Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TỔ CHỨC CHO HỌC SINH LĨNH HỘI CHUẨN KIẾN THỨC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN THẾ KỈ (X - XV) LỚP 10 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 34 trang )

www.huongdanvn.com

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trƣờng THPT Sông Ray
Mã số:
……………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TỔ CHỨC CHO HỌC SINH LĨNH HỘI CHUẨN KIẾN
THỨC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN THẾ KỈ (X - XV) LỚP 10 TRƢỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG (CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)


Người thực hiện: Nguyễn Xuân Sơn
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lí giáo dục 
- Phương pháp dạy học bộ môn: Lịch sử
- Lĩnh vực khác………………………
Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong văn bản in SKKN
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác

Năm học: 2011 - 2012

1

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................


...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

SƠ LƢỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Xuân Sơn
2. Sinh ngày 05 tháng 4 năm 1976
3. Nam
4. Địa chỉ: Ấp 8, xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thoại: 0613. 713. 267 (CQ), ĐTDĐ 0985710075
6. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Sông Ray
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị : Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2011
- Chuyên ngành đào tạo: Thạc sĩ Giáo dục học
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy
- Số năm có kinh nghiệm: 12 năm
- Các kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: Sử dụng các loại bảng biểu
trong dạy học lịch sử; Hình thành khái niệm trong dạy học lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1919 – 1925 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn).

2

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................

..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

SỞ GD VÀ ĐT ĐỒNG NAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Đơn vị: Trường THPT Sông Ray
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Cẩm Mỹ, ngày 16 tháng 5 năm
2012
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011 – 2012
- Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến thức
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỉ (X - XV) lớp 10 trường Trung
học phổ thông” (Chương trình chuẩn).
- Họ và tên tác giả: Nguyễn Xuân Sơn. Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị: Trường Trung học phổ thông Sông Ray.
- Lĩnh vực:

+ Quản lí giáo dục 
+ Phương pháp dạy học bộ môn: Lịch sử
+ Phương pháp giáo dục

+ Lĩnh vực khác………………………

1. Tính mới

- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách
Tốt
Khá
Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, để thực
hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt
Khá
Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế dath hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt
Khá
Đạt
NHẬN XÉT CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
THỦ TRƢỞNG ĐƠN
VỊ

Dƣơng Thị Thanh Hà

Trƣơng Văn Nhi

3

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Một trong những vấn đề nổi lên trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
hiện nay mà hầu hết giáo viên quan tâm là “dạy cái gì” cho phù hợp với mục tiêu và
khả năng nhận thức của học sinh. Câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản, ai cũng hiểu, ai
cũng có thể trả lời, đó là dạy những gì có trong sách giáo khoa. Câu trả lời như thế
là đúng nhưng không chính xác.
Đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy học nói riêng trước hết
là đổi mới về quan niệm dạy học: Dạy học cái gì?, Dạy học để làm gì?, Dạy học như
thế nào?... Những vấn đề như vậy là một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc của
chương trình môn học mà Luật Giáo dục và Chương trình Giáo dục phổ thông (2005)
đã quy định, đó là việc thực hiện Chuẩn kiến thức (KT), kĩ năng (KN) và hướng thái
độ trong học tập.
“Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục, quy định Chuẩn KT,
KN, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả của giáo dục đối với các môn học ở mỗi
lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo” [16, tr. 71 - 72].
“Chuẩn KT, KN là căn cứ để biên soạn SGK, quản lý dạy học, đánh giá kết
quả giáo dục ở từng môn học, hoạt động giáo dục nhằm đảm bảo tính thống nhất,
tính khả thi của Chương trình Giáo dục phổ thông; bảo đảm chất lượng và hiệu quả
của chương trình giáo dục” [16, tr. 81].

Để thực hiện Chuẩn KT, KN theo quy định của chương trình thì cần phải
“Đổi mới PP giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học” [7, tr. 319]. Thực chất của việc đổi mới
PPDH là giúp HS tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức mới dưới sự chỉ đạo, hướng
dẫn của giáo viên.
Bộ môn Lịch sử có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
giáo dục phổ thông, giáo dục thế hệ trẻ. “Môn Lịch sử ở trường phổ thông nhằm
giúp cho HS có được những KT cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới, góp phần hình
thành ở HS thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền
thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng
xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [7, tr. 301].
Tuy nhiên, KT của Khoa học Lịch sử thì ngày càng nhiều trong khi thời
lượng làm việc trực tiếp giữa GV và HS thì rất ít. Vì vậy, chúng ta không thể và
cũng không cần thiết dạy tất cả KT lịch sử cho HS. Cho nên, phải xác định và
truyền thụ những KT nào là quan trọng nhất, cần thiết, đủ để HS có thể biết, hiểu
bức tranh của quá khứ với những nét chung nhất, điển hình nhất. Hay nói cách khác,
việc xác định và tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT trong DHLS là hết sức quan
trọng. Nó là yếu tố cơ sở đầu tiên của mục đích học tập bộ môn. Chỉ có lĩnh hội
được Chuẩn KT lịch sử, HS mới nảy sinh tư tưởng, tình cảm đúng đắn và phát triển
toàn diện con người các em. Không tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT thì không
thực hiện được mục tiêu môn học.
Thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đã có bước tiến nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục đặt ra. Một thực tế đang diễn ra là HS biết,
hiểu rất mơ hồ về lịch sử, không nắm được những kiến thức lịch sử cơ bản. Điều này
được phản ánh phần nào qua kết quả các kỳ thi vào đại học trong những năm gần đây.
Về phía GV, nhiều người lệ thuộc vào SGK, coi SGK là pháp lệnh, cung cấp
4

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................

