phôi thép của nước nào rẻ hơn, thông qua tỷ giá hối
đoái thực tế.

Page 6



Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

1.1.1.2. Tỷ giá hối đoái bình quân
Trong tiểu mục trước, thực ra chúng ta đã bàn về tỷ giá hối đoái song
phương: mối tương quan giữa tiền của hai quốc gia (tỷ giá hối đoái danh
nghĩa) hay giá tương đối giữa hàng của hai quốc gia (tỷ giá hối đoái thực tế).
Với tư cách là một biến số kinh tế vĩ mô, chúng ta cần hiểu khái niệm này một
cách chính xác hơn. Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng một quốc gia có sự
liên kết thương mại và tài chính với nhiều nước trên thế giới và do đó đồng
bản tệ được chuyển đổi với nhiều đồng tiền khác. Ví dụ, đồng Việt Nam
(VND) có thể được chuyển đổi với yên Nhật (JPY), Bảng Anh (GBP), đô la
Mỹ (USD) v.v… Khi nghiên cứu những thay đổi trong tỷ giá, các nhà kinh tế
thường sử dụng các chỉ số mang thông tin trung bình về các tỷ giá này. Cũng
giống như chỉ số giá tiêu dùng chuyển nhiều loại giá trong nền kinh tế về một
loại giá, một chỉ số tỷ giá hối đoái chuyển các tỷ giá hối đoái khác nhau thành
một thước đo duy nhất về giá trị quốc tế của đồng bản tệ. Trong hầu hết các
trường hợp, tỷ giá bình quân được hiểu là số bình quân gia quyền của hầu hết
các tỷ giá song phương quan trọng với mức gia quyền được xác định bởi tỷ
trọng của mỗi loại ngoại tệ trong kim ngạch ngoại thương của nước đó.
EER = ERi x Wi

(1-2)

REER = RERi x Wi

(1-3)

Trong đó EER và REER là tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế bình
quân tương ứng; ERi và RERi là tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế song
phương với nước i và Wi là tỷ trọng thương mại của nước i trong tổng giá trị

thương mai của nước đang xét.
1.1.1.3. Tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn
Ngoài ra, trong giao dịch tỷ giá hối đoái danh nghĩa còn có phân thành
tỷ giá giao ngay (Spot rate) và tỷ giá kỳ hạn (forward rate). Tỷ giá giao ngay
được áp dụng khi giao dịch ngoại hối được thực hiện ngay lập tức. Ngoài ra,
Page 7


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

các tổ chức kinh tế còn có thể ký một hợp đồng về giao dịch ngoại tệ vào một
thời điểm xác định trong tương lai với mức tỉ giá được xác định ngay từ hôm
nay (tỷ giá kỳ hạn). Thông thường kỳ hạn thanh toán có thể là là 30 ngày, 90
ngày, 180 ngày, 9 tháng, và 1 năm.
1.1.1.3. Tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen
Tỷ giá chính thức là tỷ giá do NHNN công bố và được áp dụng đối với
các giao dịch chính thức diễn ra trên thị trường liên ngân hàng cũng như là cơ
sở để tính thuế xuất nhập khẩu và các hoạt động của chính phủ liên quan đế
ngoại hối.
Tỷ giá chợ đen được hình thành trên thị trường song hành bên ngoài hệ
thống ngân hàng do quan hệ cung cầu thị trường quyết định.
1.1.1.4. Các yếu tố chủ yếu quyết định tỷ giá hối đoái
Các nhà kinh tế đã nghiên cứu rất nhiều về các yếu tố quyết định tỷ giá
hối đoái. Hầu hết các bằng chứng thực nghiệm cho thấy sự biến động của tỷ
giá hối đoái mang tính ngẫu nhiên vì dường như nó không thể được giải thích
bằng các biến vĩ mô mang tính cơ cấu. Mục đích của tiểu mục này là phân
tích các yếu tố quyết định sự biến động của tỷ giá hối đoái dựa trên các cách
tiếp cận kinh tế vĩ mô.
Mô hình đơn giản nhất và xuất hiện sớm nhất để xác định tỷ giá hối
đoái là lý thuyết sức mua tương đương (PPP). Theo lý thuyết này, một đồng

tiền phải có sức mua như nhau ở tất cả các nước. Nghĩa là, 1 đô la Mỹ có thể
mua được một lượng hàng hoá như nhau ở Mỹ và Nhật và 1 yên có thể mua
được một lượng hàng hoá như nhau ở Nhật và ở Mỹ. Quả thực tên của lý
thuyết này nói rất rõ nội dung của nó. Ngang bằng nghĩa là bằng nhau và sức
mua nói lên giá trị của tiền. Lý thuyết ngang bằng sức mua phát biểu rằng một
đơn vị của tất cả các đồng tiền phải có cùng một giá trị thực tế ở mọi nước.

