Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Tăng cường thu hút FDI Hàn Quốc vào ngành Công nghiệp Phụ trợ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.85 KB, 86 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Hiền


MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ cái viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI (FDI) VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1 Khái niệm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.2 Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.2.1Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
1.1.2.2.Doanh nghiệp liên doanh (JVC)
1.1.2.3.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài


1.1.2.4.Đầu tư theo hợp đông BOT
1.1.3.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với nước nhận đầu tư


1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt đông thu hút FDI
Hoạt động thu hút FDI
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI
Nhu cầu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp phụ trợ
Việt Nam

1.3.Kinh nghiệm thu hút FdI vào ngành công nghiệp phụ trợ ở một số nước Châu Á
1.3.1.Kinh nghiệm thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ của Thái Lan
1.3.2.Kinh nghiệm của Nhật Bản
1.3.3. Kinh nghiệm của Malaysia
1.3.4.Bài học kinh nghiệm
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI CỦA HÀN QUỐC VÀO NGÀNH
CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VIỆT NAM
2.1. Ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam
2.1.1. Khái quát ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam
2.1.1.1. Khái niệm
2.1.1.2. Đặc điểm
2.1.1.3.Vai trò của ngành công nghiệp phụ trợ
2.1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ


2.2. Tổng quan về tình hình thu hút FDI Hàn Quốc vào Việt Nam trong những năm
gần đây
2.2.1. Theo quy mô vốn
2.2.2. Về quy mô vốn đầu tư

2.2.3. Về cơ cấu vốn đầu tư
2.2.4. Theo hình thức đầu tư
2.2.5. Theo địa phương
2.3.Thực trạng thu hút FDI Hàn Quốc vào ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam giai
đoạn từ 1988-2014
2.3.1 Theo quy mô vốn
2.3.2. Theo hình thức đầu tư
2.3.3. Theo địa phương
2.3.4. Theo ngành
2.4. Đánh giá thực trạng thu hút FDI của Hàn Quốc vào ngành công nghiệp phụ trợ
Việt Nam
2.4.1. Thành tựu
2.4.1.1. Về môi trường đầu tư
2.4.1.2.Về kết quả thu hút
2.4.2. Tồn tại
2.4.3. Nguyên nhân của sự tồn tại


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THU HÚT FDI CỦA HÀN QUỐC VÀO NGÀNH
CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VIỆT NAM
3.1. Cơ hội và thách thức trong việc thu hút FDI của Hàn Quốc vào ngành công
nghiệp phụ trợ Việt Nam
3.1.1. Cơ hội
3.1.2 Thách thức
3.2. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành công nghiệp
phụ trợ Việt Nam
3.2.1. Quan điểm thu hút FDI vào ngành Công nghiệp Phụ trợ Việt Nam
3.2.2. Định hướng thu hút FDI vào ngành CNPT Việt Nam
3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hàn Quốc vào ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam.

3.3.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách
3.3.2 Cải thiện cơ sở hạ tầng, áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào ngành CNPT
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.3.4. Liên kết doanh nghiệp
3.3.5. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT


AFTA

Khu vực mậu dịch tự do các nước
Đông Nam Á

ASEAN

Các nước khu vực Đông Nam Á

Bộ KH&ĐT

Bộ Kế Hoạch và Đầu tư

CNPT

Công nghiệp phụ trợ

DA

Dự án


DN

Doanh nghiệp

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

KCN

Khu công nghiệp

KCN&KCX

Khu công nghiệp và khu chế xuất

KHCN

Khoa học công nghệ

VĐK


Vốn đăng ký

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng
2.1

Tên bảng
Trang
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM
THEO NGÀNH
(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2014)

2.2

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM THEO
ĐỊA PHƯƠNG
(LŨY KẾ CÁC DỰ ÁN CÒN HIỆU LỰC ĐẾN NGÀY
31/12/2014)
THU HÚT FDI HÀN QUỐC VÀO NGÀNH CNPT VIỆT NAM
(Giai đoạn 1988-2014)

2.3
2.4


THU HÚT FDI HÀN QUỐC VÀO CNPT Ở MỘT SỐ ĐỊA
PHƯƠNG
(Giai đoạn 1988-2014)
2.5

BẢNG 2.5 VỐN FDI HÀN QUỐC THU HÚT VÀO MỘT SỐ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
(Giai đoạn 1988-2014)

