Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

THUYẾT MINH TIÊU CHUẨN QUỐC GIA CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU HÌNH DNS CHO DHCPV6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.74 KB, 17 trang )

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

THUYẾT MINH TIÊU CHUẨN QUỐC GIA

CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU HÌNH DNS CHO DHCPV6

HÀ NỘI - 2015

1


MỤC LỤC
1

Sự cần thiết

.
2

Sự phát triển và tình hình triển khai IPv6 ở Việt Nam

.
3

Tình hình chuẩn hóa về IPv6 và nhu cầu chuẩn hóa giao thức cấu

.

hình máy chủ động ở Việt Nam
3.1. Trên thế giới
3.2. Ở Việt Nam


3.3. Nhu cầu chuẩn hóa

4

Các sở cứ để xây dựng tiêu chuẩn

.
5

Cách thức xây dựng tiêu chuẩn

.
6

Nội dung dự thảo tiêu chuẩn quốc gia

.

2


1. Sự cần thiết
Hiện nay, IPv6 là giải pháp hữu hiệu nhất giúp các quốc gia giải quyết bài
toán thiếu hụt địa chỉ Internet. Thực tế cho thấy rất cần thiết phải triển khai IPv6
trước khi cạn kiệt địa chỉ thực sự. Tuy nhiên, để có thể triển khai IPv6 một cách
đồng bộ, hiệu quả và đảm bảo tính tương thích, liên tục thì cần phải có các tiêu
chuẩn kỹ thuật về giao thức IPv6. Các tiêu chuẩn kỹ thuật này là tài liệu cơ sở về
kỹ thuật cho các hoạt động triển khai Internet.
Tính đến thời điểm này, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức xây
dựng và ban hành được 01 tiêu chuẩn về IPv6. Như vậy, vẫn còn nhiều tiêu

chuẩn về IPv6 cần được nghiên cứu, xây dựng để phục vụ cho việc triển khai
IPv6 ở Việt Nam.
2. Sự phát triển trên thế giới và tình hình triển khai IPv6 ở Việt Nam
2.1. Tình hình triển khai IPv6 trên thế giới
Tính đến nay (tháng 06/2014), trên toàn cầu có 183 quốc gia triển khai
IPv6 (theo và tổng số 17220 vùng địa chỉ
IPv6 được phân bổ. Theo phạm vi của các tổ chức quản lý địa chỉ cấp khu vực,
LANIC (khu vực Châu Mỹ Latinh và biển Caribe) có số lượng IPv6 lớn nhất, tiếp
theo đó là RIPE-NCC (khu vực Châu Âu, Trung Đông), APNIC (khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương), ARIN (khu vực Bắc Mỹ và một phần Caribe) và cuối
cùng là AFNIC (khu vực Châu Phi).

Hình 2.1 – Biểu đồ phân bổ IPv6 trên toàn cầu (Nguồn: www.apnic.net)
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, số vùng IPv6 được phân bổ gia
tăng một cách đáng kể trong khoảng thời gian trước và sau thời điểm cạn kiệt
IPv4 (tháng 4/2011). Nhóm các nước trong vùng Đông Á, gồm Nhật Bản, Hong
Kong, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan hiện sở hữu số lượng IPv6 lớn nhất
trong khu vực. Bên cạnh đó, số liệu thống kê về IPv6 gần đây do RIPE NCC
công bố cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng IPv6 phân bổ trong
3


khoảng cuối 2010, đầu và giữa năm 2011 có thể do những tác động của sự kiện
cạn kiệt IPv4 của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Hình 2.2 – Biểu đồ số vùng địa chỉ phân bổ theo năm của APNIC
Bên cạnh thông tin định tuyến, các tổ chức, hãng trên Internet đã thực hiện
khảo sát dữ liệu IPv6 qua tổng số lưu lượng trao đổi. Một trong những hãng đầu
tiên công bố dữ liệu lưu lượng thực tế của IPv6 là Google. Theo phân tích của
Google, tại thời điểm tháng 5/2012, tỉ lệ lưu lượng thuần IPv6 chiếm 0,6% tổng

số lưu lượng trao đổi qua dịch vụ google. Con số này cho thấy mặc dù có sự gia
tăng, nhưng tỉ lệ lưu lượng thuần IPv6 qua các dịch vụ thực tế còn rất nhỏ so với
lưu lượng IPv4. Kết quả này củng cố thêm nhận định được nhiều chuyên gia
thống nhất: Tuy có sự gia tăng đáng kể và vững chắc nhưng mức độ gia tăng của
IPv6 trong hoạt động mạng toàn cầu được đánh giá còn chậm so với kỳ vọng
đáng có về IPv6.