...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

và truyền thụ tất cả kiến thức có trong SGK. Điều đó làm cho bài giảng trở nên
nặng nề, quá tải, HS mệt mỏi và không phân biệt được đâu là kiến thức cơ bản, đâu
là kiến thức không cơ bản.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỉ (X - XV) SGK lớp 10 (Chương trình Chuẩn),
phản ánh toàn bộ quá trình xây dựng và xác lập nhà nước phong kiến Việt Nam gắn
liền với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giữ vững nền độc lập dân tộc với nội dung
khá toàn diện, mức độ bao quát rộng và tính khái quát cao. Mặt khác, những thành tựu,
quan điểm sử học mới nhất cũng đã được cập nhật trong nội dung SGK mới hiện nay.
Từ những điểm lưu ý đó, chúng ta thấy rằng, việc tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn
KT trong DHLS Việt Nam giai đoạn thế kỉ (X - XV) lớp 10 trường THPT có ý nghĩa
rất lớn.
Như vậy, lý luận và thực tiễn đặt ra một vấn đề cấp thiết là phải nâng cao
chất lượng dạy học lịch sử để đáp ứng mục tiêu dạy học bộ môn. Muốn làm được
điều này, trước hết phải giúp HS lĩnh hội được Chuẩn kiến thức. Tuy nhiên, hiểu thế
nào cho đúng về Chuẩn kiến thức? Làm thế nào để tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn
kiến thức trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 trường THPT? Đó là lý do tôi chọn
đề tài “Tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến thức trong dạy học lịch sử Việt
Nam giai đoạn thế kỉ (X - XV) lớp 10 trường Trung học phổ thông” (Chương
trình Chuẩn) làm sáng kiến kinh nghiệm.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Quan niệm về Chuẩn kiến thức bộ môn Lịch sử
 Quan niệm về Chuẩn kiến thức bộ môn Lịch sử
Cũng như tất cả các môn học khác, DHLS ở trường THPT không thể cung

cấp cho HS toàn bộ KT của Khoa học Lịch sử, mà chỉ có thể lựa chọn những KT cơ
bản, quan trọng, điển hình căn cứ vào mục tiêu giáo dục bộ môn và khả năng nhận
thức của HS để cung cấp cho các em.
Xung quanh vấn đề thực hiện chương trình và SGK, một bộ phận không nhỏ
GV còn tỏ ra lúng túng. “Trong DHLS chúng ta thường gặp một mâu thuẫn là khối
lượng KT cần cung cấp cho HS thì nhiều mà thời gian và trình độ HS có hạn, HS
nhớ nhiều sự kiện và nhân vật, song không hiểu lịch sử, lại chóng quên, nhớ sai,
nhớ lầm… Không giải quyết tốt mâu thuẫn này sẽ dẫn tới tình trạng “quá tải”, một
trong những biểu hiện thường gặp là nặng về sự kiện, ôm đồm, vượt quá trình độ và
yêu cầu của chương trình, hoặc trở nên “mù lịch sử” [30, tr. 80]. Để giải quyết mâu
thuẫn này, góp phần cải thiện chất lượng dạy học bộ môn, Bộ GD & ĐT đã tổ chức
biên soạn và ban hành bộ Chương trình Giáo dục phổ thông theo tinh thần đổi mới,
trong đó có “Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử”. Điểm mới của
chương trình lần này là đưa Chuẩn KT, KN vào thành phần của Chương trình Giáo
dục phổ thông, đảm bảo việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá theo Chuẩn KT,
KN tạo nên sự thống nhất trong cả nước.
Chuẩn KT, KN là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT, KN của môn học,
hoạt động giáo dục mà HS cần phải và có thể đạt được sau từng giai đoạn học tập.
Mỗi cấp học có Chuẩn KT, KN và yêu cầu về thái độ mà HS cần phải đạt được.
Chuẩn KT, KN là căn cứ để biên soạn SGK, quản lý dạy học, đánh giá kết
quả giáo dục ở từng môn học, hoạt động giáo dục nhằm đảm bảo tính thống nhất,
tính khả thi của Chương trình Giáo dục phổ thông; bảo đảm chất lượng và hiệu quả
5

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c



www.huongdanvn.com

của chương trình giáo dục [16, tr. 81].
Mới đây nhất, trong tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kỹ năng
môn Lịch sử (lớp 10, 11, 12) đã nói rất rõ về khái niệm Chuẩn KT [5, tr. 5]:
Chuẩn KT, KN của Chương trình môn học là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về
KT, KN của môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị KT (mỗi
bài, chủ đề, chủ điểm, mô đun).
Chuẩn KT, KN của một đơn vị KT là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT, KN
của đơn vị KT mà HS cần phải và có thể đạt được.
Yêu cầu về KT, KN thể hiện mức độ cần đạt về KT, KN.
Như vậy, Chuẩn KT bộ môn Lịch sử là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT
của bộ môn Lịch sử mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị KT để đạt
được trình độ của chương trình mỗi lớp, mỗi cấp.
Đồng thời, như chúng tôi đã đề cập ở phần trước, khái niệm Chuẩn KT gần
với khái niệm KT cơ bản, chỉ khác nhau ở chỗ: KT cơ bản nghiêng về việc xác định
KT phản ánh sự phát triển của lịch sử xã hội loài người; còn Chuẩn KT nhấn mạnh
đến những yêu cầu (mức độ) về KT, KN phải đạt được đối với HS mỗi lớp học, cấp
học. Vì vậy, xét ở một khía cạnh nhất định có thể hiểu KT cơ bản là Chuẩn KT của
bài học, môn học mà HS phải đạt theo quy định của chương trình. Do đó, tổ chức
cho HS lĩnh hội Chuẩn KT chính là “nhằm xác định và tổ chức, hướng dẫn HS có
năng lực nắm vững, hiểu rõ, vận dụng những KT cơ bản. Đó là những KT “tối
thiểu”, cần thiết mà HS phải nắm được để đạt được mức độ của mỗi lớp, mỗi cấp,
do chương trình quy định để đạt được trình độ “mặt bằng” chung của HS cả nước.
KT cơ bản được xác định là “Chuẩn”, là thước đo kết quả học tập của HS trong
đánh giá kiểm tra chung [16, tr. 81].
 Những đặc điểm của Chuẩn kiến thức
- Chuẩn KT, KN được chi tiết, tường minh bằng yêu cầu cụ thể, rõ ràng về
KT, KN.
- Chuẩn KT, KN có tính tối thiểu nhằm đảm bảo HS cần phải và có thể đạt