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Tên hình
Trang
2.1
CƠ CẤU FDI THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ CỦA HÀN QUỐC
VÀO VIỆT NAM 2014 - TỶ TRỌNG THEO VỐN ĐẦU TƯ
2.2

CƠ CẤU FDI THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ CỦA HÀN QUỐC
VÀO VIỆT NAM NĂM 2011 - TỶ TRỌNG THEO SỐ DỰ ÁN

2.3
2.4
2.5

KIM NGẠCH NHẬP KHẨU CƠ KHÍ QUA CÁC NĂM
NHẬP KHẨU SẢN PHẨM HỖ TRỢ NĂM 2014
KIM NGẠCH NHẬP KHẨU SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP PHỤ
TRỢ NĂM 2013-2014



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nguồn cung cấp vốn cho nền kinh tế
của một quốc gia. Việc thu hút FDI để khai thác hiệu quả tiềm năng vốn có của
quốc gia là một yêu cầu cấp bách đặt ra cho các quốc gia. Chính vì vậy tăng cường
thu hút nguồn vốn FDI đang là ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Với định hướng đưa Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
hiện đại, những nhà Quản lý đất nước cần có những giải pháp, chiến lược để tận
dụng nguồn vốn FDI thu hút được một cách hiệu quả vào ngành công nghiệp nói
chung, trong đó việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam trở thành
một trong những nhiệm vụ cấp bách.
Công nghiệp phụ trợ (CNPT) là ngành sản xuất các sản phẩm, chi tiết hỗ trợ cho
các ngành công nghiệp chính. Việc phát triển công nghiệp phụ trợ gia tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, giảm giá thành sản xuất.
Ngày nay việc cạnh tranh giữa các nền kinh tế đang phát triển để thu hút FDI đã
dẫn đến một cuộc chạy đua về ưu đãi đầu tư,trong đó các ngành CNPT đã trở thành
sự khích lệ quan trọng cho sự thu hút đầu tư nước ngoài. Xây dựng các ngành
CNPT cho phép nền kinh tế đang phát triển tiếp thu được công nghệ và các doanh
nghiệp tích lũy, huy động các nguồn lực này trong quâ trình phát triển. Chính vì vậy
việc thu hút đầu tư nước ngoài FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ là nhiệm vụ
quan trọng và cần thiết đối với công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế, phần
nào đáp ứng được nhu cầu cần thiết trên con đường Công nghiệp hóa- hiện đại hóa.


Trong đó Việc thu hút FDI của Hàn Quốc vào ngành công nghiệp Phụ trợ Việt Nam
cần phải được chú trọng.
Nền kinh tế Hàn Quốc đã có một “kỳ tích sông Hàn”, nhờ những thay đổi linh
hoạt, khoa học và hợp lý, kịp thời trong chính sách; từ khủng hoảng tài chính châu

Á năm 1997 tới nay, Hàn Quốc đã “thay da đổi thịt”, trở thành một nền kinh tế công
nghiệp mới. Hai nước Việt Nam – Hàn Quốc đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao từ
những năm 1992. Từ lâu Chính phủ Việt Nam đã xác định Hàn Quốc là một trong
những đối tác quan trọng. Đầu tư Hàn Quốc vào Việt Nam, đặc biệt là đầu tư trực
tiếp luôn được Chính phủ Việt Nam đánh giá cao và nỗ lực xúc tiến,Các nhà đầu tư
Hàn Quốc rất quan tâm đến thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam, đã đầu tư vào
Việt Nam từ năm 1988, ngay sau khi Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
có hiệu lực. Tính đến hết năm 2014, Hàn Quốc dẫn đầu về vốn FDI vào Việt Nam.
Tuy nhiên vốn FDI chủ yếu đổ vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, trong khi
đó vốn FDI vào ngành CNPT đã có sự gia tăng, tuy nhiên sự gia tăng này chưa
xứng với tiềm năng phát triển của ngành CNPT.
Nhận thức được tầm quan trọng của FDI Hàn Quốc đối với ngành CNPT Việt
Nam em xin chọn đề tài “ Tăng cường thu hút FDI Hàn Quốc vào ngành Công
nghiệp Phụ trợ Việt Nam”
2. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề thu hút FDI Hàn Quốc vào ngành CNPT Việt Nam
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào ngành CNPT Việt Nam, luận văn đề xuất
các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc thu hút vốn FDI của Hàn Quốc vào
ngành CNPT Việt Nam trong thời gian tới.