Hình 2.3 – Biểu đồ về lưu lượng thuần IPv6 trao đổi qua mạng Google
(Nguồn: )
4


Bảng sau đây thể hiện hình hình cấp phát và sử dụng thực tế IPv6 trên
thế giới:
S
T
T

C Quốc gia


Được Sử
cấp dụng

Tỷ lệ đang hoạt động
so với số địa chỉ đã
phân bổ toàn cầu

1


United States

3851 1183

5.69%

2

Brazil

1685

68

0.33%

3

Germany

1131

584

2.81%

4

United Kingdom
(Great Britain)


1059

391

1.88%

5

Russia

908

336

1.62%

6

Netherlands, The

733

361

1.74%

7

Australia


718

200

0.96%

8

France

607

252

1.21%

9

Sweden

476

274

1.32%

10

Japan


425

218

1.05%

11

Italy

414

130

0.63%

12

Switzerland

409

188

0.90%

13

Poland


405

166

0.80%

14

Canada

383

146

0.70%

15

Spain

321

87

0.42%

16

India


316

67

0.32%

17

China

302

40

0.19%

18

Czech Republic

300

180

0.87%

19

Indonesia


300

91

0.44%

20

Argentina

278

35

0.17%

21

Austria

275

160

0.77%

22

Norway


257

129

0.62%

23

New Zealand

223

78

0.38%

24

Hong Kong

222

84

0.40%

25

Ukraine


216

102

0.49%

26

Singapore

215

79

0.38%
5


27

Denmark

203

93

0.45%

28


Belgium

156

65

0.31%

29

Finland

150

75

0.36%

30

Turkey

148

25

0.12%

31


Romania

147

79

0.38%

32

South Africa

126

47

0.23%

33

Korea

119

25

0.12%

34


Malaysia

117

42

0.20%

35

Slovenia

116

56

0.27%

36

Iran

113

5

0.02%

37


Ireland

110

43

0.21%

38

Colombia

96

26

0.13%

39

Hungary

88

29

0.14%

40


Mexico

88

26

0.13%

41

Thailand

83

34

0.16%

42

Taiwan

80

31

0.15%

43


Bangladesh

79

28

0.13%

44

Bulgaria

75

45

0.22%

45

Chile

74

14

0.07%

46


Philippines

72

17

0.08%

47

Slovakia

66

32

0.15%

48

Saudi Arabia

58

18

0.09%

49


Europe

57

21

0.10%

50

Costa Rica

55

17

0.08%

51

Luxembourg

50

25

0.12%

52


Greece

50

20

0.10%

53

Estonia

48

21

0.10%

54

Portugal

48

16

0.08%

55


Equador

47

18

0.09%

56

Latvia

45

18

0.09%

57

Serbia

44

17

0.08%
6



58

Iceland

44

21

0.10%

59

Vietnam

43

10

0.05%

60

Israel

41

14

0.07%


61

Venezuela

41

18

0.09%

62

Pakistan

40

13

0.06%

(nguồn )
Căn cứ bảng trên chúng ta thấy rằng tình hình sử dụng IPv6 vẫn hạn chế.
Số lượng IPv6 sử dụng có tỷ lệ khiêm tốn so với số lượng được cấp phát cho các
quốc gia (trong đó có Việt Nam).
Về mức độ ứng dụng IPv6, Mới đây RIPE NCC đã công bố kết quả đánh
giá về mức độ triển khai IPv6 tại các quốc gia, khu vực trên toàn cầu qua một dự
án khảo sát kết hợp nhiều phương diện: Thu thập đánh giá về lưu lượng trao đổi
IPv6, dữ liệu định tuyến cũng như dữ liệu phân bổ và sử dụng thực tế tài nguyên
địa chỉ IPv6.

Kết quả đánh giá về khả năng đáp ứng và hỗ trợ IPv6 của các quốc gia cho
thấy một số thay đổi về mức độ sẵn sàng với IPv6:
- Cả Trung Quốc và Mỹ với số người sử dụng IPv6 lớn nhất đều không
nằm trong top 20 nước được đánh giá có mạng lưới sẵn sàng nhất cho IPv6.
- 3 nước có tỉ lệ mạng lưới được đánh giá có khả năng đáp ứng lưu lượng
IPv6 lớn nhất gồm: Nauy (49.3%), Hà Lan (43.5%) và Malaysia (37.1%).