Page 8


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Chúng ta cần phân biệt PPP tuyệt đối và PPP tương đối. Theo lý thuyết
PPP tuyệt đối, tỷ giá hối đoái sẽ điều chỉnh để đảm bảo cho giá cả như nhau ở
mọi nước trên thế giới. Do đó, đồng nội tệ sẽ giảm giá so với ngoại tệ khi
mức giá trong nước tăng lên so với mức giá ở nước ngoài. Tuy nhiên, giả thiết
này không bao giờ hoàn hảo do có tồn tại những rào cản tự nhiên và nhân tạo
đối với thương mại quốc tế như chi phí vận tải và bảo hiểm quốc tế, thông tin
không hoàn hảo và các chính sách bảo hộ như thuế quan và hạn ngạch. Khi
đó, theo lý thuyết PPP tương đối, tỷ giá hối đoái sẽ điều chỉnh theo chênh lệch
lạm phát giữa trong nước và ở nước ngoài.
%ΔER = π - π*

(1-4)

trong đó:
+ %ΔER là phần trăm thay đổi của tỷ giá hối đoái.
+ π là tỷ lệ lạm phát trong nước.
+ π* là tỷ lệ lạm phát ở nước ngoài.
Lý thuyết ngang bằng sức mua là một mô hình đơn giản nhất cho biết

tỷ giá hối đoái danh nghĩa được xác định như thế nào. Lý thuyết này giải thích
tốt nhiều hiện tượng kinh tế. Đặc biệt, nó giải thích các xu hướng dài hạn như
sự xuống giá của đô la so với Euro và sự lên giá của đô la so với đồng yên.
Đồng thời, lý thuyết này có thể giải thích được những thay đổi lớn trong tỷ
giá hối đoái danh nghĩa xảy ra khi có lạm phát cao.
Thế nhưng, lý thuyết ngang bằng sức mua không hoàn toàn chính xác.
Nghĩa là, tỷ giá hối đoái không luôn thay đổi để đảm bảo rằng 1 đô la luôn có
giá trị thực tế như nhau ở tất cả các nước trong mọi thời gian. Để những biến
động của tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn, chúng ta cần sử dụng các lý thuyết
khác.
Theo cách tiếp cận cán cân thanh toán tỷ giá hối đoái được quyết định
bởi các giao dịch quốc tế giữa một nước và thế giới bên ngoài. Do đó, tỷ giá
Page 9


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

hối đoái sẽ điều chỉnh để cân bằng tổng các khoản mục có của cán cân thanh
toán quốc tế (dòng ngoại tệ chảy vào tạo thành cung ngoại tệ) và tổng các
khoản mục nợ của cán cân thanh toán quốc tế (dòng ngoại tệ chảy ra tạo thành
cầu ngoại tệ).
Theo cách tiếp cận tiền tệ tỷ giá hối đoái đơn thuần là hiện tương tiền tệ
phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu tiền tương đối giữa trong nước và ở
nước ngoài. Khi cung tiền trong nước tăng một cách tương đối so với cung
tiền ở nước ngoài thì đồng nội tệ sẽ giảm giá so với ngoại tệ và ngược lại.
Theo cách tiếp cận cân bằng danh mục đầu tư người dân giữ các danh
mục đầu tư được đa dạng hóa bao gồm chứng khoán của tất cả các nước trong
đó trái phiếu trong nước và trái phiếu nước ngoài thay thế không hoàn hảo.
Nếu cung về tài sản của một nước tăng, các nhà đầu tư sẽ chỉ giữ tài sản đó
nhiều hơn một khi họ có được bù đắp bằng khoản thu nhập cao hơn. Khi cung

trái phiếu trong nước tăng một cách tương đối so với trái phiếu ngoại, khoản
bảo hiểm rủi ro sẽ tăng lên đối với tài sản nội, điều này sẽ làm cho đồng nội tệ
giảm giá trên thị trường giao ngay.
Sự gia tăng lãi suất trong nước, sự cắt giảm lãi suất ở nước ngoài, hay
kỳ vọng đồng nội tệ lên giá sẽ làm cho các nhà đầu tư tái phân bổ danh mục
đầu tư của họ: chuyển từ trái phiếu ngoại sang trái phiếu nội và kết quả là
đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ. Sự gia tăng cung tiền làm tăng cầu về trái
phiếu nội và trái phiếu ngoại. Dư cầu về trái phiếu ngoại làm tăng cầu về
ngoại tệ và làm cho đồng nội tệ giảm giá. Cuối cùng, sự gia tăng mức nắm giữ
ròng về trái phiếu ngoại gây ra bởi thặng dư tài khoản vãng lai sẽ làm tăng
cầu về trái phiếu trong nước, làm giảm lãi suất và đồng nội tệ lên giá.
1.1.1.5. Chính sách tỷ giá hối đoái
Mỗi một nước trên thế giới khi bắt đầu mối quan hệ kinh tế và thương
mại hoặc các mối quan hệ khác với một quốc gia nào đó đều phải thiết lập
Page 10