3. Phạm vi nghiên cứu
Thu hút FDI của Hàn Quốc vào ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam từ năm 1992
đến năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân
tích số liệu, tổng hợp và so sánh. Từ đó, đưa ra ý kiến nhằm hoàn thiện vấn đề
nghiên cứu.
5. Kết cấu của khóa luận

Đề tài được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vai trò của
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển ngành công nghiệp phụ
trợ
Chương II: Thực trạng thu hút FDI của Hàn Quốc vào ngành công nghiệp phụ trợ
Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI Hàn Quốc vào ngành công
nghiệp phụ trợ Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tính của cử nhân Phạm Thị Kim
Len. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên tiếp cận với thực tế công tác tài chính quốc tế
trong khi trình độ và thời gian còn hạn chế nên bài khóa luận của em không tránh
khỏi những khuyết điểm, thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến của các
thầy cô giáo để bài khóa luận của em hoàn thiện hơn nữa, đồng thời giúp em nâng
cao kiến thức để phục vụ tốt hơn cho học tập và công tác thực tế sau này.
Em xin chân thành cảm ơn


Sinh Viên
Bùi Thị Hiền
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI (FDI) VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư được hiểu là hy sinh những lợi ích trước mắt nhằm kỳ vọng thu được
lợi ích lớn hơn trong tương lai. Đầu tư quốc tế được hiểu một cách chung nhất là
những hoạt động đầu tư được thực hiện ở một nền kinh tế khác.
Đầu tư nói chung và đầu tư quốc tế nói riêng là những hoạt động đang diễn ra
rất phổ biến trong nền kinh tế thế giới đương đại. Có nhiều hình thức đầu tư quốc tế

và xuất phát từ nhiều nguồn vốn khác nhau, một trong số hình thức đầu tư quan
trọng là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1.1. Khái niệm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) hay còn gọi là
đầu tư quốc tế trực tiếp: Đó là việc nhà đầu tư ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa tiền và
các nguồn lực cần thiết từ một quốc gia sang quốc gia khác và chuyển hóa chúng
thành vốn để tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận tối
đa.
Trong đầu tư quốc tế trực tiếp nhà đầu tư trực tiếp tham gia vào tổ chức điều
hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Nói chung, các hoạt động đầu tư này chủ yêu
được diễn ra trong các lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế, bao gồm cả sản xuất,


thương mại và dịch vụ. Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện phổ biến giữa mọi
loại quốc gia, với nhiều hình thức thực hiện, trong đó hình thức thực hiện thông qua
các dự án FDI là phổ biến hơn cả.
1.1.1.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
• Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý, điều hành đối
tượng bỏ vốn. Đặc điểm này giúp phân biệt FDI và FII (Đầu tư gián tiếp
nước ngoài), cụ thể là: Đối với FII thì nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý doanh nghiệp, mà chỉ góp vốn theo một tỷ lệ nhất định theo quy định
của pháp luật.
• Các bên tham gia dự án FDI có quốc tịch khác nhau, văn hóa khác nhau,
đồng thời sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Do đó, trong các doanh nghiệp
FDI thường xảy ra các mâu thuẫn, xung đột do những mâu thuẫn nói trên
giữa các nhà đầu tư, lao động nước ngoài với nhà đầu tư và lao động nước sở
tại.
• Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu sự chi phối của đồng thời nhiều
hệ thống pháp luật, bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các
Bên và luật pháp quốc tế. Quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế

đòi hỏi các quốc gia đều phải tiến hành cải tiến hệ thống pháp luật của mình
sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
• FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức có tính đặc thù như: Hình thức
hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT,….. hoặc tạo ra những vụ đầu tư tập trung
đặc biệt các yếu tố nước ngoài như: khu chế xuất, đặc khu kinh tế mở….
• Hầu hết hoạt động đầu tư nước ngoài đều gắn liền với ba yêu tố: hoạt động
thương mại, chuyển giao công nghệ, di cư lao động quốc tế, chuyển giao kỹ
năng quản lý ở nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
• FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, chính sách về
đầu tư trực tiếp nước ngoài của mỗi quốc gia tiếp nhận thể hiện quan điểm
mở và hội nhập kinh tế quốc tế về đầu tư của quốc gia đó.