được những yêu cầu cụ thể này.
- Chuẩn KT, KN là thành phần cơ bản của Chương trình Giáo dục phổ thông.
Trong Chương trình Giáo dục phổ thông, Chuẩn KT, KN được thể hiện, cụ
thể hóa ở các chủ đề của chương trình môn học, theo từng lớp; đồng thời cũng được
thể hiện ở phần cuối của chương trình mỗi cấp học.
- Chuẩn KT, KN là thành phần của Chương trình Giáo dục phổ thông. Việc
chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá theo Chuẩn KT, KN sẽ tạo nên sự thống nhất;
làm hạn chế tình trạng dạy học quá tải, đưa thêm nhiều nội dung nặng nề, quá cao
so với Chuẩn KT, KN vào dạy học, kiểm tra, đánh giá; góp phần làm giảm tiêu cực
của dạy thêm, học thêm; tạo điều kiện cơ bản, quan trọng để có thể tổ chức giảng
dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá và thi theo Chuẩn KT, KN.
 Các mức độ về kiến thức
KT, KN phải dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ HS ở các mức độ, từ
đơn giản đến phức tạp; nội dung bao hàm các mức độ khác nhau của nhận thức
- Mức độ cần đạt được về KT được xác định theo 6 mức độ: nhận biết, thông
hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo.
+ Nhận biết: Là sự nhớ lại các dữ liệu, thông tin đã có trước đây; nghĩa là có
thể nhận biết thông tin, ghi nhớ, tái hiện thông tin, nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các
sự kiện đơn giản đến các lý thuyết phức tạp.
6

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

+ Thông hiểu: Là khả năng nắm được, hiểu được ý nghĩa của các khái niệm,

sự vật, hiện tượng; giải thích được, chứng minh được.
+ Vận dụng: Là khả năng sử dụng các KT đã học vào một hoàn cảnh cụ thể
mới: vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra; là khả năng
đòi hỏi HS phải biết vận dụng KT, biết sử dụng PP, nguyên lí hay ý tưởng để giải
quyết một vấn đề nào đó.
+ Phân tích: Là khả năng phân chia một thông tin ra thành các phần thông
tin nhỏ sao cho có thể hiểu được cấu trúc, tổ chức của nó và thiết lập mối liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
+ Đánh giá: Là khả năng xác định giá trị của thông tin: bình xét, nhận định,
xác định được giá trị của một tư tưởng, một nội dung KT, một PP.
+ Sáng tạo: Là khả năng tổng hợp, sắp xếp, thiết kế lại thông tin; khai thác,
bổ sung thông tin từ các nguồn tư liệu khác để sáng lập một hình mẫu mới.
Tuy nhiên, trong Chương trình Giáo dục phổ thông, chủ yếu đề cập đến ba
mức độ đầu. Các mức độ còn lại chú trọng phát huy năng khiếu, sở trường, năng lực
sáng tạo của HS.
 Mối quan hệ giữa Chuẩn kiến thức với kỹ năng và hướng thái độ
“Chuẩn KT trong DHLS không chỉ đòi hỏi phải xác định KT khoa học mà
phải phù hợp với yêu cầu, trình độ học tập của HS. KT cơ bản cung cấp cho HS khi
học tập lịch sử bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, ngoài sự kiện, nhân vật, địa danh,
thời điểm, còn có khái niệm, quy luật, nguyên lý, hiểu biết về PP học tập…
Quan niệm KT cơ bản về lịch sử như vậy mới gắn Chuẩn KT với Chuẩn KN;
bởi vì HS không chỉ tiếp nhận một cách thụ động, thuộc lòng sự kiện, do GV cung
cấp mà còn tự mình sưu tầm, chọn lựa sự kiện, tạo biểu tượng, hình thành khái
niệm, đặt và giải quyết vấn đề, làm bài tập, tự đánh giá, liên hệ thực tế, vận dụng
KT vào việc tiếp nhận KT mới và cuộc sống. Có KN học tập như vậy, HS mới nhớ
lâu, hiểu sâu, làm bài tốt.
Việc nắm vững KT lịch sử sẽ có tác dụng đối với việc bồi dưỡng tình cảm,
thái độ, tư tưởng cho HS; bởi vì, môn Lịch sử có nhiều sở trường và ưu thế trong
việc giáo dục trên cơ sở sự kiện cơ bản, chính xác một cách tự giác, khắc phục được
các thiếu sót về bệnh công thức, giáo điều” [19, tr. 1].

Như vậy, Chuẩn KT, KN và hướng thái độ trong DHLS có mối quan hệ biện
chứng không thể tách rời. Chuẩn KT vừa là mục tiêu, vừa là con đường để thực hiện
Chuẩn KN và hướng giáo dục HS. Chỉ có thể trên cơ sở đạt Chuẩn về KT thì các
KN của HS cũng được hình thành và phát triển không ngừng; đồng thời HS cũng
hình thành thái độ đúng đắn trong học tập, trước lịch sử và trong cuộc sống. Việc
Chuẩn KN và hướng giáo dục chỉ có thể thực hiện trên cơ sở của việc HS đạt Chuẩn
KT và ngược lại nếu KN và thái độ của HS không được phát triển phù hợp thì các
em cũng khó có thể nhận thức được lịch sử, không thể nắm vững và vận dụng tốt
KT trong học tập và cuộc sống.
Chuẩn KT, KN và hướng thái độ là thể thống nhất của mục tiêu DHLS, là mức
độ tối thiểu mà tất cả HS phải đạt được về KT, KN và thái độ phù hợp với mức độ
chương trình và khả năng của các em sau khi học xong một nội dung, chương, bài
lịch sử nhất định. Việc xác định đúng đắn Chuẩn KT, KN và tổ chức cho HS lĩnh hội
Chuẩn KT, KN là một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn trong điều kiện hiện nay.
1.2. Quan niệm về việc tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến thức trong
7

