Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.15 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1. Khái quát về NHTM.
Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng
hoá, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngân
hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Mỗi nước khác
nhau với chế độ xã hội và hệ thống pháp luật khác nhau sẽ có một khái niệm và
mô hình tổ chức Ngân hàng khác nhau. Thông thường, để định nghĩa Ngân
hàng, người ta phải dựa vào tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động của
nó trên thị trường tài chính.
Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình
thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các
nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật Ngân hàng của ấn Độ, năm 1950: “Ngân hàng là cơ sở nhận các
khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Luật Ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 :“ Những nhà băng thiết yếu
gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương
mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp
vụ chuyển ngân...”.
Việt Nam, bước chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do
kinh doanh theo pháp luật được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp,
các hình thức sở hữu đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa
dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề
cần thiết đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình Ngân hàng Thương mại và tổ
chức tín dụng.
Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định


nghĩa: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và
chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”.
Qua những khái niệm nêu trên, ta có thể rút ra được một số điểm đặc
trưng của Ngân hàng Thương mại như sau :
NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách
nhiệm hoàn trả
NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho
vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác .
(Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng – PTS .Nguyễn Ngọc Hùng )
1.1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.2.1. NHTM là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền
gửi .
Lịch sử của NHTM là lịch sử kinh doanh tiền gửi, nhận tiền gửi và kinh
doanh tiền gửi là đặt trưng quan trọng để phân biệt NHTM với các TCTD khác.
NHTM tổ chức nhận tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau: tiền gửi thanh
toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…. Tỷ
trọng nhận và kinh doanh tiền gửi chiếm rất lớn trong bảng cân đối tài sản
của Ngân hàng (70 - 80%), thu nhập chủ yếu được tạo ra từ hoạt động kinh
doanh tiền gửi và chi phí cho hoạt động nhận tiền gửi chiếm tỷ lệ cao trong
tổng chi phí (60-70%), đối với Ngân hàng truyền thống .
Bản chất của hoạt động kinh doanh Ngân hàng là “đi vay để cho vay”,
vốn kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là tiền gửi huy động được. NHTM là
chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi .
1.1.2.2. Hoạt động của Ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ thống
lưu thông tiền tệ và hoạt động thanh toán của mỗi quốc gia.
Lịch sử phát triển đã phân chia hệ thống Ngân hàng thành: Ngân hàng
với các chức năng ở tầm vĩ mô, quản lý điều tiết thị trường tài chính, là Ngân
hàng của các Ngân hàng, có chức năng phát hành tiền. Đó chính là NHTW.

Ngân hàng với chức năng, vai trò nhận và kinh doanh tiền gửi vì mục tiêu lợi
nhuận…đó là các NHTM và các tổ chức tín dụng khác .
NHTW muốn thực hiện hoạt động quản lý, điều tiết thị trường tài chính
thì phải thông qua các công cụ tài chính tác động vào hoạt động của hệ thống
NHTM, do vậy, NHTM là kênh truyền dẫn để NHTW thực thi chức năng, vai trò
của mình .
Như ta đã nói ở trên, bản chất hoạt động của NHTM là “đi vay để cho
vay”, NHTM là một trung gian tài chính và trong khi thực hiện vai trò trung
gian luân chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn, NHTM đã tạo
ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán:
séc, hệ thống tài khoản tiền gửi, chứng từ, thẻ … do đó, phần lớn tiền giao dịch
trong quan hệ kinh tế là tiền qua Ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng gắn
liền với hệ thống lưu thông tiền tệ.
Hoạt động thanh toán luôn gắn với quá trình sản xuất, lưu thông hàng
hoá không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà nó còn mang tính toàn cầu.
Thanh toán qua Ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình luân
chuyển vốn, hàng hoá, làm tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng hiệu quả kinh
doanh. Hoạt động của NHTM gắn liền với hoạt động thanh toán quốc gia và
thanh toán quốc tế.
1.1.2.3. Hoạt động của NHTM đa dạng phong phú và có phạm vi rộng
lớn .
Thông qua các hình thức huy động vốn, NHTM tập trung, tích luỹ các
nguồn vốn trong xã hội tạo thành quỹ tài chính và thông qua hoạt động tín
dụng, đầu tư,… Ngân hàng tiến hành cung ứng và phân bổ vốn cho nền kinh tế.
Do vậy, hoạt động của NHTM liên quan đến mọi lĩnh vực, ngành nghề sản xuất
kinh doanh. Phạm vi hoạt động của NHTM không chỉ giới hạn trong nước mà
còn mang tính quốc tế. Và để thoả mãn được mọi nhu cầu của khách hàng thì
hình thức hoạt động của Ngân hàng rất đa dạng, sản phẩm dịch vụ phong phú,
mạng lưới chi nhánh rộng khắp .
Trong môi trường kinh tế đầy sự biến động và cạnh tranh gay gắt, khốc