• Mức độ rủi ro của FDI là cao, vì ngoài phải chấp nhận các rủi ro chung của
dự án đầu tư, còn phải chấp nhận các rủi ro đặc thù, riêng có, trong đó nổi bật
nhất là rủi ro tỷ giá hối đoái cũng như rủi ro chính trị. Song cái lợi thu được
hứa hẹn trên nhiều mặt.
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hình thức đầu tư nước ngoài là cách thức nhà đầu tư ở một nước có thể và
được phép áp dụng để chuyển đổi quyền sở hữu vốn (bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản
nào) của mình thành quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể
kinh tế ở một quốc gia khác.
Theo luật đầu tư năm 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các hình thức sau:
1.1.2.1. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác
kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh không thành
lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa đại diện có thẩm
quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc thực

hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm là các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình
kinh doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp
đồng hợp tác kinh doanh, phân chia kết quả kinh doanh. Hình thức hợp doanh
không phân phối lợi nhuận và chia sẽ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh theo
tỷ lệ góp vốn hoặc theo thỏa thuận giữa các bên.


Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại một cách
riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp
nước sở tại chịu sự điều chỉnh của nước sở tại, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên
hợp tác được ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.1.2.2. Doanh nghiệp liên doanh (JVC)
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công cụ để thâm nhập vào
thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hợp đồng hợp
tác.
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc
tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài
chính, luật pháp và bản sắc văn hóa; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên
về vốn, quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có
thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh
doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động
đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có
tư cách pháp nhân, được thành lập trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của

chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tùy thuộc vào các điều kiện môi trường kinh


doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa,
mức độ canh tranh…
1.1.2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT là một thuật ngữ để chỉ một mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư
nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà
nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền
xây dựng và vận hành một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công
trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu đường…..Vào cuối giai đoạn vận
hành, doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển giao quyền sở hữu dự án về cho Chính phủ.
Ngoài hợp đồng BOT, còn có hợp đồng BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan
có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể
cả mở rộng nâng cấp, hiện đại hóa công trình) và kinh doanh trong một khoảng
thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không
bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển giao
BT được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là không có
giai đoạn vận hành, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho chủ nhà và vận
hành, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ
nước chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương
xứng vốn đầu tư đã bỏ ra và một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đồng BOT, BTO, BT mặc dù
hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đồng là cơ quan quản lý nhà nước ở
nhà nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác, chủ yếu



áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, được hưởng các ưu đãi đầu tư cao
hơn so với các hình thức đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi hết hạn hợp đồng, phải
chuyển giao không bồi hoàn công trình cơ sở hạ tầng đã được xây dựng và khai thác
cho nước sở tại.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với nước nhận đầu

Nước nhận đầu tư có thể là nước phát triển hoặc các nước đang phát triển, trong
phạm vi nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp này, em chỉ đề cập tới vai trò của FDI tới
nước nhận đầu tư là nước đang phát triển.
Thư nhất, FDI giúp bổ sung nguồn vốn trong nước:
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi
một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn
trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn
FDI. Nguồn vốn FDI giải quyết trình trạng thiếu vốn cho nước nhận đầu tư. Việc
thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể giải quyết khả năng tích lũy
vốn thấp và bù đắp các khoản thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán.
Thứ hai, FDI giúp nước nhận đầu tư tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản
lý kinh doanh:
FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác, phù hợp
với các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng các dây
chuyền sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Thu hút FDI từ các
công ty này sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh
doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những
khoản chi phí lớn. Điều này sẽ cho phép các nước đang phát triển tiếp cận công


nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại. Tuy nhiên, việc có tiếp cận được các công
nghệ hiện đại hay chỉ là các công nghệ thải loại của các nước phát triển lại tùy
thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động hoàn thiện môi trường đầu tư
hay không.