Hình 2.4 – Mức độ sẵn hàng mạng lưới đối với IPv6 của một số quốc gia
(Nguồn: )
7


2.2. Tình hình triển khai tại một số quốc gia
a) Tại Nhật Bản:
- Rất nhiều ISP đã cung cấp được các dịch vụ thương mại trên nền IPv6 ra
thị trường.
- Trên 35% người dùng FTTH tại Nhật Bản được cung cấp các dịch vụ
IPv6.
- Một số nhà cung cấp dịch vụ di động như NTT Docomo, KDDI đã triển
khai dịch vụ IPv6 trên hạ tầng mạng 3G.
b) Tại Đài Loan:
- Dịch vụ thương mại trên nền IPv6 được cung cấp từ năm 2011.
- 95% trường học có kết nối Internet hỗ trợ cả IPv4/IPv6.
- 68% lớp học được triển khai dịch vụ VoIP trên nền IPv4/IPv6.
c) Tại Malaysia:
- 37% mạng lưới sẵn sàng cho IPv6.
- Xếp hạng thứ 3 trên toàn cầu về mạng lưới IPv6.
2.2. Tình hình triển khai IPv6 tại Việt Nam
a) Về mặt chính sách cho triển khai IPv6
Bộ thông tin và Truyền thông ban hành các văn bản:

- Chỉ thị số 03/2008/CT-BTTTT Bộ ngày 6/5/2008 về việc thúc đẩy sử
dụng địa chỉ Internet thế hệ mới IPv6, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình triển khai IPv6 ở Việt Nam.
- Quyết định số 05/QĐ-BTTTT ngày 06/01/2009 thành lập Ban Công tác
thúc đẩy phát triển IPv6 quốc gia.
- Quyết định số 433/QĐ-BTTTT ngày 29/3/2011 về việc phê duyệt kế
hoạch hành động quốc gia về IPv6.
- Quyết định 1190/QĐ-BTTTT ngày 03/7/2012 về việc kiện toàn Ban
Công tác thúc đẩy phát triển IPv6 Quốc gia nhằm đẩy mạnh tiến trình triển khai
IPv6 tại Việt Nam.
Theo đó, Ban Công tác thúc đẩy phát triển IPv6 Quốc gia đã tổ chức phiên
họp để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6. Buổi họp có
các thành viên Ban Công tác, Lãnh đạo và cán bộ chuyên trách của Trung tâm
Internet Việt Nam (VNNIC) - Thường trực Ban Công tác và trên 100 đại biểu
đến từ các ISP, các thành viên địa chỉ IP trên cả nước và đại diện của Trung tâm
Thông tin mạng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (APNIC), Tập đoàn NTT
(Nhật Bản). Ngày 31/05/2012, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã phối hợp
tổ chức Hội thảo "IPv6 – Công nghệ và ứng dụng với Việt Nam". Đây là lần đầu
tiên một sự kiện lớn, quy mô quốc tế về IPv6 được tổ chức tại Việt Nam nhằm
8


thúc đẩy việc triển khai và ứng dụng thực tế IPv6, chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6.
Sự kiện thu hút sự tham dự của khoảng 270 đại biểu, đặc biệt là các chuyên gia
cấp cao về IPv6 đến từ các tổ chức quản lý tài nguyên Internet quốc tế, công nghệ
viễn thông và Internet hàng đầu thế giới (ISOC, APNIC, APIA, diễn đàn IPv6
khu vực, Ericsson, NTT, Cisco, HP, Huawei…).
b) Hiện trạng triển khai IPv6 tại Việt Nam
Số liệu tính đến thời điểm cuối năm 2014, đã có:
- 19 doanh nghiệp có địa chỉ IPv6, 02 doanh nghiệp đang được xử lý hồ sơ