liệt thì sự phong phú đa dạng trong hình thức hoạt động, sản phẩm, dịch vụ
cung ứng sẽ là điều kiện quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của
Ngân hàng.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ hoạt
động của mình nhằm điều hoà, phân phối lại nguồn vốn, cung cấp vốn cho hoạt
động của cả nền kinh tế. Với trình độ phát triển của khoa học hiện đại hiện nay,
hoạt động của Ngân hàng đã ngày càng trở nên phong phú hơn song Ngân
hàng vẫn luôn duy trì một số nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.3.1. Nghiệp vụ tài sản Có.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích
nhằm đảm bảo sự an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM.
a. Nghiệp vụ ngân quỹ.
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của Ngân hàng được dùng vào
với mục đích nhằm bảo đảm an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy
định về dự trữ bắt buộc do NHTW đề ra .
b. Nghiệp vụ cho vay.
Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của
Ngân hàng thông qua hoạt động cho vay ngắn hạn, trung- dài hạn đối với nền
kinh tế.
c. Nghiệp vụ đầu tư tài chính.
Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các
hoạt động góp vốn, hùn vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
d. Nghiệp vụ khác.
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: kinh doanh ngoại tệ, vàng
bạc, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác
và đại lý; kinh doanh và các dịch bảo hiểm; dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy
tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp
luật .

1.1.3.2. Nghiệp vụ tài sản Nợ và vốn tự có của Ngân hàng .
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng, gồm các nghiệp vụ sau:
a. Nghiệp vụ tiền gửi .
Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào
Ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó Ngân
hàng có thể huy động và được sử dụng vào kinh doanh. Ngoài ra, Ngân hàng
còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình được
gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
b. Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá.
Các NHTM sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có thời hạn
dài, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của Ngân hàng
vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM tăng cường tính
ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
c. Nghiệp vụ đi vay.
Đối với nghiệp vụ này, NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc vay
các TCTD khác trên thị trường tiền tệ và vay NHTƯ dưới các hình thức tái
chiết khấu hay vay có đảm bảo, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của
bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
d. Nghiệp vụ huy động vốn khác.
Các NHTM còn có thể tiến hành tạo vốn cho mình thông qua việc nhận
làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài
ra, thông qua việc sử dụng các phương tiện trong thanh toán, đòi hỏi khách
hàng phải ký gửi một bộ phận tiền vào Ngân hàng và trên cơ sở đó các NH có
thể sử dụng những vốn nhàn rỗi trên tài khoản đưa vào hoạt động kinh doanh.
Để mở rộng nghiệp vụ này các NHTM cần phát triển các dịch vụ và không
ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị trường .
e. Nghiệp vụ vốn tự có.
Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các Ngân hàng. Trong thực tế
khoản vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản

thân Ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần đáng kể vào
vốn trong hoạt kinh doanh của các NHTM, đồng thời góp phần nâng cao vị thế,
uy tín của NHTM trên thị trường .
1.1.3.3. Nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản.
Tuy việc quản lý tài sản có và tài sản nợ là mối quan tâm thường xuyên
và chủ yếu của NHTM nhưng trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày
càng gay gắt như hiện nay thì thực hiện các nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài
sản cũng là cách để tạo ra lợi nhuận. Những nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết
như: Môi giới mua bán những công cụ tài chính, chuyển nhượng hoặc bán
những món vay và từ đó Ngân hàng thu một mức phí nhất định, tạo ra lợi
nhuận cho Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ: kinh
doanh hối đoái nhân danh khách hàng, hỗ trợ vay thế chấp, cung cấp mức tín
dụng hỗ trợ, thực chất đây là hình thức các Ngân hàng đứng ra đảm bảo cho
khách hàng nhằm giúp khách hàng nâng cao uy tín trong việc thực hiện các
nghiệp vụ trên, và Ngân hàng thu phí .
Hạn chế lớn nhất của các nghiệp vụ này là đặt Ngân hàng trước những
rủi ro lớn nếu hoạt động kinh doanh của những khách hàng mà Ngân hàng
bảo lãnh gặp phải rủi ro dẫn đến phá sản hoặc không có khả năng thanh toán.
Đây là hình thức làm cho nghiệp vụ kinh doanh của Ngân hàng đa dạng hơn,
lợi nhuận thu được lớn hơn nhưng nó đòi hỏi Ngân hàng cần có sự phân tích,
nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi thực hiện các nghiệp vụ trên nhằm hạn chế rủi
ro có thể xảy ra.
1.1.4. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
NHTM là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế với cơ sở
là nền sản xuất, lưu thông hàng hoá, nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt
động của các NHTM càng phát triển phong phú, đa dạng hiện đại và có vai trò
quan trọng. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình đặc biệt
là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
1.1.4.1. Ngân hàng Thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.

Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Như vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng
thu nhập quốc dân và có mức chi tiêu hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng
nghĩa với việc mở rộng quy mô về cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, để đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển của
các ngành trong nền kinh tế thì vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng. Như vậy,
NHTM với vai trò của một trung gian tín dụng, luân chuyển và phân phối vốn
một cách hợp lý trong nền kinh tế đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi của mọi cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế tạo thành quỹ tài chính
và thông qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM cung ứng vốn cho nền kinh tế, đáp ứng
kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống Ngân
hàng Thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế có điều kiện cải thiện hoạt động kinh doanh của mình, góp phần nâng
cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, có thể khẳng định chủ thể chính đáp
ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là NHTM.
1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường .
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong quá trình vận động chịu tác động
của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan . Các doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế thì không thể thoát khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách
quan đó. Họ không những phải đáp ứng nhu cầu thị trường về phương diện giá cả,
khối lượng, chất lượng, chủng loại... mà còn phải thoả mãn trên phương diện thời
gian, địa điểm. Do vậy, nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế, cải tiến máy móc trang thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu
mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp chính là nhân tố quan trọng giúp
cho doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường, tăng cường khả
năng cạnh tranh, nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp. Tuy nhiên những hoạt
động này đòi hỏi một khối lượng vốn lớn. Để giải quyết khó khăn này, các doanh
nghiệp tìm đến Ngân hàng xin vay vốn. Đến đây ta thấy, hoạt động tín dụng của Ngân
hàng có vai trò quan trọng, là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
1.1.4.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có
hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Thông qua hoạt động tín dụng, thanh toán và nghiệp vụ “tạo tiền” giữa các NHTM
trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu
thông, hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện
việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia các nguồn vốn của thị trường, điều
khiển chúng một cách có hiệu quả, giúp Nhà nước thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng
theo phương châm “Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.4.4. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển. Sự phát triển của
các quốc gia không thể tách rời, mà luôn cần phải có sự giao lưu, hợp tác, tương trợ
lẫn nhau. Xu thế này đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý nhưng vẫn
xích lại gần nhau trong quan hệ hợp tác. Đó là xu thế của nền kinh tế thị trường, của
sự phát triển chung và của nền sản xuất hàng hoá, khi mà các mối giao lưu quan hệ
hàng hoá tiền tệ ngày càng phát triển mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa
các nước trên thế giới lại ngày càng trở nên cấp thiết, bởi sự phát triển của nền kinh
tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận
không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM với các hoạt động nhận tiền
gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác nó đã góp
phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng. Cũng thông qua các hoạt động thanh toán,
buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng… với Ngân hàng nước ngoài, hệ thống Ngân
hàng đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động
của nền tài chính quốc tế.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại.
Như trình bày ở phần trên, sự ra đời và phát triển của Ngân hàng là tất
yếu đối với nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vậy những yếu tố nào cấu
thành nên điều tất yếu đó?. Mọi sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, sự vật này tồn tại được là nhờ có sự
tồn tại của sự vật khác. Đối với NHTM , để được coi là “nền móng ” cho nền sản

xuất hàng hoá, hay “trái tim” cung cấp “máu” cho mọi hoạt động của đời sống
kinh tế xã hội, thì hoạt động huy động vốn có vai trò đặc biệt quan trọng.
1.2.1. Khái niệm về vốn của Ngân hàng Thương mại.
NHTM là một trung gian tài chính, với vai trò chủ đạo là tập trung, phân
phối lại các nguồn vốn trong xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của nền
kinh tế. Để có được vị trí đó, NHTM phải luôn đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng
đầu và công cụ duy nhất có tính chất quyết định mà các NHTM phải có trước
tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Về thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ
sở hữu vì nhiều lý do khác nhau đã gửi vào Ngân hàng. Như vậy, Ngân hàng
Thương mại đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức
tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt
động kinh tế phát triển.
1.2.2.Vai trò của vốn đối với hoạt động của NHTM .
Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có
vốn, vốn là năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng và quy mô hoạt động.
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nó đòi hỏi
một lượng vốn lớn mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Vốn cho phép
Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh,
tăng khả năng cạnh tranh...
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh .
Vốn là điểm đầu tiên và có tính chất quyết định trong chu kỳ kinh doanh
của Ngân hàng vì khác với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bình thường,
vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ
yếu của Ngân hàng. Quá trình kinh doanh của Ngân hàng được mã hoá bằng
công thức sau: T-T’, trong đó T là yếu tố vốn bỏ ra ban đầu, T’ là vốn thu về sau
quá trình cho vay, đầu tư. Từ công thức trên cho thấy, Ngân hàng nào trường