Thứ ba,FDI tạo cơ hội cho nước nhận đầu tư tham gia mạng lưới sản xuất
toàn cầu và tạo điều kiện thuận lợi đẩymạnh xuất khẩu:
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu
tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ
làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia qua trình phân công lao động khu vực.
Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ tư, FDI góp phần tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công:
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được
chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn
nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải
thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình
thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới
mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp.
Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng thu hút FDI. Không chỉ có lao
động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc
và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, FDI đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước:
FDI tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Với việc tiếp cận nguồn vốn FDI, nước chủ nhà không gặp


phải vấn đề về gánh nặng trả nợ. Từ đó, nước tiếp nhận có nhiều khả năng hơn
trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI
1.2.1. Hoạt động thu hút FDI
Hoạt động thu hút FDI là việc thực hiện các biện pháp của nước thu hút đầu
tư để các nhà đầu tư nước ngoài thấy được những thế mạnh của nước mình và
những ưu đãi, lợi ích nhà đầu tư nước ngoài co thể có được khi nhà đầu tư trực tiếp
bỏ vốn, công nghệ và các nguồn lực cần thiết khác để đầu tư phát triển ngành, lĩnh

vực kinh tế - xã hội ở các địa phương hay trên cả nước. Hoạt động thu hút FDI khá
đa dạng và phức tạp, yêu cầu nỗ lực chung của nhà nước sở tại và các ngành liên
quan, đặc biệt là sự nỗ lực từ các ngành công nghiệp. Trong những nỗ lực nhằm thu
hút FDI, nhà nước đóng vai trò đưa ra những chính sách, quy định về đầu tư trực
tiếp nước ngoài, bao gồm rào cản và các biện pháp kích thích đầu tư. Vì thế, nhà
nước cần có những chính sách đúng đắn để thu hút FDI một cách hiệu quả, hợp lý,
tránh trình trạng thu hút tràn lan gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế xã hội
trong nước.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI
• Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Khi quyết định đầu tư vào một quốc gia nào đó thì vị trí địa lý là một trong
những yếu tố quan trọng. Một nước có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu vận
chuyển… mới có thể trở thành bàn đạp để những nước đi đầu thực hiện mục đích
của mình. Vì vậy nó có ý nghĩa như một lợi thế so sánh nhằm thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Cũng như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của nước nhận đầu tư
cũng trở thành một lợi thế so sánh nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Điều kiện tự
nhiên có thể là các điều kiện về khoáng sản, đất, rừng, khí hậu hay không gian của


nước nhận đầu tư. Điều kiện tự nhiên không những ảnh hưởng đến các yếu tố đầu
vào mà còn quyết định yếu tố đầu ra.
• Môi trường chính trị - kinh tế - xã hội nước tiếp nhận đầu tư
Sự ổn định chính trị - xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử
dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị
không ổn định, đặc biệt là thể chế chính trị (đi liền với nó là sự thay đổi luật pháp)
thì mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi. Hậu quả là lợi ích
của các nhà ĐTNN bị giảm (họ phải gánh chịu một phần hay toàn bộ các thiệt hại
đó) nên lòng tin của các nhà đầu tư bị giảm sút. Mặc khác, khi tình hình chính trị xã hội không ổn định, Nhà nước không đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các
nhà ĐTNN, hậu quả là các nhà đầu tư hoạt động theo mục đích riêng, không theo
định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. Do đó hiệu