xin cấp địa chỉ IPv6.
- 09 doanh nghiệp đã có Kế hoạch hành động về IPv6 của doanh nghiệp.
- 06 doanh nghiệp đã thành lập được Ban công tác IPv6, tổ công tác IPv6.
- 07 doanh nghiệp đã kết nối VNIXv6, tuy nhiên phần lớn không có lưu
lượng trao đổi.
- Đã tổ chức các khóa đào tạo về IPv6 cho các cán bộ kỹ thuật doanh
nghiệp và thành viên Ban công tác thúc đẩy phát triển IPv6 quốc gia.
Sau đây là một số kết quả đã đạt được:
Về kế hoạch hành động quốc gia về IPv6, được chia ra làm 03 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1-Từ 2011 đến 2012 (Giai đoạn chuẩn bị): Đánh giá thực trạng
và tính sẵn sàng của mạng lưới Internet cho việc chuyển đổi sang IPv6; Hình
thành mạng thử nghiệm IPv6 quốc gia phục vụ cho việc thử nghiệm công nghệ
IPv6 tại Việt Nam; Tổ chức tuyên truyền và trang bị kiến thức, trao đổi kinh
nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho việc chuyển đổi sang IPv6.
- Giai đoạn 2-Từ 2013 đến 2015 (Giai đoạn khởi động): Chuyển đổi mạng
lưới từ IPv4 sang hỗ trợ đồng thời IPv4 và IPv6; Xây dựng và hình thành mạng
cơ sở hạ tầng IPv6 quốc gia; Cung cấp dịch vụ IPv6 thử nghiệm tới người sử
dụng.
- Giai đoạn 3 - Từ 2016 đến 2019 (Giai đoạn chuyển đổi): Hoàn thiện
mạng lưới và dịch vụ IPv6, đảm bảo hoạt động ổn định với địa chỉ IPv6; Các tổ
chức, doanh nghiệp chính thức sử dụng và cung cấp dịch vụ trên nền tảng công
nghệ IPv6.
Về mạng IPv6 Quốc gia:
Mạng IPv6 Quốc gia được hình thành trên cơ sở kết nối các hệ thống mạng
DNSv6 Quốc gia, trạm trung chuyển Internet Quốc gia VNIXv6, mạng Internet
IPv6 của các ISP, cung câp các dịch vụ thử nghiệm cơ bản trên nền IPv6 như
web, email, dns, voip...

9



Hình 2.5 – Mạng IPv6 quốc gia
c) Tình hình triển khai IPv6 tại một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel), Công ty Netnam đã chủ động xây dựng kết nối thuần IPv6,
triển khai thử nghiệm, đánh giá kết quả chuyển đổi địa chỉ IPv4 sang IPv6 trong
phòng thí nghiệm, thực hiện trên mạng ADSL/3G và trên mạng máy tính nội bộ,
thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học chuyển đổi IPv6...
Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT):
Hiện tại, VNPT đã kiện toàn bộ máy nhân sự chuyên trách IPv6; chuẩn bị
cơ sở hạ tầng IPV6 tương đối thuận lợi và tổ chức nghiên cứu đào tạo IPV6 cho
cán bộ kỹ thuật chủ chốt. VNPT đã chính thức thiết lập kết nối IPv6 với Singtel
từ tháng 05/2012, thiết lập kết nối IPv6 từ Công ty Điện toán và Truyền số liệu
VDC sang Trung tâm Internet Việt Nam. Qua khảo sát năng lực thiết bị trên
mạng lưới, thiết bị mạng lưới của VNPT đều có khả năng hỗ trợ IPv6, thiết bị
đầu cuối khách hàng hỗ trợ IPv6 chưa phổ biến nên chỉ mới thử nghiệm kỹ thuật
trong phạm vi tập đoàn VNPT.
Đối với mạng băng rộng cố định, năm 2003, công ty VDC đã thử nghiệm
thành công một số dịch vụ IPv6. Hiện tại đã sẵn sàng cung cấp dịch vụ Web,
email, FTP, DNS, Internet Leased Line IPV6… cho khách hàng. Tập đoàn VNPT
đã lập kế hoạch thử nghiệm trên toàn mạng băng rộng. Tuy nhiên, để đảm bảo
các giải pháp đưa ra là phù hợp, đánh giá được hiệu năng thiết bị và sự ảnh
hưởng đến các dịch vụ đang cung cấp, VNPT đã xây dựng lab (phòng thí
nghiệm) IPv6 với đầy đủ các thiết bị như trên mạng băng rộng hiện tại. Tháng
10/2012, VNPT đã thực hiện thành công các dịch vụ HIS, L3 VPN IPv6 trong
lab. Theo kế hoạch của VNPT, các dịch vụ IPv6 sẽ tiếp tục được thử nghiệm
trong lab trước khi cung cấp chính thức cho khách hàng từ năm 2015.
10



