Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.17 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra hết sức nhanh chóng, nền kinh
tế Việt Nam đã có những bước tiến lớn về tăng trưởng, hoạt động xuất nhập khẩu
diễn ra hết sức sôi động. Bên cạnh những thuận lợi của toàn cầu hóa, các doanh
nghiệp Việt Nam phải đối mặt với môi trường kinh doanh hết sức khốc liệt, tính chất
cạnh tranh ngày càng cao. Điều đó đòi hỏi một mặt phải có nhiều chính sách tài trợ
cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu để có thể cạnh tranh
được với các doanh nghiệp nước ngoài, mặt khác không vi phạm các qui ước quốc tế
khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Một trong những hình thức tài trợ đó là tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cùng với
các dịch vụ Ngân hàng quốc tế khác ra đời và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu đa
dạng của các doanh nghiệp về phát triển kinh doanh, chống đỡ rủi ro, nâng cao hiệu
quả và tăng cường khả năng cạnh tranh trong hoạt động thương mại quốc tế. Trải qua
nhiều năm đổi mới, dịch vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương
mại Việt Nam nói chung, của ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ cả về quy mô, cũng như chất lượng dịch vụ.
Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình. Đối với
hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của mình
cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro các
ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời mọi
nhu cầu tài chính. Ngoài ra, nhằm hỗ trợ cho hoạt động thanh toán của Ngân hàng
cũng như hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, Ngân hàng đã thực hiện hoạt động tài trợ
xuất nhập khẩu đi kèm với hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Tuy có nhiều hình
thức tài trợ nhưng tập trung chủ yếu ba mảng tài trợ phổ biến tại Ngân hàng đó là
nghiệp vụ chiết khấu/ ứng trước chứng từ hàng xuất, cho vay mở L/C thanh toán
hàng nhập và bảo lãnh thanh toán.


NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1 Khái quát chung về tài trợ xuất nhập khẩu.
1.1.1 Khái niệm về tài trợ xuất nhập khẩu.
Tài trợ xuất nhập khẩu là tập hợp các biện pháp và hình thức hỗ trợ về mặt
tài chính hoặc uy tín hoặc cả hai một cách trực tiếp hay gián tiếp cho các doanh
nghiệp hoặc đơn vị kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh thương mại trong một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường thế giới nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2 Các loại hình tài trợ xuất nhập khẩu.
Thông thường, nghiệp vụ tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ
thanh toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền đề, nền
tảng hoặc bổ sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu
cơ không thể tách rời này có thể được dẫn giải như sau:
Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của
khách hàng thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến
nguồn vốn của NH thông qua các khoản tín dụng NH. Ngân hàng khi đó vừa là NH
phục vụ người XK (người NK), vừa là NH tài trợ cho thương vụ được thực hiện.
Ngược lại, trong quá trình tài trợ, muốn đảm bảo đồng vốn tài trợ được sử
dụng đúng mục đích, quản lý được nguồn thu, NH sẽ tham gia thanh toán quốc tế
với vai trò là NH chiết khấu (Negotiating Bank), NH nhờ thu (Collection Bank) hay
NH phát hành (Issuing Bank).
Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán,
tài trợ XNK. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức
thanh toán và tài trợ XNK càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng. Căn cứ vào
đối tượng và mục đích cấp tín dụng, ta có thể chia tín dụng XNK thành hai loại
chính: Tín dụng NH cấp cho người XK và tín dụng NH cấp cho người NK. Trong


mỗi loại đó, ta lại có thể chia tín dụng XNK ra thành các hình thức nhỏ hơn, cụ thể
là:
1. Tài trợ xuất khẩu