quả sử dụng vốn FDI rất thấp.
Kinh nghiệm cho thấy, khi tình hình chính trị - xã hội bất ổn thì các nhà đầu
tư sẽ ngừng đầu tư hoặc không đầu tư nữa. Tuy nhiên, nếu chính phủ thực hiện
chính sách cởi mở hơn nữa thì chỉ làm giảm khả năng thu hút các nhà ĐTNN, cá
biệt có trường hợp trong chiến tranh vẫn thu hút được FDI song đó chỉ là trường
hợp ngoại lệ đối với các công ty thuộc tổ hợp công nghiệp quân sự muốn tìm kiếm
cơ hội buôn bán các phương tiện chiến tranh hoặc là sự đầu tư của chính phủ thông
qua hình thức đa phương hoặc song phương nhằm thực hiện mục đích riêng. Rõ
ràng, trong trường hợp này, việc sử dụng FDI không đem lại hiệu quả kinh tế - xã
hội cho nước tiếp nhận đầu tư.
• Luật pháp và cơ chế chính sách
Hệ thống pháp luật bao gồm các văn bản pháp luật, các quy định, các văn bản
quản lý hoạt động đầu tư,…. phản ánh một cách rõ ràng môi trường đầu tư của nước
sở tại. Điều mà nhà đầu tư quan tâm chủ yếu là liệu có sự đảm bảo về pháp luật đối
với các tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh, các quy định về thuế, các mức
thuế và sự phân chia lợi nhuận. Hệ thống pháp luật cũng có thể tạo thuận lợi hoặc
cũng có thể làm hạn chế hay cản trở hoàn toàn hoạt động của các công ty nước
ngoài. Điều này đặt ra vấn đề là cần có cơ chế pháp lý rõ ràng, mềm dẻo tạo thuận
lợi cho các nhà đầu tư mà không mất đi chủ quyền quốc gia.


• Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô.
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu hút được
FDI, nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và
là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn đòi hỏi môi trường vĩ
mô ổn định, hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì mới có
điều kiện sử dụng tốt FDI.
Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô được đánh giá thông qua tiêu chí: chống lạm
phát và ổn định tiền tệ. Tiêu chí này được thực hiện thông qua các công cụ của

chính sách tài chính tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các
công cụ thị trường mở đồng thời phải kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách hoặc
giữ cho ngân sách cân bằng.
• Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu
quả.
Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một hệ thống pháp luật đồng
bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định
hướng và hỗ trrợ chocác nhà ĐTNN. Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là:
- Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật bảo đảm.
- Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận
động cụ thể của vốn nước ngoài.
- Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất...Bởi yếu tố này tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm và
tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi
hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi
nhuận về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao.
Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc: Tôn trọng độc lập chủ
quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý
tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực là bộ máy quản lý nhà
nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực, năng động, có phẩm chất
đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội.

• Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động FDI diễn ra
nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của
các nhà đầu tư trước khi ra quyết định. Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng
lượng, hệ thống cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng... tạo điều kiện cho các dự án FDI phát



triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia và tạo
môi trường đầu tư hấp dẫn.Trong quá trình thực hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh
doanh, thời gian thực hiện các dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển,
thông tin...sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư.

• Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại.
Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi trường thuận lợi, có đầy đủ
các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường hàng hoá - dịch vụ...Các nhà ĐTNN tiến
hành sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị trường đồng bộ, đảm
bảo cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Thị trường lao động là nơi cung cấp lao
động cho nhà đầu tư. Thị trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh và thị
trường hàng hoá - dịch vụ là nơi tiêu thụ sản phẩm, lưu thông hàng hoá, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ
thống thị trường này sẽ đảm bảo cho toàn bộ quá trìng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi - từ
nguồn đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Mở rộng thị
trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác tạo điều kiện cải thiện cán cân thương
mai, chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư.

• Nguồn nhân lực
Con người với trình độ lao đông bằng tri thức, có kỹ năng hay lao động chân
tay đều trở thành nguồn lực phục vụ cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Chi phí nhân
lực (Chi phí dùng cho đào tạo, lương, bảo hiểm, phúclợi) chiếm một bộ phận lớn
trong tổng chi phí lưu động , bởi vì đây là yếu tố quyết định đến quản lý, vận hành
sản xuất kinh doanh ở giai đoạn thứ ba của quá trình đầu tư. Ở các nước đang phát
triển chi phí nhân công rẻ do số lượng dồi dào,thường là lợi thế thu hút FDI lúc ban
đầu, nhưng trình độ công nhân lại là nhược điểm. Do đó ở các nước đang phát triển,
FDI hầu hết tập trung vào những ngành sử dụng nhiều nhân công, không đòi hỏi
nhiều kỹ thuật cao.
• Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới.



Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác,
mà còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu
vực và thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà dầu tư sẽ
tập trung nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu
hút được nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu
ra của các dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế
nên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước
chủ nhà để phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian
tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng
bị ảnh hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN
của họ. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á trong thời gian qua
đã làm giảm tốc độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút vốn
hoặc không đầu tư nữa vì sợ rủi ro.

1.2.3.Nhu cầu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp
phụ trợ Việt Nam
Trước khi FDI vào trong nước đã có những công ty sản xuất sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ cung cấp cho các công ty lắp ráp, sản xuất sản phẩm chính cho thị
trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận những công ty sản xuất công nghiệp hỗ trợ
sẽ phát triển mạnh hơn nếu được tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ
của các doanh nghiệp FDI. Sự liên kết này hình thành do các công ty công nghiệp
hỗ trợ phải tỏ ra có tiềm năng cung cấp linh kiện, phụ liệu với chất lượng và giá
thành cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Tiềm năng đó sẽ thành hiện thực nhờ
chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI.
Với sự gia tăng của FDI, nhiều doanh nghiệp bản xứ ra đời trong các ngành
công nghiệp hỗ trợ chủ yếu để phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp FDI.
Những doanh nghiệp sớm hình thành sự liên kết với doanh nghiệp FDI sẽ được
chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển nhanh, từ đó mở rộng thị trường cho ngành
công nghiệp hỗ trợ.



Khi FDI vào sẽ cải thiện năng lực cho các doanh nghiệp trong nước bằng
cách cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào mạng lưới chuyển giao công
nghệ, từ đó công nghiệp hỗ trợ có nền tảng để phát triển lớn mạnh và được chuyên
môn hóa, đồng thời thu hút được hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ngoài
đầu tư vàocông nghiệp hỗ trợ trong nước.
Việc thu hút FDI phát triển công nghiệp phụ trợ có một ý nghĩa vô cùng
quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi quốc gia, đặc biệt
là ở những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Vì ở những quốc gia này muốn
hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp hiện đại, nhất là những ngành
công nghiệp như sản xuất ô tô, xe máy, các sản phẩm điện tử, điện lạnh,… một cách
hiệu quả thì phải phát triển mạnh ngành công nghiệp phụ trợ để các sản phẩm nó
thay thế dần, tiến tới thay thế hoàn toàn các sản phẩm nhập khẩu. Công nghiệp phụ
trợ được xem là “chìa khóa vàng” thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Tại Việt Nam hiện nay, thuật ngữ công nghiệp phụ trợ không còn xa lạ đối
với các nhà hoạch định chính sách cũng như người làm kinh tế bởi tầm quan trọng
của CNPT được khẳng định mạnh mẽ. Việt Nam cũng đã có một số bước tiến quan
trọng trong phát triển công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên CNPT vẫn đang bị đánh giá là
một ngành chậm phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Những vấn đề đặt
ra trong quá trình đưa đất nước theo định hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa kéo
theo nhu cầu lớn về sản phẩm công nghiệp phụ trợ, mà phần lớn hiện nay dựa vào
nhập khẩu. Với nguồn vốn hạn hẹp, trình độ công nhân tương đối thấp như ở Việt
Nam thì việc thu hút FDI để phát triển một ngành công nghiệp đòi hỏi kỹ thuật cao,
vốn lớn như CNPT là hết sức quan trọng và cần thiết.
1.3. Kinh nghiệm thu hút FdI vào ngành công nghiệp phụ trợ ở một số
nước Châu Á