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

dạy học Lịch sử ở trƣờng Trung học phổ thông
1.2.1. Tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến thức là quá trình dạy học tích
cực
Lý luận dạy học đã chỉ rõ: “Quan điểm đảm bảo tính cơ bản đòi hỏi tăng

cường tính thực hành, khả năng vận dụng, chú trọng dành thời gian và ưu tiên cho
việc tổ chức các hoạt động học tập để phát triển các năng lực cho học sinh” [28, tr.
309]. Điều đó có nghĩa, để giúp HS nắm được những nội dung cốt lõi, then chốt, có
ý nghĩa nhất về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, để đạt được trình độ “Chuẩn” về
KT, KN và thái độ theo quy định của chương trình thì phải tổ chức cho HS lĩnh hội
Chuẩn KT thông qua các hoạt động học tập hướng vào phát huy tính tích cực, sáng
tạo của người học.
Mặt khác, cùng với sự phát triển ngày càng cao của xã hội loài người, thế hệ
trẻ cũng có sự phát triển nhanh hơn về nhận thức và tri thức của mình, như tiếp cận
công nghệ thông tin. Do đó, “Trong học tập, HS không thỏa mãn với vai trò của
người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn được đưa ra.
Như vậy, ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình: sự lĩnh hội
độc lập các tri thức và phát triển kĩ năng. Để hình thành và phát triển phương thức
học tập tự lập ở HS một cách có chủ định thì cần thiết phải có sự hướng dẫn đồng
thời tạo các điều kiện thuận lợi” [10, tr. 7]. Từ những thay đổi trong sự phát triển
tâm – sinh lí của HS hiện nay đòi hỏi quá trình dạy học nói chung, DHLS ở trường
THPT nói riêng phải là một quá trình dạy học tích cực thông qua việc tổ chức các
hoạt động học tập nhằm giúp HS tự lực chiếm lĩnh tri thức.
Tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT là một quá trình dạy học tích cực, có
nghĩa, quá trình dạy học đó phải phát huy được năng lực cá nhân của HS, khác với
học tập thụ động theo lối dạy truyền thống.
Để làm rõ vấn đề này, trước hết chúng ta nên hiểu học tập thụ động của HS
như thế nào?
Khái niệm học tập thụ động được hiểu là “một loại lao động học tập chịu sự
chi phối, tác động của bên ngoài là chính, là chủ yếu; hiểu một cách chung nhất
người học như một cái bình chứa KT được người dạy rót vào đó. Học tập thụ động
là một kiểu học tập thiếu sự độc lập trong suy nghĩ và tiếp nhận, hầu như không có
sự tìm tòi, sáng tạo, KT mà người học thu được khó trở thành tài sản riêng của họ”
[3, tr. 21].
Thái độ học tập thụ động, tiếp thu bài một cách thụ động, không hề có phản

ứng tích cực trở lại trong quá trình học tập, đối với người học, đó sẽ là một sức ì về
tâm lý, áp lực tâm lý cản trở sự lĩnh hội tri thức, quá trình hình thành thái độ và
niềm tin của người học trong quá trình học tập. Tình trạng HS nghe tai này nhưng
lại ra ở tai kia, không lắng đọng được trong đầu của họ chính là biểu hiện của học
tập thụ động.
Quan niệm dạy học chỉ là truyền thụ, thông báo, giảng giải KT trong SGK, là
nói cho HS nghe, ghi chép… dẫn đến kiểu học tập thụ động của HS như trên đã trở
nên không phù hợp trong thực tế dạy học và giáo dục hiện nay, nhất là trong điều
kiện khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, đổi mới
mạnh mẽ PPDH của GV theo hướng dạy tự học, dạy cách học cho HS, nhằm
chuyển từ PPDH thụ động sang PPDH tích cực, phát huy sự năng động, tự giác, chủ
động và sáng tạo của người học (biểu hiện của năng lực cá nhân) là xu hướng tất
yếu hiện nay.
8

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

“PPDH tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái với không
hoạt động, thụ động. Kĩ thuật dạy học tích cực là “hạt nhân” của PPDH tích cực,
hướng tới tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS, nghĩa là hướng vào phát huy
tính tích cực, chủ động của người học chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính
tích cực của người dạy” [11, tr. 11]. Nói cách khác, PPDH tích cực là PP định
hướng cho HS “phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật, hiện
tượng”, là “phải hướng HS tích cực tự giành kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám

phá và sáng tạo” [14, tr. 14].
PPDH tích cực được nói đến ở đây bao gồm các PPDH mới (DHNVĐ, dạy
học theo nhóm) và các PPDH truyền thống được vận dụng theo quan điểm dạy học
tích cực (sử dụng SGK và các tài liệu học tập, sử dụng ĐDTQ, sử dụng HTCH…).
Như vậy, đổi mới PP dạy và học không có nghĩa là gạt bỏ các PP truyền thống mà
phải vận dụng một cách có hiệu quả các PPDH hiện có theo quan điểm dạy học tích
cực, kết hợp với các PP hiện đại.
Để tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT thông qua các PPDH tích cực trên
đây, cần phải phối hợp chặt chẽ hoạt động của GV và HS. Chúng tôi có thể minh
họa điều này qua bảng sau:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
- Tạo tình huống để HS rõ vấn đề, thấy - Nghe, tiếp thu, chuyển mâu thuẫn bên
mâu thuẫn cần giải quyết.
ngoài thành mâu thuẫn bên trong, có
- Giao nhiệm vụ học tập: đặt CH, ra nhu cầu giải quyết mâu thuẫn.
BT…
- Tiếp nhận nhiệm vụ học tập qua CH,
- Hướng dẫn HS hoạt động: đọc SGK, BT…
nghiên cứu tài liệu tham khảo, tổ chức - Đọc SGK, tài liệu, tái hiện, suy nghĩ
thảo luận…
sáng tạo, trả lời CH, thảo luận…
- Theo dõi sự tự học của HS, tổ chức - Phát huy tính tích cực, nổ lực sáng
nhóm thảo luận, đặt các CH bổ sung khi tạo, trao đổi với bạn bè, hỏi GV để thảo
cần thiết…
luận, giải quyết các nhiệm vụ học tập:
- Giải đáp CH
trả lời CH, làm BT…
- Phân tích, bổ sung, khẳng định những - Nêu CH.
điểm đúng, phê phán những thiếu sót, - Sữa chữa, hoàn thiện, hệ thống hóa tri