Hiện nay để tài trợ xuất khẩu các ngân hàng thương mại thường cho vay
bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ để thu mua hàng xuất khẩu. Tài trợ xuất khẩu
hiện nay được áp dụng cụ thể dưới các hình thức sau:
Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo
đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng
Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng thông thường được áp
dụng trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C
xuất, nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân hàng. Để
giám sát và kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông
thường Ngân hàng thực hiện tài trợ như sau:
Khi vay ngân hàng yêu cầu nhà nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định
cộng thêm với số tiền vay ngân hàng để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất hàng
xuất khẩu. Hàng hoá sẽ làm tài san đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tại kho
ngân hàng hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và
đồng ý, dưới sự giám sát của ngân hàng, muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự
đồng ý của ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền
Ngân hàng tài trợ để đi mua hàng, chế biến sản xuất hàng hoá tiếp tục cứ như vậy
cho đến khi bằng 100% giấ trị hàng xuất. Thông thường ngân hàng chỉ tài trợ
khoảng 70% giá trị lô hàng xuất khẩu.
Sau khi giao hàng xong, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ phù hợp với những
điều kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán tiền. Trên hối
phiếu đòi nợ thì ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp trên hối phiếu. Ngân
hàng kiểm tra bộ chứng từ hợp lý chuyển ra nước ngoài đòi nợ ngân hàng mở L/C.
Khi nhận được điện chuyển tiền từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo
L/C ghi Có trên tài khoản cho vay để thu nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và


ngân hàng thông báo L/C là đại lý có mở tài khoản tiền gửi cho nhau, việc thực
hiện thanh toán bộ chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện, dễ
dàng nên ngân hàng có thể tài trợ mức lãi suất ưu đãi thấp hơn mức lãi suất bình

thường.
Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng không phải là
ngân hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như sau khi được tài trợ doanh
nghiệp không xuất được hàng hoặc xuất được hàng nhưng lại gặp rủi ro trong giao
nhận hay thanh toán, hoặc khách hàng không dùng số tiền trên vào mục đích xuất
hàng như đã cam kết vay với ngân hàng.
Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu
Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi
được ghi Có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và
luân chuyển chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng bộ chứng từ để
chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại ngân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc ở
bất kỳ ngân hàng nào. Hình thức tài trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. Để
đảm bảo cho khoản tín dụng thu hồi nợ dễ dàng nhanh chóng, ngân hàng thương
mại thường yêu cầu các L/C xuất của khách hàng phải được thông báo qua ngân
hàng, ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thông báo hoặc vừa là ngân hàng thanh
toán L/C, được thể hiện qua các hình thức sau:
- Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu
+ Khi chiết khấu bộ chứng từ phải hoàn hảo và xuất trình đúng thời
gian quy định. Ngân hàng mở L/C phải có uy tín trên thị trường quốc tế và có quan
hệ giao dịch thường xuyên với ngân hàng chiết khấu. Tình hình sản xuất kinh
doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định và đảm bảo khả năng thanh
toán, có uy tín với ngân hàng. Số tiền chiết khấu phải nằm trong hạn mức tín dụng.
+ Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng thẩm định về
mục đích vay, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… Ngân hàng kiểm tra bộ
chứng từ một cách cẩn thận và hợp lý bởi vì nếu bộ chứng từ không hợp lý có thể bị


từ chối thanh toán, ngân hàng khó thu hồi nợ. Ngân hàng kiểm tra sự phù hợp trên
bề mặt chứng từ so với các điều kiện, điều khoản đã ghi trong L/C. Ngân hàng xem
xét quyết định tỷ lệ chiết khấu hiện nay vào khoảng 90% giá trị L/C xuất. Tuy

nhiên trên thực tế tuỳ từng ngân hàng, từng trường hợp cụ thể sẽ quyết định một tỷ
lệ chiết khấu. Có hai hình thức chiết khấu:
Chiết khấu truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh toán
tiền cho nhà xuất khẩu có quyền đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh toán.
Chiết khấu miễn truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh
toán cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi tiền nếu bộ chứng từ không được
thanh toán.
Hiện nay đa số ngân hàng thực hiện chiết khấu truy đòi.
Ứng trước tiền thanh toán tiền hàng xuất khẩu
Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện chiết khấu, có những sai sót
ngân hàng không đồng ý chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng ứng
trước tiền hàng. Thông thường tỷ lệ ứng trước khoảng 50 – 60% giá trị hàng xuất.
Ngân hàng thực hiện thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nước ngoài để đòi
nợ, trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận được báo
Có của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tự động ghi Nợ tài khoản tiền gửi của
khách hàng. Nếu trên tài khoản của khách hàng không đủ tiền trong vòng 7 ngày
làm việc ngân hàng sẽ chuyển số tiền chiết khấu hoặc ứng trước sang nợ quá hạn.
Khi được thanh toán từ phía ngân hàng nước ngoài sẽ thực hiện khấu trừ trực tiếp
khoản tiền vay cùng các chi phí có liên quan.
2. Tài trợ nhập khẩu
Thông thường ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập nguyên vật liệu, vật
tư, hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ… hoặc cho vay bằng VND, trường hợp
này rất hiếm vì khi vay VND đổi sang ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu,
khách hàng phải mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ giá mua, bán của ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện với những hình thức sau:


Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu
Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập
khẩu.

Điều kiện để mở L/C tại các ngân hàng thương mại:
+ Phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đối với các đơn vị nhập uỷ
thác phải có hợp đồng uỷ thác nhập khẩu.
+ Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục quản lý hàng nhập của Nhà
nước, đơn vị phải xuất trình giấy phép nhập khẩu do Bộ thương mại cấp.
+ Đơn vị phải có tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính ổn định
và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng.
+ L/C hàng nhập phải có giá hợp lý, đồng thời chứng minh việc nhập lô hàng
trên là hợp lý, phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh
toán lô hàng.
+ Đơn vị phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị của L/C hoặc được bảo
lãnh thanh toán bởi một tổ chức đáng tin cậy.
+ Đối với L/C trả chậm, dư nợ bảo lãnh phải nằm trong hạn mức vay vốn
nước ngoài được ngân hàng nhà nước duyệt.
Thẩm định hồ sơ mở L/C:
Trên cơ sở thẩm định, ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký quỹ L/C
được coi là một hình thức bắt buộc tại ngân hàng thương mại. Ký quỹ nhằm bảo
đảm khách hàng nhận hàng và thanh toán L/C. Thông thường mức ký quỹ cao hay
thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán của khách hàng
càng cao mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
+ Đối tượng khách hàng: khách hàng có uy tín đối với ngân hàng thì mức ký
quỹ thấp và ngược lại.


+ Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thường thấp hơn L/C trả ngay, vì
mục đích L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời gian khá dài, mức ký quỹ
cao sẽ làm ứ đọng vốn của khách hàng.
+ Loại hàng hoá nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả
hàng hoá trên thị trường. Những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn định, giá cả ít

biến động thì mức ký quỹ có thể thấp.
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, các định mức ký quỹ L/C ngân hàng sẽ
quyết định mức ký quỹ cụ thể. Ký quỹ được thực hiện bằng cách trích tài khoản
ngoại tệ của khách hàng để chuyển vào tài khoản thanh toán L/C, theo quy định
hiện nay thì số tiền ký quỹ được hưởng lãi bằng với lãi tiền gửi thanh toán. Nếu
không đủ số dư trên tài khoản ngoại tệ hoặc đối với các đơn vị nhập uỷ thác có thể
kèm đơn xin mua ngoại tệ để ký quỹ hoặc có thể làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ
L/C, hiện nay ở nước ta cho vay ký quỹ L/C rất hạn chế.
Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập
Ngân hàng mở L/C tiếp nhận bộ chứng từ từ ngân hàng thông báo L/C, có
thời gian là 7 ngày để kiểm tra xử lý chứng từ đưa ra ý kiến thanh toán hoặc từ chối
thanh toán. Trong nghiệp vụ này ngân hàng thanh toán dựa vào chứng từ chứ khôn
dựa vào hàng hoá, nên ngân hàng mở L/C phải kiểm tra chứng từ cẩn thận, chứng
từ phù hợp ngân hàng sẽ thanh toán tiền (L/C trả ngay hoặc chấp nhận thanh toán
hối phiếu- L/C trả chậm).
Đối với nhà nhập khẩu, hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để
thanh toán cho nhà xuất khẩu thì mới nhận được chứng từ để nhận hàng, bán hàng
và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có khoản
tài trợ từ ngân hàng, vay ngân hàng để thanh toán hàng nhập khẩu. Ngân hàng sẽ
tiến hành thẩm định tính hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng tài chính, khả năng
trả nợ, thế chấp tài sản để quyết định. Tuy nhiên trên thực tế đối với những doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín với ngân hàng thì không
ký quỹ mở L/C, không cần tài sản thế chấp vẫn được vay vốn ngân hàng, hàng hoá