vốn sẽ là Ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh và có lợi thế về quy
mô vốn. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu hì Ngân hàng luôn phải chăm lo tới
việc tăng trưởng các nguồn vốn khác trong suốt quá trình hoạt động .
1.2.2.2. Vốn quyết định quy mô hoạt động của Ngân hàng Thương mại .
Trong hoạt động kinh doanh, yếu tố đầu vào luôn ảnh hưởng trực tiếp
tới yếu tố đầu ra. Đối với NHTM, vốn là yếu tố đầu vào; tín dụng, đầu tư… là
yếu tố đầu ra, vì vậy, so với các Ngân hàng có quy mô vốn lớn thì các Ngân
hàng có quy mô vốn nhỏ các khoản mục cho vay, đầu tư sẽ kém đa dạng hơn,
phạm vi, khối lượng cho vay nhỏ hơn, vốn hạn hẹp nên các Ngân hàng nhỏ
thường không phản ứng kịp trước những biến động của môi trường kinh
doanh, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả
huy động vốn của Ngân hàng.
1.2.2.3. Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của
Ngân hàng trên thị trường .
“Mất tiền bạc là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất
tất cả”. Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau vì bản chất hoạt
động của Ngân hàng là: “đi vay để cho vay”, nếu không có uy tín thì Ngân hàng
không thể tồn tại và phát triển. Uy tín của Ngân hàng thể hiện ở khả năng sẵn
sàng chi trả cho khách hàng của mình. Khả năng thanh toán của Ngân hàng
càng cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng phải lớn. Như vậy, với tiềm
năng vốn lớn, Ngân hàng có thể tiến hành hoạt động với quy mô ngày càng mở
rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh,... nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân
hàng.
1.2.2.4. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Cạnh tranh là một quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
các doanh nghiệp nâng cao khả năng tự hoàn thiện. Với Ngân hàng, vốn là yếu
tố quyết định năng lực cạnh tranh, thực tế đã chứng minh: quy mô vốn, trình
độ nghiệp vụ, phương tiện máy móc hiện đại…là những điều kiện tiền đề nâng
cao hiệu quả huy động vốn và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, tuy nhiên,
tất cả những hoạt động đó đòi hỏi phải có vốn. Vốn quyết định năng lực cạnh

tranh của NHTM.
1.2.3. Các loại vốn của Ngân hàng Thương mại.
Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao là một
doanh nghiệp biết tận dụng mọi “khả năng”, nắm bắt thông tin và chớp mọi
thời cơ. Vốn chính là “khả năng” của Ngân hàng. Trong tổng các nguồn vốn
hoạt động của Ngân hàng, thì mỗi loại lại có những tính chất và vai trò riêng,
do vậy nhiệm vụ của Ngân hàng là phải biết phân loại vốn “đầu vào”, trên cơ sở
đó sẽ phân bổ “đầu ra” một cách hợp lý. Xét về kết cấu và tính chất, vốn kinh
doanh của Ngân hàng Thương mại bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi
vay, vốn khác.
1.2.3.1 Vốn tự có (Vốn CSH).
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập được,
đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, nó chỉ chiếm một tỷ
trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, nhưng lại là điều kiện pháp lý bắt buộc
khi thành lập một Ngân hàng, là nguồn vốn có tính chất thường xuyên ổn định
và với ba chức năng quan trọng: chức năng bảo vệ, chức năng điều chỉnh, chức
năng hoạt động, vốn tự có không thể thiếu trong hoạt động của mỗi Ngân
hàng. Vốn tự có gồm:
a. Vốn tự có ban đầu (vốn pháp định ).
Vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt
đầu thành lập Ngân hàng. Nó được hình thành do ngân sách Nhà nước cấp
(NHTM quốc doanh), từ cá nhân (NHTM tư nhân), do các cổ đông đóng góp
(NHTM cổ phần), hay từ sự đóng góp giữa các bên tham gia (NHTM liên
doanh).
b. Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động .
Vốn này có thể là được cấp thêm hay bổ sung từ lợi nhuận, ngoài ra vốn
tự có còn được bổ sung từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, dự phòng rủi ro… quỹ
thặng dư vốn (phần chênh lệch đánh giá lại tài sản mang lại).
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: theo quy định của NHTW, hàng năm
Ngân hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quỹ này. Quỹ này được lập

cho đến khi bằng 50% vốn điều lệ thực có tại thời điểm trích lập quỹ, tăng
cường số vốn tự có ban đầu.
Quỹ dự phòng tài chính: hàng năm Ngân hàng phải trích tỷ lệ 10% trên
lợi nhuận còn lại để bù đắp những tổn thất do rủi ro phát sinh .
Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ: hàng năm Ngân hàng được trích 50%
lợi nhuận còn lại lập nên quỹ nhằm duy trì và phát triển nghiệp vụ của Ngân
hàng .
1.2.3.2. Vốn huy động.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện
các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được
dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn huy động được hình thành từ các nguồn sau:

×