1.3.1. Kinh nghiệm thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ của Thái

Lan
Ở Thái Lan từ lâu người ta đã nhận ra là cần phải khuyến khích sự phát triển
của CNPT và nhu cầu cấp bách này ngày càng trở nên rõ ràng hơn khi Thái Lan
theo đuổi chiến lược hướng ra xuất khẩu. Thái Lan đã tận dụng lợi thế việc các
công ty Nhật Bản ồ ạt đầu tư sang các nước ASEAN để phát triển CNPT trong
nước. Với chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chọn lọc, Thái Lan
đã đưa ra nhiều ưu đãi về thuế, thành lập các khu tự do thương mại cho các dự án
đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm.
Bên cạnh các chính sách ưu đãi cho phát triển CNPT, Thái Lan còn thành lập
các Ủy ban hỗ trợ về vấn đề này và các tổ chức chuyên lo phát triển xây dựng và
hình thành mối liên kết công nghiệp trong và ngoài nước. Ngoài ra Thái Lan còn có
chính sách buộc các nhà đầu tư nước ngoài đã ổn định trong sản xuất kinh doanh
phải thay đổi theo chiến lược để tuân thủ tỷ lệ nội địa hóa. Điều này kéo theo những
dự án đầu tư mở rộng nhà xưởng sản xuất tại chỗ đồng thời kéo theo các công ty,
tập đoàn lớn từ chính nước họ sang đầu tư ở Thái Lan để mở thêm các cơ sở CNPT.
Hiện nay Thái Lan đã đứng đầu các nước ASEAN về phát triển CNPT.
1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia có nền công nghiệp phát triển nhất khu vực Đông Á.
Các tập đoàn lớn của Nhật Bản như: Mitsubishi, Honda, Toshiba,… đang khẳng
định vị thế trên thị trường thế giới. Để có thành quả như ngày hiện nay một phần là
nhờ vào chính phủ Nhật Bản đã đưa ra chiến lược phát triển công nghiệp phù hợp,
đặc biệt là việc quan tâm phát triển ngành CNPT giúp đưa đất nước Nhật Bản từ
chỗ phụ thuộc vào nước ngoài, công nghiệp yếu kém trở thành quốc gia tự chủ về
kinh tế với trình độ công nghệ hiện đại nhất thế giới. Để phục vụ nhà máy lắp ráp,


Nhât Bản có hàng nghìn các doanh nghiệp vệ tinh khác sản xuất các linh kiện phụ
tùng hỗ trợ cho doanh nghiệp đó. Hiện ở Nhật Bản có nhiều tên tuổi tầm cỡ thế giới
nhưng các công ty này chỉ chiếm 1% mà thôi và công việc chủ yếu vẫn là lắp ráp,
sản xuất cuối cùng, còn 90% doanh nghiệp cấp thấp hơn sản xuất các linh kiện cho

những công ty này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc biệt chỉnh phủ Nhật Bản còn có những chính sách hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, Nhật Bản luôn quan tâm đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ và
luôn đánh giá họ rất cao trong việc thúc đẩy ngành CNPT phát triển. Từ năm 1963,
đã có quỹ tài chính đầu tư vốn cho doanh nghiệp loại này. Chỉ mất 3 ngày doanh
nghiệp vừa và nhỏ có thể vay vốn. Ngoài ra Nhật Bản còn thành lập những đơn vị
bảo lãnh tín dụng có khả năng bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi họ
vay vốn cho các doanh nghiệp tư nhân khác. Bên cạnh những hỗ trợ về tài chính,
Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ về công nghệ. Nhật Bản còn quan tâm tới việc xúc
tiến các liên kết giữa các nhà cung cấp các linh kiện, thường là các doanh nghiệp
nhỏ với các công ty lớn bằngviệc thiết lập cơ sở dữ liệu về CNPT. Các địa phương
đều có cơ sở dữ liệu riêng với sự tham gia của các quan chức chính quyền, các
doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu. Các cơ sở dữ liệu này có chất lượng cao cung
cấp thông tin chi tiết về các nhà cung cấp và rất dễ tiếp cận.
Vấn đề nhân lực cũng là một trong những chiến lược của Nhật Bản. Nhật Bản
đã thiết lập hệ thống mang tên “meister” ở cấp quốc gia, tỉnh thành phố và công ty.
Meister là thuật ngữ theo tiếng Đức dành cho người lao động có kỹ thuật cao trong
các ngành nghề chế tạo. Như vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực được phối
hợp thực hiện ở tất cả các cấp nhằm khuyến khích lao động có trình độ kỹ thuật tốt
ngày càng hoàn thiện chất lượng và họ được xã hội thừa nhận. Những kinh nghiệm
từ việc nghiên cứu chính sách của Nhật Bản sẽ vô cùng có ích cho việc quy hoạch
phát triển CNPT ở Việt Nam hiện nay.


×