nhận về đem thẳng đến kho của doanh nghiệp nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nghiệp vụ bảo lãnh, tái bảo lãnh
Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh được thực hiện trên tinh
thần nghị định 58/CP – ngày 30/3/1993 của Thủ tướng chính phủ về Quy chế vay

và trả nợ nước ngoài; Quyết định 23/ QĐ - NH14 ngày 21/02/1994 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh.
Hiện nay các nân hàng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp, thực hiện
tái bảo lãnh cho các ngân hàng khác. Các doanh nghiệp muốn vay vốn nước ngoài
phải lập kế hoạch vay vốn nước ngoài đã có sự đồng ý của cơ quan chủ quản và
nằm trong hạn mức vay vốn nước ngoài được cơ quan nhà nước duyệt.
Hiện nay có nhiều hình thức bảo lãnh: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh tham gia
đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đặt cọc… nhưng thực tế bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, đấu thầu rất ít sử dụng. Bảo lãnh vay vốn là hình thức chủ yếu
tại các ngân hàng, tái bảo lãnh ít được thực hiện. Bảo lãnh ở nước ta chủ yếu để tài
trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vay vốn, được thực hiện dưới các hình thức
sau:
+ Phát hành thư bảo lãnh .
+ Mở L/C trả chậm.
+ Ký bảo lãnh trên hối phiếu (Bill of exchange) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký bảo lãnh lệnh phiếu (Promissory Note) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký xác nhận bảo lãnh ngay trên giấy nhận nợ do khách hàng (vay nợ) lập
nhận nợ nước ngoài.
Sau đây xin giới thiệu hai hình thức bảo lãnh được áp dụng phổ biến ở nước
ta hiện nay:
+ Bảo lãnh vay vốn bằng cách phát hành thư bảo lãnh.


Hiện nay đa số các ngân hàng nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài cho
các doanh nghiệp Việt Nam vay để nhập hàng hoá, máy móc thiết bị do nước đó
sản xuất. Nhà xuất khẩu trước khi giao hàng thường yêu cầu phía các doanh nghiệp
Việt Nam phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh sẽ phát hành
thư bảo lãnh cam kết thanh toán cho nước ngoài nếu doanh nghiệp Việt Nam không
thanh toán tiền khi đến hạn. Trên cơ sở bảo lãnh của ngân hàng Việt Nam, nhà xuất
khẩu nước ngoài có thể giao dịch với ngân hàng phục vụ của họ để vay vốn thay

cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu chấp nhận những điều kiện vay vốn của ngân
hàng nước ngoài, doanh nghiệp phải trả nợ trực tiếp cho ngân hàng nước ngoài.
+ Bảo lãnh bằng phát hành L/C trả chậm:
Đây là hình thức được áp dụng phổ biến nhất ở nước ta trong thời gian vừa
qua, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đây là hình thứcc vay vốn, tranh thủ vốn nước
ngoài đơn giản và đễ được chấp thuận bằng cách mua chịu hàng hoá, phù hợp trong
hoàn cảnh hiện nay doanh nghiệp đang thiếu vốn.
Theo quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành kèm theo quyết
định số 207- NH7 ngày 01/07/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định:
+ Việc mở L/C trả chậm nhập khẩu, hàng hoá phải phù hợp với chính sách
xuất nhập khẩu hàng năm của Nhà nước, các quy định hiện hành của Nhà nước liên
quan đến việc vay, trả nợ nước ngoài.
+ Số dư L/C trả chậm ngắn hạn (1 năm trở xuống) phải nằm trong hạn mức
vay ngắn hạn theo quy định của Công văn 515/CV NH7 về hạn mức vay ngắn hạn
của ngân hàng và mức ký quỹ tối thiểu mở L/C trả chậm. Ngân hàng phải duy trì tỷ
lệ tối đa là 3 lần giữa số dư vay và bảo lãnh vay ngắn hạn nước ngoài (gồm số dư
L/C trả chậm ngắn hạn, số tiền đang bảo lãnh vay ngắn hạn nước ngoài và số dư
vay ngắn hạn nước ngoài) trên vốn tự có của ngân hàng. Ngân hàng không có nợ
quá hạn phát sinh từ nghiệp vụ mở L/C trả chậm.