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

mối quan hệ giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền của nước đó. Từ đó
hình thành nên chính sách tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ giá hối đoái là một
công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng. Theo Luật Ngân hàng hàng Nhà nước Việt
Nam, chính sách tỷ giá là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ quốc
gia nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần phát triển
kinh tế xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác
động vào cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối
đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối
đoái tập trung vào hai vấn đề lớn: i) Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái (cơ chế
vận động của tỷ giá hối đoái); ii) Điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ giá

hối đoái là một chính sách lớn của hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô.
Là một công cụ điều tiết vĩ mô, chính sách tỷ giá hối đoái hướng tới các
mục tiêu chung là đảm bảo ổn định kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
đang nổi lên thành một xu thế tất yếu của các quan hệ quốc tế hiện đại, chính
sách tỷ giá hối đoái ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
các quan hệ kinh tế đối ngoại.
1.1.2. Cán cân thương mại
Cán cân thương mại của một nước chính là chênh lệch giữa kim ngạch
xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu về hàng hóa và dịch vụ. Việc bán gạo ra
nước ngoài làm cho cán cân thương mại của Việt Nam tăng lên, trong khi việc
mua máy bay Boing làm cho cán cân thương mại của Việt Nam giảm xuống.
Cán cân thương mại cho biết về tổng thể một nước là người mua ròng hay bán
ròng trên thị trường hàng hoá và dịch vụ thế giới. Nếu cán cân thương mại
thặng dư, tức giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu, thì lượng tiền mà
nền kinh tế thu về từ bán hàng hoá và dịch vụ ra thế giới bên ngoài nhiều hơn
Page 11


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

lượng tiền chi trả cho thế giới bên ngoài về hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu từ
nước ngoài. Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt, tức giá trị xuất khẩu nhỏ
hơn giá trị nhập khẩu, thì nền kinh tế mua hàng hoá từ nước ngoài nhiều hơn
lượng bán ra. Nếu cán cân thương mại bằng cân bằng, tức giá trị xuất khẩu
bằng đúng giá trị nhập khẩu, thì nền kinh tế bán hàng hoá ra thế giới bên
ngoài đúng bằng lượng mua vào.
Việc quan sát và phân tích diễn biến của cán cân thương mại có ý nghĩa
trong thực tiễn bởi:
+ Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần

quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai.
+ Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán
cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời
các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hoá, trong khi đó việc thu thập thông tin
về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lại thường diễn ra chậm hơn, tức là
có một độ trễ nhất định về thời gian. Do tầm quan trọng của cán cân thương
mại, cho nên hầu hết các nước phát triển thường công bố tình trạng cán cân
này hàng tháng.
Vậy điều gì quyết định giá trị xuất khẩu, giá trị nhập khẩu và cán cân
thương mại của một quốc gia? Chúng ta có thể dễ dàng đưa ra các yếu tố
chính có thể ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu, giá trị nhập khẩu và cán cân
thương mại của một quốc gia.
+ Xuất khẩu chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi thu nhập và sản lượng của các
nước khác, và do đó liên quan đến thực tế là nền kinh tế thế giới đang ở trong
thời kỳ bùng nổ hay suy thoái. Kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia có xu
hướng tăng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới bùng nổ do ký được nhiều hợp
đồng ngoại hơn với giá cao hơn. Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu của một
quốc gia có xu hướng giảm trong bối cảnh nền kinh tế thế giới lâm vào suy
Page 12


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

thoái do khó ký được hợp đồng ngoại hơn và giá cả trên thị trường thế giới
nhìn chung thấp hơn.
+ Nhập khẩu lại phụ thuộc vào GDP trong nước. Nhập khẩu của một
nước có xu hướng tăng khi kinh tế trong nước tăng trưởng mạnh và giảm
trong bối cảnh suy giảm kinh tế.
+ Cả xuất khẩu và nhập khẩu đều phụ thuộc vào giá cả tương đối của
hàng nội so với hàng ngoại được biết đến với tên gọi là tỷ giá hối đoái thực tế.

Đồng nội tệ lên giá thực tế có nghĩa là giá hàng nội tăng một cách tương đối
so với giá hàng ngoại. Khi đó, xuất khẩu có xu hướng giảm và nhập khẩu có
xu hướng tăng. Trong mục 1.1.2 chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu tác động của
nhân tố này.
+ Vì chính phủ thường đưa ra các chính sách nhằm ảnh hưởng đến
thương mại quốc tế, do vậy chúng ta cần đánh giá đúng mức ảnh hưởng của
các chính sách này, chẳng hạn như chính sách thuế và trợ cấp xuất khẩu cũng
như các biện pháp kiểm soát trực tiếp (như hạn ngạch).
Do tất cả các biến số này thay đổi theo thời gian, nên cán cân thương
mại cũng thường xuyên thay đổi. Trong mục 1.2 chúng ta sẽ đi sâu phân tích
tác động của sự thay đổi tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại của một quốc
gia.
1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại
Các nhà kinh tế đặc biệt quan tâm đến ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá
hối đoái đến cán cân thương mại. Câu hỏi trung tâm trong nhiều cuộc tranh
luận chính sách là liệu phá giá một đồng tiền có giúp cải thiện cán cân thương
mại của một quốc gia hay không? Tiểu mục này sẽ hệ thống hóa các cách tiếp
cận khác nhau về ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá hối đoái đến cán cân
thương mại.