Đối với mạng di động 2G/3G, công ty Vinaphone hiện đang xây dựng giải
pháp và kế hoạch cung cấp dịch vụ IPv6. Đầu năm 2013, công ty VMS cung cấp
dịch vụ thử nghiệm cho thuê bao Mobifone. Tập đoàn VNPT đã khảo sát tính
tương thích IPv6 của thiết bị trên mạng LTE/4G. Trong tháng 11/2012, VNPT sẽ
cung cấp dịch vụ thử nghiệm trên mạng LTE/4G VNPT đối với Internet, L3 VPN
và Video on Demand. Tuy nhiên, Việt Nam chưa phổ biến thiết bị đầu cuối hỗ trợ
LTE/4G. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của Cục Bưu điện trung ương đã lựa
chọn một số dịch vụ IPv6 để thử nghiệm và đã được thử nghiệm thành công như:
dịch vụ Internet, DNS IPv6, FTP IPv6.
Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel
Viettel đã thử nghiệm thành công:
- Hoạt động kết nối với đối tác Google về transit lưu lượng IPv6;
- Quy hoạch tài nguyên IPv6;
- Cung cấp thử nghiệm dịch vụ IPv6 cho thuê bao ADSL, USB 3G trên
mạng Viettel;
- Sản xuất thiết bị tương thích IPv6.
Từ năm 2009, Viettel đã xác định và nhận thức được tầm quan trọng của
việc chuyển đổi IPv6 nên công tác đầu tư, mua sắm thiết bị đã được bổ sung yêu
cầu hỗ trợ IPv6 cho các thiêt bị trong các lớp mạng. Tính đến Quý 4 năm 2011,
các thiêt bị lớp gateway dịch vụ (BRAS, GGSN) và các Router mạng lõi IPBN đã
hỗ trợ đây đủ IPv6. Thời gian tới, Viettel sẽ thành lập nhóm chuyên trách bảo
mật IPv6 nhằm nghiên cứu, tìm hiểu các lỗ hồng về bảo mất để phòng chống tấn
công trong quá trình chuyển đổi IPv6 đảm bảo an ninh – an toàn thông tin mạng
lưới. Viettel sẽ tăng cường hợp tác, hội thảo, báo cáo Ban IPv6 truyền thông
quảng bá các hoạt động IPv6 của tập đoàn đến khách hàng…
d) Một số vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai IPv6
Trong quá trình triển khai IPv6 có sự khác biệt khá rõ nét giữa các doanh
nghiệp chưa triển khai và đã triển khai IPv6. Với các doanh nghiệp đã triển khai
IPv6 thì rào cản lớn nhất là vấn đề hỗ trợ của nhà sản xuất thiết bị và yếu tố trình

độ nhân lực, chi phí. Trong khi đó, với các doanh nghiệp chưa triển khai IPv6 thì
rào cản lớn nhất của họ là những yếu tố nhận thức và nguồn lực.
Tại Việt Nam, theo báo cáo của Viettel, trở ngại lớn nhất cho việc chuyển
đổi IPv6 là lớp thiết bị đầu cuối chưa hỗ trợ IPv6. Việc nâng cấp Firmware hay
Hardware đều mất nhiều thời gian và chi phí, nhất là với doanh nghiệp cung cấp
đầy đủ dịch vụ Internet có dây và không dây như Viettel. Trong khi việc chuyển
đổi lại không mang lại doanh thu cho Viettel. Theo báo cáo của VNPT, trở ngại
lớn nhất đó là chi phí chuyển đổi thiết bị đầu cuối của khách hàng và vấn đề nhận
thức của khách hàng. Việc chuyển đổi sang sử dụng giao thức IPv6, khách hàng
không nhìn thấy lợi ích, do đó nếu chưa thực sự hết tài nguyên địa chỉ, việc khách
hàng chấp nhận công nghệ mới đòi hỏi phải có thời gian.
11


Về phía cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có
những động thái thúc đẩy, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc triển
khai địa chỉ IPv6. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng IPv6 tại Việt Nam còn thấp do
chưa nhận được sự hưởng ứng từ các nhà phát triển nội dung, từ khách hàng và từ
chính các ISP. Do vậy, tính đến tháng 10/2012, Việt Nam là Quốc gia đứng thứ
50 trên thế giới về số lượng vùng địa chỉ IPv6 được cấp phát. Tuy nhiên, trên
khía cạnh sử dụng thực tế sử dụng (tính theo số lượng vùng địa chỉ IPv6 được
quảng bá định tuyến trên tổng số vùng địa chỉ được cấp) thì Việt Nam chỉ xếp
hạng thứ 90 (thống kê từ Tổ chức SixXS).
3. Tình hình chuẩn hóa về IPv6 và nhu cầu chuẩn hóa giao thức cấu hình
máy chủ động ở Việt Nam
3.1. Trên thế giới
Việc xây dựng và ban hành tiêu chuẩn cho IPv6 là một trong những công
tác quan trọng trong tiến trình triển khai IPv6. Nhiều tổ chức tiêu chuẩn hóa đã
tham gia trong lĩnh vực này, tiêu biểu là Bộ tiêu chuẩn chung về IPv6 của Nhóm
đặc trách về kỹ thuật Internet (IETF) mà nhiều quốc gia đã dựa trên đó để ban