+ Trích lập quỹ bảo lãnh theo quy định hiện hành về bảo lãnh và tái bảo lãnh
theo quy định:
Quỹ bảo lãnh = 5% Giá trị thực tế bảo lãnh
Giá trị thực tế bảo lãnh = Giá trị ngân hàng bảo lãnh – Giá trị mà bên xin bảo
lãnh ký quỹ tại ngân hàng.
Như vậy tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu xuất hiện như là một yêu cầu khách
quan đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình với hoạt động xuất khập khẩu
cũng như đối với nền kinh tế. Với sự phát triển ngày càng đa dạng và phong phú

của các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu mà ngân hàng thương mại Việt Nam đã
cung cấp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của mình, giảm bớt rủi ro trong giao dịch ngoại thương.
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà
nó phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi
đã xem xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến
tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng thương mại.
a. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Các hoạt động kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng chịu tác động
rất lớn bởi chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho
vay XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính
sách tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của
ngân hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn.
Chính sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo
hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ
vào ngân hàng, quản lý ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn
ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.


- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra
nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có
chiến lược hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
XNK rất hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận
của ngân hàng sẽ giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi
thuế quan thì nó sẽ dẫn đến tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng
nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm.
Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác

động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng. Môi trường pháp
không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây
chính là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM.
b. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước.
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn
bị chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của
Ngân hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho vay
tự do hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông
Nam á đã chứng minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các
quốc gia trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng
sâu sắc. Hàng loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do
không thu lại được các khoản nợ, không cho vay được để bù đắp chi phí khi nhu
cầu tín dụng của khu vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là
một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho
vay của Ngân hàng.
c. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK.
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng
ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy


móc thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả của
doanh nghiệp không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân
hàng cấp vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân nào đó
các ngân hàng này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp
đồng, hàng bị mất cắp giảm giá trị...) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các
khoản vay cho ngân hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến
hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn trọng các
điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ mất khả năng

thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào tình trạng phá sản.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh
nghiệp hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ
thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
d. Năng lực cho vay của ngân hàng.
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của
ngân hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu vốn lớn, trong khi
nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp. Tín
dụng XNK của ngân hàng thương mại gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm
thế nào để huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu
đang là vấn đề lớn đối với nhiều NHTM.
e. Các nhân tố khác.
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của
đội ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho
vay XNK của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ
trong thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín dụng
sẽ cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn phải đối
mặt với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự
biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến khích


cả nhập khẩu và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động
kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác
nhau. Có nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song
cũng có không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân
hàng. Các ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp XNK phải lường trước mọi
rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định
đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.



KẾT LUẬN
Thực tế cho thấy rằng, một quốc gia muốn phát triển kinh tế, thì ngoài việc
dựa vào nền sản xuất trong nước, quốc gia đó còn phải thực hiện giao dịch, quan hệ
với các nước khác. Sở dĩ như vậy là do sự khan hiếm và sự phân bố không đồng
đều của các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một quốc gia nếu chỉ dựa vào nền sản
xuất trong nước thì sẽ không thể cung cấp đủ hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản
xuất, tiêu dùng của nền kinh tế quốc dân. Do đó việc nhập khẩu các mặt hàng cần
thiết mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả là rất cần
thiết.
Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có của
mình, một quốc gia ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước, còn có thể tạo nên
những thặng dư để xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng thu ngoại tệ đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu, trả nợ, đầu tư và phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động XNK nói riêng
là một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của một đất nước.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước.



×