Page 13


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

1.2.3.1. Cách tiếp cận hệ số co dãn
Cách tiếp cận này do A. Marshall, A. Lerner, J. Tobinson và F. Machlup
khởi xướng nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với cán cân
tài khoản vãng lai trong đó trung tâm là cán cân thương mại. Cách tiếp cận
này giả thiết thu nhập và các biến khác cho trước; cung ứng về xuất khẩu và

nhập khẩu là hoàn toàn co dãn. Điều này có nghĩa sự thay đổi nhu cầu không
ảnh hưởng đến giá cả, tức là mọi giá cả đều cố định, chỉ có giá cả tương đối
thay đổi do sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Tư tưởng chính của cách tiếp cận hệ số co dãn là phá giá tiền tệ có ảnh
hai mặt đến cán cân vãng lai : một mặt nó làm giảm thâm hụt, mặt khác nó
cũng góp phần làm tăng thâm hụt.
+ Hiệu ứng giá cả - so với trước khi phá giá, xuất khẩu trở nên rẻ hơn
tính bằng ngoại tệ, trong khi đó nhập khẩu trở nên đắt hơn tính bằng nội tệ.
Hiệu ứng giá cả rõ ràng làm cán cân tài khoản vãng lai xấu đi.
+ Hiệu ứng số lượng - xuất khẩu trở nên rẻ hơn sẽ được mở rộng và
nhập khẩu trở nên đắt hơn sẽ bị hạn chế về số lượng. Như vậy, hiệu ứng số
lượng có tác dụng cải thiện cán cân tài khoản vãng lai.
Ảnh hưởng ròng của phá giá đến cán cân vãng lai phụ thuộc vào phải
chăng là hiệu ứng giá cả hay hiệu ứng số lượng có ảnh hưởng mạnh hơn.
Giả sử ban đầu cán cân vãng lai ở trạng thái cân bằng. Theo điều kiện
Marshall-Lerner, phá giá tiền tệ sẽ cải thiện cán cân tài khoản vãng lai chỉ khi
tổng hệ số co dãn của nhu cầu xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1. Ngược lại,
nếu tổng của những hệ số co dãn này nhỏ hơn 1 thì phá giá tiền tệ sẽ làm cán
cân tài khoản vãng lai chuyển từ cân bằng sang thâm hụt.

Page 14


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Thặng dư
cán cân
thương mại

0


Thời gian
gian

Thâm hụt

Hình 1.1: Đường hình chữ J về ảnh hưởng của phá giá đến cán cân
thương mại
Trong thực tế, người ta thấy rằng các hệ số co dãn này thường nhỏ
trong ngắn hạn, nhưng sẽ tăng dần theo thời gian. Điều này hàm ý ảnh hưởng
của phá giá đến cán cân vãng lai có thể được biểu diễn bằng đường hình chữ
J. Trong ngắn hạn, cán cân tài khoản vãng lai thường xấu đi do khối lượng
nhập khẩu và xuất khẩu chưa kịp thay đổi, nhưng khi chúng đã điều chỉnh phù
hợp với điều kiện mới, cán cân vãng lai sẽ được cải thiện. Những nguyên
nhân chính làm cho phản ứng của khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu diễn ra
chậm chạp là:
+ Sự chậm trễ trong phản ứng của người tiêu dùng. Cần phải có thời
gian để người tiêu dùng ở cả nước phá giá lẫn thế giới bên ngoài điều chỉnh
hành vi mua hàng trước môi trường cạnh tranh đã thay đổi. Chuyển từ tiêu
dùng các hàng nhập khẩu sang các hàng sản xuất trong nước nhất định cần
phải có thời gian vì người tiêu dùng trong nước khi quyết định mua hàng
không chỉ quan tâm đến sự thay đổi của giá cả tương đối mà cả nhiều yếu tố
khác chẳng hạn thói quen và sự nổi tiếng của sản phẩm; trong khi người tiêu