hành bộ tiêu chuẩn IPv6 cho quốc gia mình. Ngoài ra còn có tổ chức IPv6 Forum
với sự tham gia của các thành viên tích cực về IPv6 cũng có bộ phận rà soát và
tối ưu các tiêu chuẩn về IPv6, đồng thời cung cấp các bài đo, phương pháp đo để
xác nhận tính tương thích và phù hợp của thiết bị, dịch vụ đối với IPv6.
a) Bộ tiêu chuẩn IPv6 của IETF
Hiện tại, Nhóm đặc trách về kỹ thuật Internet (IETF) đã đưa ra bộ tiêu
chuẩn về IPv6 dưới hình thức trưng cầu ý kiến (request for comments – RFC).
Tuy nhiên đây cũng là một bộ tài liệu khá hoàn chỉnh và được nhiều nước áp
dụng, làm sở cứ xây dựng tiêu chuẩn của mình.
Bộ tiêu chuẩn của IETF về giao thức IPv6 bao gồm các tiêu chuẩn sau:
- RFC 2460: Internet Protocol, Version 6 (IPv6) Specification (Đặc đính kỹ
thuật về giao thức Internet phiên bản 6)
- RFC 2461: Neighbor Discovery for IP Version 6 (IPv6) (Phát hiện láng
giềng cho giao thức IPv6)
- RFC 2462: IPv6 Stateless Address Autoconfiguration (Tự động cấu hình
địa chỉ không lưu trạng thái của IPv6)
- RFC 4443: Internet Control Message Protocol (ICMPv6) for the IPv6
Specification (Giao thức bản tin điều khiển trên Internet cho IPv6)
- RFC 2464: Transmission of IPv6 Packets over Ethernet Networks (Sự
truyền tải của các gói tin trên mạng Ethernet)
- RFC 4291: Internet Protocol Version 6 (IPv6) Addressing Architecture
(Kiến trúc địa chỉ cho IPv6)
12


- RFC 6139: Routing and Addressing in Networks (Định tuyến và đánh địa
chỉ trong mạng lưới)
- RFC 6106: IPv6 Router Advertisement Options for DNS Configuration
(Tùy chọn định tuyến quảng bá cho thiết lập DNS)
- RFC 6105: IPv6 Router Advertisement Guard (Bảo vệ định tuyến quảng

bá)
- RFC 6052: IPv6 Addressing of IPv4/IPv6 Translators (Đánh địa chỉ cho
bộ biên dịch IPv4/IPv6)
Và một số các tiêu chuẩn khác, chi tiết tham khảo thêm tại
/>b) Tổ chức IPv6 Forum
Diễn đàn IPv6 () hay chương trình IPv6 Ready
Logo là một chương trình nhằm đánh giá sự phù hợp và kiểm tra khả năng tương
thích IPv6 đối với các thiết bị và dịch vụ IPv6. Chương trình được tạo ra với mục
đích làm tăng lòng tin của người dùng đối với sản phẩm thiết bị bằng cách chứng
minh rằng IPv6 đã có trong sản phẩm và sẵn sàng sử dụng.
Nhiệm vụ của ủy ban IPv6 Ready Logo là:
- Xác định các thông số kỹ thuật
- Kiểm tra sự phù hợp IPv6
- Thử nghiệm khả năng tương thích IPv6
- Cung cấp đường truy cập với công cụ tự kiểm tra
- Cung cấp những Lôgô IPv6 Ready.
Các thành viên của của nhóm quản trị ủy ban IPv6 Ready Logo có trách
nhiệm:
- Xác định các thủ tục, quy định và các bước cụ thể cho Chương trình IPv6
Ready Logo.
- Xác định chiến lược triển khai cho Chương trình IPv6 Ready Logo.
- Quản lý việc sử dụng các lô gô IPv6 Ready cho các sản phẩm.
Các phòng thử nghiệm chấp thuận IPv6 Ready Logo:
- Beijing Internet Institute (BII): Trung tâm kiểm tra toàn cầu IPv6 - Viện
Internet Bắc Kinh - Trung Quốc.
- CHT-TL: Phòng thử nghiệm viễn thông Chunghwa - Đài Loan.

- INFOWEAPONS: Tổ chức InfoWeapons - Hoa Kỳ.
- IRISA: Trung tâm kiểm tra khả năng tương hợp giao thức Internet - Châu
Âu.