sai lầm.
thức, KN.
Như vậy, muốn tổ chức hoạt động lĩnh hội KT cho HS trên lớp có hiệu quả
thì khi thiết kế bài học, GV cần có sự đổi mới: chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt
động của GV sang thiết kế các hoạt động tự học của HS, tăng cường tổ chức các
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm bằng các nhiệm vụ học tập cụ thể.
1.2.2. Quan niệm về lĩnh hội kiến thức
Lý luận dạy học đã chỉ rõ: “Lĩnh hội KT là quá trình người học xây dựng lại
KT đã tiếp thu được bằng kinh nghiệm bản thân thông qua hoạt động học. Quá
trình lĩnh hội KT cũng là quá trình hình thành nhân cách, vì trong quá trình đó, con
người chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội, biến thành kinh nghiệm của mình. Quá trình
này mang tính sáng tạo chứ không đơn giản là bắt chước, rập khuôn”. Mặt khác,
“lĩnh hội KT là hoạt động nhận thức có tổ chức và được thực hiện trong điều kiện
sư phạm nhất định, là quá trình phát triển trí tuệ. Lĩnh hội KT bao gồm các mức độ
biểu hiện: biết, hiểu và vận dụng” [12, tr. 17].
Trong DHLS, quá trình lĩnh hội KT cũng tuân thủ theo lý luận trên, tức là, từ
9

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

nhận biết đến hiểu và vận dụng vào thực tiễn trong hoàn cảnh mới. Quá trình học tập
lịch sử của HS có hai loại lĩnh hội KT: tái tạo và sáng tạo. Lĩnh hội sáng tạo luôn dựa
trên cơ sở của hoạt động tư duy độc lập và lĩnh hội tái tạo dựa trên cơ sở của trí nhớ,
hiểu biết những KT có sẵn. Điều này được cụ thể hóa qua bảng sau:

Lĩnh hội tái tạo
Lĩnh hội sáng tạo
1. Khi tiến hành bài học, GV đọc cho 1.GV hướng dẫn HS tự hình thành đề
HS chép đề cương của bài giảng.
cương bài học trong quá trình nghe
giảng.
2. Khi tiến hành bài học, GV đưa ra bức 2. GV đưa ra ĐDTQ cho HS quan sát
tranh cho HS xem và phân tích, rút ra rồi hướng dẫn bằng cách đặt CH gợi
kết luận.
mở để các em nêu lên nội dung và đánh
giá.
3. GV tự sưu tầm tài liệu lịch sử địa 3. GV hướng dẫn HS sưu tầm tài liệu
phương và thông báo cho HS trong giờ lịch sử địa phương liên quan đến bài
học.
học và thông báo trước lớp cho các bạn
nghe để trao đổi.
Ở cột thứ nhất (lĩnh hội tái tạo), GV là người đảm nhận hầu hết mọi công
việc trong quá trình lên lớp, thực hiện việc thông báo những KT có sẵn. HS nghe
giảng, ghi chép một cách thụ động và ghi nhớ các kết luận do GV đưa ra. Ngược lại,
ở cột thứ hai (lĩnh hội sáng tạo), GV là người đóng vai trò tổ chức, điều khiển, dẫn
dắt HS chiếm lĩnh KT thông qua nhiều biện pháp sư phạm khác nhau. Việc rút ra
kết luận, nhận xét do HS tự làm dưới sự hướng dẫn của GV, nhờ vậy KT mà HS có
được sẽ vững chắc và sâu sắc hơn. Trong DHLS ở trường THPT thường phải kết
hợp cả hai loại nhận thức trên, tùy vào nội dung lịch sử cụ thể. Song cần chú ý đặc
biệt tới hoạt động lĩnh hội sáng tạo của HS, bởi vì “KT chỉ thực sự trở thành KT khi
nó là thành quả của tư duy chứ không phải trí nhớ” (Leptonxtoi) [12, tr. 17].
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến thức
trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông
Trong DHLS hiện nay chúng ta thường gặp mâu thuẫn là khối lượng KT
cần cung cấp cho HS thì nhiều mà thời lượng dành cho việc dạy học ở trên lớp và

trình độ HS lại có hạn. Không giải quyết tốt mâu thuẫn này sẽ dẫn đến tình trạng
“quá tải”, chất lượng dạy học bộ môn giảm sút. Trên cơ sở mục tiêu dạy học bộ
môn, đặc điểm của KT, của nhận thức lịch sử và trình độ HS, việc tổ chức cho HS
lĩnh hội Chuẩn KT là một biện pháp quan trọng nhằm giảm tải, nâng cao chất
lượng, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu dạy học bộ môn, góp phần hoàn
thành mục tiêu giáo dục phổ thông.
Trước hết, tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT là cơ sở giúp HS nắm vững hệ
thống KT cơ bản của bộ môn theo quy định của chương trình. Đó là hệ thống KT tối
thiểu mà HS trong cả nước phải đạt được. Trên nền tảng đó, HS không ngừng nâng
cao hiểu biết của mình về quá khứ, có thể vận dụng những hiểu biết ấy vào thực tiễn
cuộc sống. Ở đây HS cũng phải đi từ “biết” đến “hiểu” sâu sắc lịch sử. Nói cách
khác, các em không những nắm vững phần sử mà còn vững vàng, sâu sắc trong
phần luận; đồng thời cũng tránh được hiện tượng quá tải, gây nhàm chán, giảm chất
lượng dạy học bộ môn.
10