Page 15


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

dùng nước ngoài có thể không thích chuyển từ tiêu dùng hàng bản địa sang

hàng nhập khẩu từ các nước phá giá.
+ Sự chậm trễ trong phản ứng của người sản xuất. Ngay cả khi phá giá
cải thiện được khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, những người sản xuất
trong nước cũng cần có thời gian để mở rộng sản xuất. Hơn nữa, các đơn đặt
hàng thường được đặt trước và những hợp đồng như vậy không thể huỷ bỏ
trong ngắn hạn. Các nhà máy không thể huỷ bỏ hợp đồng đối với đầu vào và
nguyên liệu thô quan trọng.
+ Sự cạnh tranh không hoàn hảo. Sự thâm nhập và gây được ảnh hưởng
trên thị trường thế giới là một công việc khó khăn và mất nhiều thời gian. Các
nhà xuất khẩu nước ngoài có thể không chịu chia sẻ thị trường và có thể phản
ứng trước sự suy giảm khả năng cạnh tranh của họ bằng cách giảm giá hàng
xuất khẩu của họ sang nước phá giá. Tương tự, những ngành công nghiệp
nước ngoài phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước phá giá có thể
phản ứng trước sự suy giảm của khả năng cạnh tranh bằng cách giảm giá cả
trên thị trường trong nước, và do đó hạn chế khối lượng nhập khẩu từ các
nước phá giá. Những ảnh hưởng này có thể dựa trên sự cạnh tranh không
hoàn hảo cho phép những doanh nghiệp nước ngoài thu được một mức lợi
nhuận siêu ngạch nào đó và do vậy có thể cắt giảm giá cả để đối phó với sự
suy giảm của khả năng cạnh tranh. Song trong môi trường cạnh tranh gay gắt,
các doanh nghiệp chỉ thu được mức lợi nhuận trung bình và không thể cắt
giảm giá cả cho các sản phẩm của mình.
+ Giá cả của hàng xuất khẩu tính bằng đồng nội tệ có xu hướng tăng
lên cùng với phá giá. Nhiều hàng nhập khẩu được sử dụng làm đầu vào của
các ngành công nghiệp xuất khẩu. Công nhân có thể cũng đòi hỏi tăng lương
để bù đắp sự gia tăng giá cả nhập khẩu. Điều này phần nào làm tăng giá cả
xuất khẩu và do đó làm giảm lợi thế cạnh tranh của phá giá tiền tệ.
Page 16


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại


+ Một lập luận khá phổ biến cho rằng phá giá thường có hiệu quả hơn ở
các nước phát triển so với các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát
triển phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu và do đó hệ số co dãn của cầu nhập
khẩu theo giá dường như rất thấp. Trong khi đó, các nước phát triển thường
phải đối phó với cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu và do đó hệ số
co dãn của cầu về xuất khẩu theo giá có thể rất cao. Do vậy, điều kiện
Marshall-Lerner chỉ ra rằng phá giá có thể chỉ cải thiện cán cân thanh toán
của một số nước chứ không phải tất cả các nước.
1.2.3.2. Cách tiếp cận chi tiêu
Một nhược điểm cơ bản của cách tiếp cận hệ số co dãn là dựa trên giả
thiết rằng các biến số khác không đổi. Tuy nhiên, sự thay đổi trong khối
lượng xuất nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến thu nhập quốc dân. Do vậy, để có
được sự đánh giá toàn diện hơn về tác động của tỷ gia hối đoái đến cán cân
vãng lai nói riêng và nền kinh tế nói chung, chúng ta cần tính đến hiệu ứng
thu nhập.
Cách tiếp cận chi tiêu xuất phát từ đồng nhất thức xác định thu nhập
quốc dân:
Y=C+I+G+X-M

(1-5)

trong đó:
+ C là tiêu dùng;
+ I là đầu tư;
+ G là chi tiêu chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ;
+ X là xuất khẩu;
+ M là nhập khẩu.
Nếu coi tổng chi tiêu trong nước là A = C + I + G và X – M chính là
cán cân thương mại (TB) thì phương trình trên có thể viết lại như sau :

TB = X - M = Y - A

(1-6)
Page 17


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Phương trình này chỉ ra rằng cán cân vãng lai chính là sự chênh lệch
giữa sản lượng trong nước và chi tiêu trong nước. Thặng dư cán cân vãng lai
hàm ý rằng sản lượng trong nước cao hơn chi tiêu trong nước, ngược lại thâm
hụt cán cân vãng lai hàm ý rằng sản lượng trong nước thấp hơn chi tiêu trong
nước. Chuyển phương trình trên thành dạng thay đổi chúng ta có thể viết :
dCA = dY - dA

(1-7)

Theo phương trình này, ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến cán cân vãng
lai tuỳ thuộc vào hiệu ứng tương đối của nó đến thu nhập quốc dân và chi tiêu
trong nước. Nếu phá giá làm tăng thu nhập trong nước nhiều hơn so với chi
tiêu trong nước thì cán cân vãng lai sẽ được cải thiện. Trong trường hợp
ngược lại, cán cân vãng lai sẽ bị xấu đi. Điểm mấu chốt của cách tiếp cận chi
tiêu đối với cán cân thanh toán là xem xét ảnh hưởng của phá giá đến cả thu
nhập và chi tiêu trong nước.
Ảnh hưởng của phá giá đến chi tiêu trong nước bao gồm hai mặt. Một
mặt, phá giá ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu trong nước, ký hiệu là Ad. Mặt
khác, phá giá ảnh hưởng gián tiếp đến chi tiêu trong nước thông qua sự thay
đổi của thu nhập thực tế theo xu hướng chi tiêu cận biên a. Do vậy, sự thay
đổi của tổng chi tiêu trong nước dA có thể được xác định bởi phương trình
sau:

dA = adY + dAd.