13


- UNH-IOL: Phòng thử nghiệm tương hợp – Đại học New Hampshire Hoa Kỳ.
- JATE: Viện phê duyệt thiết bị viễn thông - Nhật Bản.
Các tổ chức phát triển thông số kiểm tra của IPv6 Ready Logo:
- TAHI Project - Dự án TAHI (Nhật Bản)
- UNH-IOL (Phòng thí nghiệm tương hợp – Đại học New Hampshire (Hoa
Kỳ)
- IRISA (Europe) – Kiểm tra khả năng tương hợp giao thức Internet (Châu
Âu)
- CHT-TL (Taiwan) - Phòng thử nghiệm viễn thông Chunghwa (Đài Loan)
- BII (China) – Viện Internet Bắc Kinh - Trung tâm kiểm tra toàn cầu IPv6
(Trung Quốc)
- TTA - Hiệp hội Công nghệ Viễn thông IPv6 (Hàn Quốc)
- JATE - Japan Approvals Institute for Telecommunications Equipment
c) Tình hình tiêu chuẩn hóa tại một số quốc gia
Hoa Kỳ: Viện Công nghệ và Tiêu chuẩn Mỹ (NIST) ban hành tài liệu tiêu
chuẩn hoá về IPv6 ( dành cho các cơ
quan liên bang Mỹ để triển khai IPv6 - Tài liệu tiêu chuẩn hoá được đánh giá là
bước tiếp theo của Chính phủ Mỹ để thực hiện kế hoạch đã đặt ra, yêu cầu tất cả
các Cơ quan liên bang Mỹ phải sẵn sàng sử dụng IPv6.
Bộ tiêu chuẩn về IPv6 của Hoa Kỳ cũng được xây dựng trên cơ sở thừa
nhận các tiêu chuẩn RFC của IETF, chẳng hạn như:
Mạng của doanh nghiệp:
[RFC 4057] Các viễn cảnh về mạng IPv6 của doanh nghiệp.
[RFC 4852] Phân tích mạng IPv6 của doanh nghiệp - Trọng tâm lớp IP
[RFC 3750] Viễn cảnh chuyển tiếp mạng Switch IPv6.
[RFC 3904] Đánh giá về cơ chế chuyển đổi IPv6 cho mạng Switch.
Các ISP và cơ sở hạ tầng mạng truyền tải:

[RFC 4029] Các viễn cảnh và phân tích để đưa IPv6 vào mạng của các
ISP.
[RFC 2185] Các vấn đề về định tuyến cho chuyển đổi IPv6.
Tương hợp với cơ sở hạ tầng của IPv4
[RFC 4038] Một số đặc điểm của các ứng dụng dùng cho chuyển đổi IPv6.
[RFC 4213] Cơ chế chuyển đổi cơ bản cho các máy chủ và bộ định tuyến
IPv6.
14


Vấn đề an ninh:
[RFC 4942] Cân nhắc về an ninh cho chuyển đổi IPv6.
[RFC 4864] Bảo vệ mạn nội bộ cho IPv6.
Ngoài ra, phòng thí nghiệm tương hợp – Đại học New Hampshire (Hoa
Kỳ) là một thành viên của tổ chức diễn đàn IPv6. Từ năm 1996 họ đã đi tiên
phong trong thử nghiệm IPv6, tập trung vào cung cấp các dịch vụ thử nghiệm cho
người dùng và đẩy mạnh việc áp dụng các công nghệ IPv6, đạt được tiêu chuẩn
ISO/IEC 17025 và cung cấp thử nghiệm USGv6. Phòng thí nghiệm tương hợp –
Đại học New Hampshire được thực hiện chứng nhận tương thích IPv6 và cung
cấp logo IPv6 Ready.
Nhật Bản: Nhật Bản là một trong số những nước tiên phong trong triển
khai IPv6. Nhật Bản xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật IPv6 trên cở sở thừa nhận tiêu
chuẩn quốc tế. Cơ quan chứng nhận hợp chuẩn cho các thiết bị IPv6 là Viện hợp
chuẩn các thiết bị viễn thông Nhật Bản (JATE - Japan Approvals Institute for
Telecommunications Equipment). Nhật Bản là thành viên của chương trình IPv6
Ready Logo, do đó các tiêu chuẩn kỹ thuật dùng để chứng nhận hợp chuẩn đều
sử dụng chung các tiêu chuẩn khuyến nghị của chương trình (các RFC của IETF).
Trung quốc: Quá trình tiêu chuẩn hóa IPv6 của Trung Quốc đã bắt đầu.
Hiện tại Trung Quốc đang trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn dựa trên cơ sở
các tiêu chuẩn RFC của IETF. Một số tiêu chuẩn đang được xây dựng:

- Cơ bản về giao thức IPv6;
- Yêu cầu chung về mạng tổng thể IPv6;
- Giao thức phát hiện hàng xóm;
- Tự động cấu hình địa chỉ phi trạng thái;
- IPv6 di động và giao thức định tuyến (OSPF, BGP4, ...).
Trung tâm kiểm tra IPv6 toàn cầu - Viện Internet Bắc Kinh là nơi nghiên
cứu các tiêu chuẩn liên quan đến IPv6 đồng thời cũng là nơi chứng nhận hợp
chuẩn cho các thiết bị IPv6.
Ấn Độ: Là một quốc gia có nền công nghệ thông tin rất phát triển, năm
2011 Ấn Độ cũng đã ban hành bộ tài liệu “Các tiêu chuẩn kỹ thuật cho sự phù
hợp và tương thích IPv6” ( ).
Bộ tiêu chuẩn này đưa ra danh sách các tiêu chuẩn RFC về IPv6 của IETF,
quy định áp dụng cho hệ thống mạng Internet ở Ấn Độ nhằm đảm bảo tính phù
hợp và tương thích IPv6.
3.2. Ở Việt Nam
Việt Nam đã có các chính sách và chỉ đạo cho việc xây dựng các tiêu
chuẩn kỹ thuật về IPv6, cụ thể trong báo cáo của Ban công tác thúc đẩy phát triển
IPv6 quốc gia ngày 18/7/2012 đã nêu rõ tính cấp thiết cần nghiên cứu xây dựng
15


bộ tiêu chuẩn về IPv6 để làm nền tảng cho việc sản xuất và ứng dụng, hợp chuẩn
các thiết bị, phần mềm sản xuất trong nước cũng như nhập khẩu. Cũng theo kết
luận của Bộ Thông tin và Truyền thông ngày 27/07/2012, Vụ Khoa học và Công
nghệ được giao nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật
về IPv6.
Hiện nay, đã có 01 tiêu chuẩn quốc gia về IPv6 được ban hành (TCVN
9802-1:2013 Giao thức internet IPv6 – Phần 1: Yêu cầu kỹ thuật).
3.3. Nhu cầu chuẩn hóa
Như đã trình bày ở trên, việc nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn về IPv6

để làm nền tảng cho việc sản xuất và ứng dụng, hợp chuẩn các thiết bị, phần mềm
sản xuất trong nước cũng như nhập khẩu. Và hiện nay chưa có các tiêu chuẩn về
giao thức cấu hình máy chủ động (DHCP). Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng các
tiêu chuẩn này là cần thiết. Dự kiến các tiêu chuẩn này bao gồm:
- Tiêu chuẩn quốc gia về giao thức cấu hình máy chủ động cho IPv6
(DHCPv6);
- Tiêu chuẩn quốc gia về các phương thức cấu hình DNS cho DHCPv6
- Tiêu chuẩn quốc gia về dịch vụ giao thức cấu hình máy chủ động
(DHCP) không giữ trạng thái cho IPv6.
4. Các sở cứ để xây dựng tiêu chuẩn
Trên cơ sở khảo sát tình hình chuẩn hóa và mục tiêu/nhu cầu chuẩn hóa đặt
ra; cũng trên cơ sở tình hình áp dụng của các nước trong khu vực, các tài liệu
được lựa chọn để sử dụng làm tài liệu tham chiếu tương ứng là:
- RFC 3315 - Dynamic Host Configuration Protocol for IPv6 (DHCPv6)
- RFC 3646 - DNS Configuration options for Dynamic Host Configuration
Protocol for IPv6 (DHCPv6)
- RFC 3736 - Stateless Dynamic Host Configuration Protocol (DHCP)
Service for IPv6.
Đây là 3 tài liệu cập nhật, chuyên biệt về DHCPv6 (theo IPv6 forum); và
đã được IPv6 Ready Logo lựa chọn để xây dựng các phép đánh giá. Nhiều phòng
thí nghiệm cũng đã thực hiện thử nghiệm kiểm tra đánh giá sự tuân thủ đối với
các tài liệu này.
5. Cách thức xây dựng tiêu chuẩn
Việc xây dựng các tiêu chuẩn được thực hiện bằng hình thức dịch nguyên
vẹn từ tiêu chuẩn quốc tế có điều chỉnh bố cục, theo đúng các quy định hiện hành
của Việt Nam tại Thông tư số 03/2011/TT-BTTTT ngày 4/1/2011 quy định hoạt
động xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của Bộ Thông
tin và Truyền thông; tuân theo các quy định trong TCVN 1:2008 về xây dựng tiêu
chuẩn.
16



6. Nội dung dự thảo tiêu chuẩn quốc gia
Nội dung Dự thảo tiêu chuẩn về Giao thức cấu hình máy chủ động cho
IPv6 bao gồm các nội dung cụ thể như sau:
1. Phạm vi áp dụng
2. Tài liệu viện dẫn
3. Thuật ngữ và định nghĩa
4. Phương thức máy chủ gọi tên đệ quy DNS
5. Phương thức danh sách tìm kiếm miền
6. Sự xuất hiện của các phương thức
7. Vấn đề bảo mật
8. Vấn đề liên quan đến IANA


17



×