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

Tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT cũng là cơ sở để thực hiện Chuẩn KN
trong DHLS, góp phần phát triển các năng lực nhận thức, KN, kĩ xảo của HS nói
chung và rèn luyện các thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng. Thực tiễn
việc DHLS hiện nay cho thấy, do xác định không đúng những KN cần thiết phải
hình thành cho HS qua dạy học từng nội dung, chương, bài cụ thể nên GV thường
lúng túng, dẫn đến việc xem nhẹ vai trò của việc phát triển các KN cho HS trong

học tập bộ môn. Việc xác định đúng đắn Chuẩn KN và có biện pháp phù hợp nhằm
thực hiện Chuẩn KN trong DHLS là biện pháp quan trọng nhằm khắc phục những
thiếu sót nói trên.
Tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT là phương thức tốt để hình thành KT với
niềm tin, gợi dậy những xúc cảm lịch sử, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm
đạo đức cho HS. Ví như, khi dạy học bài 20 “Xây dựng và phát triển văn hóa dân
tộc trong các thế kỉ X - XV”, GV sử dụng các hình ảnh: Chùa Một Cột, Tháp Phổ
Minh, Lan can đá chạm rồng tại thềm điện Kính Thiên, kết hợp miêu tả khái quát có
phân tích và đàm thoại để HS tự tìm ra những nội dung lịch sử thể hiện qua các
công trình kiến trúc (từ kết cấu, không gian, đến hoa văn và ý tưởng xây dựng). Từ
đó sẽ làm nảy sinh trong trái tim HS sự khâm phục, tự hào về tài trí của tổ tiên và ý
thức trách nhiệm trong việc gìn giữ những di sản mà cha ông ta để lại. Đồng thời, tổ
chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT (bằng các PPDH tích cực) còn góp phần giáo dục
tính chuyên cần, tính tập thể trong lao động, học tập của HS, bởi vì để có thể rút ra
được những kết luận, đánh giá, nhận xét độc lập, HS phải tìm tòi, suy nghĩ và trao
đổi thảo luận với các thành viên khác.
Chùa Một cột (Hà Nội)

Tháp chùa Phổ Minh (Nam Định)

11

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com


Lan can đá chạm rồng tại thềm điện Kính Thiên (Hà Nội)

Lý luận và tình hình thực tiễn cho thấy, trong DHLS ở trường THPT từ lâu
tồn tại hai thái cực, hoặc là coi nhẹ việc giáo dục tư tưởng, đạo đức hoặc là thực
hiện việc giáo dục một cách giáo điều, hình thức. Đây là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến tình trạng HS cảm thấy giờ học lịch sử nặng nề, sáo rỗng
và quay lưng lại với bộ môn. Để khắc phục tình trạng đó, nhằm nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn, đáp ứng được những yêu cầu của mục tiêu đào tạo thì GV phải xác
định đúng đắn hướng thái độ cho HS qua dạy học những nội dung cụ thể. Việc tổ
chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT phải gắn bó mật thiết với hướng thái độ, đó cũng là
thực hiện nguyên lý giáo dục “thông qua dạy chữ để dạy người”.
Mặt khác, “Con người chỉ thực sự nắm vững những điều mà chính mình đã
giành được bằng hoạt động của bản thân. HS sẽ chỉ ghi nhớ, nắm vững được những
gì đã trải qua trong hoạt động nhận thức tích cực của mình, trong đó các em đã phải
có những cố gắng trí tuệ và khát vọng học tập” [7, tr. 320]. Vì vậy, tổ chức cho HS
lĩnh hội Chuẩn KT trong DHLS thông qua các PPDH tích cực có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, nhất là trong xu hướng
đổi mới mạnh mẽ PPDH hiện nay.
1.2.4. Vai trò của giáo viên trong việc tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến
thức
Các nhà Giáo dục học đã khẳng định: “Quá trình dạy học đã tồn tại như một
12

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com


hệ thống phát triển biện chứng. Nó chứa đựng rất nhiều quy luật phản ánh những
mối liên hệ tất yếu, chủ yếu và bền vững vốn có của nó,…trong các quy luật đó thì
quy luật thống nhất biện chứng giữa dạy và học là quy luật cơ bản” [12, tr. 17]. Dạy
học là hai hoạt động của một quá trình thống nhất, trong đó thầy với hoạt động dạy
đóng vai trò cung cấp, truyền thụ, tổ chức, điều khiển, chỉ đạo và trò với hoạt động
học có vai trò tiếp thu, lĩnh hội, tự tổ chức, tự điều khiển, tích cực, chủ động lĩnh
hội KT. Theo kiểu dạy học truyền thống, vai trò, chức năng chủ yếu của người thầy
là cung cấp, truyền thụ, giảng giải KT cho HS; trò thì ghi chép, tiếp thu, lĩnh hội là
chính. Trong xu hướng đổi mới PPDH hiện nay, người thầy nghiêng về vai trò tổ
chức, hướng dẫn, điều khiển và trò phải tự điều khiển, tích cực, chủ động lĩnh hội
KT theo định hướng của người thầy.
Như vậy, nói đến vai trò của GV trong việc tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT
là nói đến vai trò của người thầy trong quá trình dạy học hiện đại, trong xu hướng đổi
mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS (dạy học
hướng vào người học - dạy học lấy HS làm trung tâm).
Các nhà Giáo dục học như Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Bá Hoành, Vũ Văn
Tảo, Nguyễn Kì,… cũng cho rằng, chức năng chính của người thầy trong quá trình
dạy học hiện đại là người tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho người học
hoạt động, để tự người học thu lượm tri thức, chiếm lấy làm tài sản sở hữu của
mình. Người dạy giúp đỡ người học thực hiện PP học.
Như vậy, vai trò của GV không chỉ truyền thụ nội dung KT, mà cái chính là
người tạo hứng thú học tập, hướng dẫn người học về PP. Ngoài ra, người thầy còn
đóng vai trò là người trọng tài, cố vấn, kết luận về các cuộc tranh luận, đối thoại trò
- trò, trò - thầy, để khẳng định về mặt khoa học KT do người học tự tìm ra. Cuối
cùng, thầy là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của HS trên cơ sở trò tự đánh
giá, tự điều chỉnh [15, tr. 19 - 21].
Ngoài ra, những năm gần đây, trong các tài liệu sư phạm, người ta có giới
thiệu những tư tưởng dạy học mới: dạy học kiến tạo, dạy học tương tác (sư phạm
học tương tác). Đây là hai quan điểm dạy học tiến bộ, hướng đến mục tiêu tích cực

hóa tư duy người học đã chỉ ra con đường chiếm lĩnh tri thức được thực hiện qua
các hoạt động học tập của người học dưới vai trò tổ chức, định hướng của người
dạy. Nói cách khác, dù khẳng định và nhấn mạnh vai trò trung tâm của người học
trong quá trình dạy học, nhưng cả hai quan điểm trên đều không làm lu mờ vai trò tổ
chức và điều khiển quá trình dạy học của GV.
Tóm lại, từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt KT, GV trở thành người thiết kế, hướng
dẫn, tổ chức các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm lĩnh nội
dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu KT, KN, thái độ theo yêu cầu của chương
trình. Trên lớp, HS hoạt động là chính, GV có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi
soạn giáo án, GV đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học
thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động
viên, cố vấn, dẫn dắt, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi
nổi của HS. GV phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có năng lực sư phạm mới có
thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của HS mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự
kiến của GV.
1.3. Chuẩn kiến thức trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 trƣờng Trung học
phổ thông (Chƣơng trình Chuẩn)
13