(1-8)

Thay vào phương trình trên ta có
dCA = (1-a)dY - dAd

(1-9)

Phương trình này chỉ ra có ba nhân tố cần phải khảo sát khi xem xét
ảnh hưởng của phá giá. Phá giá có thể ảnh hưởng đến cán cân vãng lai thông
qua sự thay đổi của xu hướng chi tiêu cận biên (a); thu nhập trong nước (dY);
và chi tiêu trực tiếp (dAd). Điều kiện để đảm bảo phá giá cải thiện được cán
cân vãng lai là:
Page 18


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

(1-a)dY > dAd

(1-10)

Nghĩa là, sự thay đổi trong thu nhập không sử dụng để tăng chi tiêu
trong nước cần phải lớn hơn sự thay đổi chi tiêu do tác động trực tiếp của phá
giá.
Để xem xét điều kiện trên có được thoả mãn không, chúng ta cần phân
biệt hai trạng thái: khi nền kinh tế ở dưới mức toàn dụng nhân công và do vậy
thu nhập có thể tăng; và khi nền kinh tế đã ở trạng thái toàn dụng nhân công
và do vậy thu nhập quốc dân không thể tiếp tục tăng.

Ảnh hưởng của phá giá đến thu nhập quốc dân
Khi nền kinh tế ở dưới mức toàn dụng nhân công, phá giá tiền tệ có thể
làm tăng hoặc giảm thu nhập quốc dân. Có hai ảnh hưởng quan trọng của phá
giá đến thu nhập cần phải xem xét: hiệu ứng việc làm và hiệu ứng tỷ lệ trao
đổi.
Hiệu ứng việc làm: Nếu nền kinh tế ở dưới mức toàn dụng nhân công
và khi điều kiện Marshall-Lerner được thoả mãn, phá giá sẽ làm tăng cán cân
thương mại và do đó làm tăng thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, nếu điều kiện
Marshall-Lerner bị vi phạm thì cán cân thương mại sẽ giảm và do đó thu nhập
quốc dân cũng giảm. Do vậy, chúng ta chưa có câu trả lời rõ ràng rằng hiệu
ứng việc làm làm tăng hay giảm thu nhập quốc dân.
Hiệu ứng tỷ lệ trao đổi (terms of trade): Tỷ lệ trao đổi được tính bằng
tỷ lệ giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu. Phá giá làm cho hàng nhập khẩu trở
nên đắt hơn tính bằng đồng nội tệ. Trong khi giá xuất khẩu chưa thay đổi, tỷ
lệ trao đổi sẽ xấu đi và thu nhập quốc dân sẽ giảm bởi vì cần khối lượng xuất
khẩu nhiều hơn để đổi được một đơn vị nhập khẩu.
Tóm lại, ảnh hưởng của phá giá đến thu nhập trong nước là không rõ
ràng. Ngay cả khi cán cân thương mại tăng lên, ảnh hưởng ngược chiều của tỷ
lệ trao đổi cũng có thể làm giảm thu nhập quốc dân.
Page 19


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Khi thu nhập quốc dân tăng, điều đó cũng không có nghĩa là cán cân
thương mại sẽ được cải thiện. Điều này phụ thuộc vào giá trị của xu hướng
chi tiêu cận biên. Trường hợp thứ nhất: Nếu a nhỏ hơn 1, sự gia tăng thu nhập
do cán cân thương mại tăng dẫn đến sự cải thiện cán cân vãng lai. Trường
hợp thứ hai: Nếu a lớn hơn 1, thu nhập tăng làm chi tiêu trong nước tăng
nhiều hơn và cán cân vãng lai sẽ bị xấu đi. Tất nhiên, khi nền kinh tế đang ở

trạng thái toàn dụng nhân công, phá giá không thể làm tăng thu nhập. Trong
trường hợp này, để phá giá cải thiện được cán cân vãng lai, cần phải giảm chi
tiêu trực tiếp.
Ảnh hưởng của phá giá đến chi tiêu trực tiếp
Trong phần này, để đơn giản cho việc phân tích, chúng ta sẽ giả thiết
ảnh hưởng ròng của phá giá đến thu nhập bằng không. Chúng ta sẽ chỉ xem
xét ảnh hưởng của phá giá đến chi tiêu trực tiếp. Cán cân vãng lai sẽ được cải
thiện nếu phá giá làm giảm chi tiêu trực tiếp, ngược lại cán cân vãng lai sẽ
xấu đi nếu phá giá làm tăng chi tiêu trực tiếp. Chúng ta sẽ xem xét những khả
năng mà phá giá có thể tác động đến chi tiêu trực tiếp.
(i) Hiệu ứng cán cân thực tế: Với cung ứng tiền tệ cho trước, giả sử
các tác nhân kinh tế có xu hướng duy trì một khối lượng tiền thực tế nhất
định, phá giá sẽ làm tăng mức giá chung và buộc các tác nhân kinh tế phải
giảm chi tiêu để duy trì lượng tiền thực tế. Để tăng lượng tiền thực tế, họ sẽ
bán trái phiếu, giá trái phiếu sẽ giảm và lãi suất sẽ tăng. Điều này làm giảm
tiêu dùng và đầu tư, và do đó làm giảm tổng chi tiêu.
(ii)

Hiệu ứng phân phối lại: Mức giá tăng lên do phá giá có thể có

một số ảnh hưởng đến phân phối thu nhập. Thu nhập có xu hướng được phân
phối lại từ những người lao động có tiền lương chậm điều chỉnh sang các chủ
doanh nghiệp có thu nhập có thể tăng theo lạm phát. Điều này có xu hướng