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

1.3.1. Vị trí phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 trong cấu tạo chương trình,
sách giáo khoa lịch sử ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)

Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV ở lớp 10 là một bộ phận quan
trọng trong khóa trình đầu tiên của chương trình lịch sử cấp THPT (Chương trình
Chuẩn), phản ánh quá trình phát triển của nhà nước phong kiến độc lập trên tất cả
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục, khoa học kĩ thuật…
Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV cách xa chúng ta ngày nay về
thời gian, không gian có nhiều biến đổi; nguồn tư liệu thiếu thốn; nội dung thì
nhiều, phạm vi rộng, do đó rất khó khăn trong việc nghiên cứu nhất là giảng dạy.
Đối với HS lớp 10, khả năng tư duy tổng hợp chưa cao so với HS lớp 12,
nhưng lại phải tiếp nhận những nội dung khó và trừu tượng. Những trở lực này càng
gia tăng đối với HS ở những vùng miền còn nhiều khó khăn, mặt bằng trình độ thấp.
Điều này mách bảo GV trong giảng dạy, căn cứ vào tình hình cụ thể của trường, địa
phương, vào trình độ HS, phải bám sát vào chương trình nhất là Chuẩn KT, KN;
đồng thời phải bằng các biện pháp phù hợp, cụ thể hóa những sự kiện, khái niệm và
quy luật lịch sử trừu tượng, khô khan; phát huy tính tích cực trong nhận thức của
HS; tăng cường tính hình ảnh và tạo cảm xúc lịch sử cho HS nhằm nâng cao hiệu
quả bài học, giờ học…
Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV, HS đã được tìm hiểu ở cấp
THCS. Ở THPT, mức độ chương trình được nâng lên, đảm bảo nguyên tắc đồng
tâm kết hợp với đường thẳng. Do đó, không chỉ đảm bảo việc củng cố và nâng cao
những hiểu biết đã có, việc học tốt nội dung này là cơ sở để HS tiếp thu KT lịch sử
ở những giai đoạn tiếp theo trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc.
1.3.2. Mục tiêu dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 trường Trung học
phổ thông (Chương trình Chuẩn)
Mục tiêu dạy học phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV ở lớp
10 được xác định trên cơ sở mục tiêu dạy học chung của cấp THPT, mục tiêu dạy
học bộ môn Lịch sử cấp THPT và khóa trình lịch sử lớp 10; căn cứ vào đặc trưng
lứa tuổi HS và nhiệm vụ đào tạo đặt ra. Cụ thể là nhằm củng cố và nâng cao những
KT cơ bản, cần thiết của phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV mà HS
đã học ở cấp THCS. Mục tiêu đó được xác định trên cả ba mặt: KT, KN và thái độ.
1.3.2.1. Về kiến thức

- Giúp HS hiểu biết sâu sắc và có hệ thống về quá trình phát triển Lịch sử
Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV.
- Nắm được những sự kiện cơ bản có ý nghĩa về quá trình đấu tranh chống
ngoại xâm, giữ vững độc lập dân tộc và những thành tựu quan trọng trong quá trình
xây dựng và phát triển nhà nước phong kiến độc lập trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, quân sự, văn hóa – xã hội, đồng thời cũng nhận thức được một số hạn chế của xã
hội đương thời.
1.3.2.2. Về kĩ năng
Góp phần bồi dưỡng và rèn luyện những KN cần thiết trong học tập, nâng
cao KT theo định hướng đã chọn như:
- KN phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các sự kiện lịch sử.
- KN quan sát và phát hiện, nêu vấn đề trao đổi hay tự giải đáp thông qua sử
dụng các nguồn tư liệu hay sự kiện được nêu trong SGK.
- Bồi dưỡng năng lực tự học và xử lí vấn đề theo hướng các chuyên ngành
Khoa học Tự nhiên.
14

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

1.3.2.3. Về thái độ
- Nhận thức được quá trình phấn đấu gian khổ và sáng tạo, xuất phát từ điều
kiện tự nhiên, xã hội cụ thể để vươn lên đỉnh cao của văn minh. Nhờ đó, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ta không ngừng được cải thiện, nâng cao.
- Nhận thức được những truyền thống cơ bản, tốt đẹp của dân tộc; bồi dưỡng

lòng yêu nước, yêu quê hương và niềm tự hào chân chính.
- Biết trân trọng những thành tựu văn hóa mà nhân dân ta đã sáng tạo trong
giai đoạn lịch sử này, hiểu được giá trị của lao động và vai trò của nhân dân lao
động đối với sự phát triển của lịch sử, của nền văn hóa dân tộc. Hiểu được mối quan
hệ lịch sử, gắn bó của các dân tộc, các vùng miền trên đất nước ta trong cuộc đấu
tranh xây dựng và bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập.
- Biết ơn những anh hùng dân tộc đã lao động, chiến đấu, hi sinh vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc; đồng thời có ý thức quyết tâm vươn lên
trong học tập, lao động xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay.
1.4. Chuẩn kiến thức trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X –
XV lớp 10 trƣờng Trung học phổ thông (Chƣơng trình Chuẩn)
Chuẩn KT phần Lịch sử Việt Nam lớp 10 THPT giai đoạn từ thế kỉ X – XV
được quy định trong “Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử” (2006) và
trong tài liệu “Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử lớp 10”
(2009) do Bộ GD & ĐT ban hành. Vì vậy để xác định đúng Chuẩn KT trong DHLS
Việt Nam giai đoạn này, trước hết cần tìm hiểu sâu sắc và vận dụng một cách sáng
tạo những quy định của Luật Giáo dục (2005) về “Chương trình Giáo dục phổ
thông, sách giáo khoa”, tìm hiểu tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn KT, KN của
Chương trình Giáo dục phổ thông:
“1. Chương trình Giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông;
quy định Chuẩn KT, KN, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, PP và
hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với
các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông.
2. SGK lịch sử cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung KT và KN quy định trong
chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng
yêu cầu về PP giáo dục phổ thông” [11, tr. 37 - 38].
3. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn KT, KN của Chương trình Giáo dục phổ
thông thể hiện những yêu cầu cụ thể mức độ cần đạt được về KT, KN của Chương
trình Giáo dục phổ thông, được minh chứng bằng những đơn vị KT và yêu cầu cụ
thể về KN của SGK lịch sử.