Page 20


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

làm giảm tổng chi tiêu vì lao động có xu hướng tiêu dùng cận biên cao hơn

chủ doanh nghiệp.
(iii)

Hiệu ứng ảo giác tiền tệ: xảy ra khi người tiêu dùng quyết định

mua một khối lượng hàng hoá dịch vụ như cũ bất chấp giá cả tăng lên. Khi
đó, họ sẽ chi tiêu nhiều hơn trước kia.
(iv)

Hiệu ứng dự tính: Các tác nhân kinh tế có thể cho rằng sự gia

tăng giá cả do phá giá còn tiếp diễn trong tương lai. Điều này, một mặt, có thể
làm tăng chi tiêu và cán cân thanh toán trở nên xấu hơn. Nhưng, mặt khác, nó
có thể làm giảm đầu tư, và do đó giảm chi tiêu trong nước.
Tóm lại, ảnh hưởng của phá giá đến chi tiêu trực tiếp là không rõ ràng,
do vậy ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai là không xác định. Thực
ra, bức tranh sẽ trở nên phức tạp hơn một khi chúng ta thừa nhận rằng tất cả
các hiệu ứng diễn ra với tốc độ khác nhau và một số hiệu ứng trở nên đặc biệt
quan trọng ở một số nền kinh tế nhất định. Nhìn chung, cách tiếp cận chi tiêu
chỉ ra ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai rất khác nhau và đôi khi
trái ngược nhau.
Từ cách tiếp cận chi tiêu, chúng ta có thể rút ra một số bài học cho việc
hoạch định chính sách. Thứ nhất, việc tăng thu nhập trong nước một cách
tương đối so với chi tiêu trong nước sẽ cải thiện cán cân vãng lai. Hai là, phá
giá sẽ thành công hơn nếu đi kèm với các công cụ chính sách có tác dụng làm
tăng thu nhập và giảm chi tiêu trong nước.
1.2.3.3. Cách tiếp cận cơ cấu
Thuật ngữ “chủ nghĩa cơ cấu” lần đầu tiên được sử dụng để chỉ một
loại kinh tế học mô tả phân tích của các nhà kinh tế Mỹ La tinh về lạm phát ở
các quốc gia này. Những tư tưởng này được phổ biến rộng rãi vào những năm

1950 và 1960 và được đăng tải và tranh luận rộng rãi trên hàng loạt các bài
báo và ấn phẩm phát hành trong những năm 1960. Theo họ, một chính sách,
Page 21


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

chẳng hạn phá giá tiền tệ có thể có hiệu quả tốt trong bối cảnh các nước phát
triển, nhưng lại phản tác dụng trong điều kiện các nền kinh tế đang phát triển
do những nét đặc thù sau:
+ Vì đa số các nước đang phát triển (LDC) chỉ xuất khẩu các sản
phẩm thô và nhập khẩu các sản phẩm chế biến, và dường như khả năng thay
thế giữa các sản phẩm xuất khẩu, nhập khẩu và không thể thương mại được
rất thấp. Do đó việc hạn chế nhu cầu trong nước dường như ít có thể giải
phóng được nguồn lực nhằm tăng sản lượng phục vụ cho xuất khẩu như ở các
nước công nghiệp nơi mà các sản phẩm xuất khẩu cũng tương tự như các sản
phẩm tiêu dùng trong nước. Do đó các nước đang phát triển rất khó định
hướng lại sản xuất hiện tại hướng về xuất khẩu và họ cần phải dịch chuyển
các nguồn lực từ khu vực không thể thương mại được sang khu vực sản xuất
hàng thương mại mà điều này lại cần thời gian.
+ Giá xuất khẩu và nhập khẩu thường cố định theo ngoại tệ. Do đó
phá giá chỉ có thể tăng thu nhập xuất khẩu tính bằng ngoại tệ thông qua sự gia
tăng cung ứng. Hệ số co dãn của cung thường nhỏ trong ngắn hạn đặc biệt
trong khu vực sản xuất các sản phẩm thô.
Các nhà cơ cấu lập luận rằng phá giá tiền tệ có hai hiệu ứng: dịch
chuyển chi tiêu và giảm chi tiêu. Trong điều kiện của các nước đang phát triển
hiệu ứng giảm chi tiêu thường quan trọng hơn hiệu ứng thay thế chi tiêu.
Trước hết, nếu ban đầu thâm hụt thương mại lớn phá giá trong khi có
thể cải thiện được cán cân thương mại tính theo ngoại tệ, song lại làm giảm
tổng cầu do làm cho cán cân thương mại tính theo đồng nội tệ xấu đi. Trong

trường hợp này phá giá sẽ có ảnh hưởng thu hẹp bất chấp điều kiện MarshallLerner được thoả mãn.
Hai là, một số người cho rằng phá giá có thể có ảnh hưởng quan trọng
đến phân phối lại. Phá giá có thể làm tăng thu nhập của các nhà tư bản (bằng
Page 22


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

cách tăng tỷ lệ của các hàng hoá có thể thương mại) và giảm thu nhập thực tế
của lao động (nếu tiền lương chậm điều chỉnh). Nếu lao động có xu hướng
tiêu dùng cận biên lớn hơn các nhà tư bản thì tổng cầu sẽ giảm.
Ba là, phần lớn các nước đang phát triển đều có các khoản nợ nước
ngoài lớn. Phá giá làm tăng chi phí trả nợ nước ngoài tính bằng đồng nội tệ.
Nếu giá cả trong nước không tăng kịp tốc độ phá giá, thì giá trị thực tế của
các khoản nợ nước ngoài sẽ tăng. Do đó, nó có ảnh hưởng thu hẹp đối với
tổng cầu.
Bốn là, các nước đang phát triển thường được coi là các nền kinh tế
nhỏ, mở cửa. Trong ngắn hạn, sản xuất các sản phẩm xuất khẩu bị hạn chế bởi
năng lực sản xuất hiện có và bất cứ khối lượng xuất khẩu nào đều có thể bán
trên thị trường thế giới tại mức giá cho trước. Việc sản xuất hàng xuất khẩu và
khối lượng nhập khẩu không phản ứng trước sự thay đổi của giá cả trong ngắn
hạn. Tiền lương và lãi suất danh nghĩa giả thiết cố định. Giả sử chính phủ
đánh thuế xuất nhập khẩu. Nếu chính phủ có xu hướng tiết kiệm cận biên lớn
hơn trong ngắn hạn (xấp xỉ bằng 1) thì ảnh hưởng phân phối lại do phá giá
làm giảm tổng cầu. Nếu bắt đầu với thâm hụt cán cân thương mại, phá giá sẽ
làm tăng chi phí nhập khẩu tính bằng nội tệ so với việc tăng thu nhập từ việc
xuất khẩu một khối lượng không đổi. Do vậy, trong ngắn hạn, tổng cầu, sản
xuất các sản phẩm trong nước, và do đó sản lượng thực tế sẽ giảm.
Kết luận trở nên thuyết phục hơn khi đưa thêm mặt cung vào mô hình.
Phá giá làm giảm tổng cung qua 3 kênh:

Một là, khi hàng nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản
xuất, phá giá bằng cách làm tăng giá nhập khẩu sẽ đẩy chi phí và giá cả trong
nước lên. Điều này làm giảm mức sản lượng mà các doanh nghiệp sẵn sàng
sản xuất. Ảnh hưởng này có thể được bù đắp một phần nếu trong nước có thể
sản xuất sản phẩm thay thế.
Page 23


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Hai là, nếu tiền lương trong nước được chỉ số hoá theo giá tiêu dùng,
thì tiền lương thực tế tính bằng số sản phẩm trong nước sẽ tăng.
Ba là, sự tăng giá trong nước do phá giá sẽ làm giảm cung tiền thực tế
và do đó làm tăng lãi suất. Điều này sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên.
1.1.3. Kinh nghiệm quốc tế về việc sử dụng chính sách tỷ giá hối
đoái
1.1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc trong một thời gian dài (1997 đến 7/2005) đồng nhân dân
tệ (CNY) được neo cố định với USD tại mức tỷ giá 8,28 CNY/USD. Theo
nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM) thì đồng CNY đang
giảm đi mất 40% so với giá trị thực của nó, do đó đã tạo ra một môi trường
kinh doanh không công bằng. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho
thấy đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng
lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá
thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu
hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 1.1). Các chuyên gia công nghiệp Hoa Kỳ nói
rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về
đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với
USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước
tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây

sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều
chỉnh tỷ giá vào năm 2005.

Page 24


Tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Bảng 1.1: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc 2002-2007
năm

TGHĐ

Cán cân thương mại

Dự trữ ngoại tệ

(CNY/USD)
(triệu USD)
(triệu USD)
2002
8,277
44.167
286.407
2003
8,277
44.652
403.251
2004

8,2768
58.982
609.932
2005
8,1943
134.189
818.872
2006
7,9734
217.746
1.066.340
2007
7,6075
315.318
1.528.250
Nguồn: Chính sách tỷ giá VND nhằm cải thiện cán cân thương mại
trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nguyễn Văn Tiến, Tạp chí
Ngân hàng.
Từ 7/2005, NHTW Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Tỷ
giá sẽ được xác định dựa trên một rổ ngoại tệ (Basket) nhưng các thành phần
và tỷ trọng các đồng tiền không được công bố. Đồng thời với việc neo tỷ giá
theo một rổ tiền tệ, NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày
của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, đã công bố 11 đồng tiền
trong rổ2, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng
Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga… Tuy nhiên, thực tế của
tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY đã dao động với biên độ 2%/ năm (B Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl).
Điều này cho thấy, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế
độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) - là chế độ tỷ giá dựa vào rổ
tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì). So với lý thuyết
thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm 3. Mặc dù

tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa
của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được
2

Bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của NHTW tại Thượng Hải, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia
Chuan.
3
Chế độ tỷ giá BBC có biên độ dao động rộng quanh tỷ giá trung tâm, có thể là 5, 10 và 15%

Page 25


×