Như vậy, Chương trình Giáo dục phổ thông quy định khung mức độ cần đạt
được về KT, KN. Sau khi học các chủ đề, nội dung trong chương trình, HS phải đạt
được mức độ về KT, KN mà chương trình quy định nhưng chưa được cụ thể hóa
bằng những nội dung KT và yêu cầu KN cụ thể - có tính chất pháp lệnh; SGK cụ
thể hóa yêu cầu về nội dung KT và KN của Chương trình Giáo dục phổ thông,
nhưng do SGK là tài liệu cơ bản dùng cho HS học tập cho nên mặc dù đã bám sát
chương trình nhưng còn cung cấp thêm những nguồn KT khác để cho SGK sinh
động, hấp dẫn phù hợp với loại tài liệu học tập và nhận thức của HS. Còn Hướng
dẫn thực hiện Chuẩn KT, KN là sự thể hiện cụ thể hóa các yêu cầu về KT, KN trong
chương trình bằng các KT cụ thể của SGK.
Từ mối quan hệ giữa Chương trình Giáo dục phổ thông, Hướng dẫn thực
hiện Chuẩn KT, KN và SGK như đã nêu trên mách bảo chúng ta rằng, trong DHLS,
15

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

GV cần phải căn cứ vào Chương trình bộ môn Lịch sử ở trường THPT, tài liệu
Hướng dẫn thực hiện Chuẩn KT, KN bộ môn Lịch sử và SGK để xác định đúng đắn
những KT cơ bản, trọng tâm mà HS cần phải lĩnh hội qua các chương, bài, nội dung
cụ thể, nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu theo quy định của chương trình
về KT, KN, đồng thời có thể dạy nâng cao cho các đối tượng HS khá, giỏi nhưng
không được vượt quá chương trình. Theo đó, chúng tôi xác định Chuẩn KT trong
DHLS Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV lớp 10 trường THPT.
Chuẩn KT và việc tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT trong DHLS có tầm

vóc lớn về lý luận và thực tiễn. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với GV là phải xác định
một cách khoa học, đúng đắn Chuẩn KT (mức độ KT tối thiểu) mà HS cần đạt qua
từng khóa trình, nội dung, chương, bài cụ thể, để từ đó lựa chọn các PPDH phù hợp
nhằm giúp HS nắm vững KT cơ bản của bài học, tiết học, qua đó nâng cao chất
lượng DHLS ở trường THPT.
Để xác định một cách chính xác, cụ thể Chuẩn KT, GV phải xuất phát từ
những căn cứ, nguyên tắc xác định Chuẩn KT; từ vị trí, mục tiêu, nội dung và đặc
điểm của phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ (X - XV) lớp 10 trường THPT;
từ mối quan hệ biện chứng giữa chương trình, SGK và tài liệu Hướng dẫn thực hiện
Chuẩn KT, KN môn Lịch sử lớp 10.
2. Các biện pháp tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn kiến thức trong dạy học Lịch
sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ (X – XV) lớp 10 trƣờng Trung học phổ thông
2.1. Tổ chức cho học sinh làm việc với sách giáo khoa và các loại tài liệu
học tập khác để lĩnh hội Chuẩn kiến thức trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai
đoạn thế kỉ (X - XV) lớp 10 trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)
Theo Luật Giáo dục 2005, “SGK cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung KT và
KN quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp của giáo dục
phát triển, đáp ứng yêu cầu về PP giáo dục phổ thông” [30, tr. 88].
Như vậy, SGK là tài liệu cơ bản phục vụ học tập của HS, được nhà nước tổ
chức biên soạn theo chương trình ban hành và quán triệt mục tiêu giáo dục đã được
xác định. SGK trở thành người thầy thứ hai cung cấp KT, rèn luyện KN, kỹ xảo, bồi
dưỡng những phẩm chất đạo đức, phẩm chất trí tuệ cho các em. Vì thế, học tập trên
cơ sở sách SGK là biện pháp cơ bản thúc đẩy quá trình nhận thức và nâng cao chất
lượng học tập lịch sử của HS.
Đối với GV, SGK “là điểm tựa để GV xác định KT cơ bản, xác định các khái
niệm cần hình thành cho HS trong giờ học, là sự gợi ý để lựa chọn PPDH vừa phù hợp
với đối tượng, vừa phát huy được tính tích cực hoạt động độc lập của HS” [36, tr. 56].
Hiện nay, để đáp ứng công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông, SGK nói
chung, SGK lịch sử và SGK Lịch sử 10 nói riêng đã có những thay đổi về quan
niệm và cách thức biên soạn

Một khó khăn có tính chất chung cho phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế
kỉ X – XV lớp 10 là tính khái quát, hệ thống của nội dung. SGK chỉ nêu lên một số
sự kiện chính, ngắn gọn nhằm giải đáp mục tiêu cơ bản của chủ đề, đồng thời nói
lên được tính hệ thống của lịch sử, tiến trình phát triển từ thấp lên cao.
Như vậy, theo quan điểm mới hiện nay, “SGK trở thành tài liệu định hướng
và hỗ trợ cho quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành
theo năng lực của người học. Các thông tin trong SGK (qua kênh hình và kênh chữ)
thường đa dạng, phong phú, đòi hỏi người học phải có tư duy linh hoạt, có đầu óc
phê phán mới phát hiện và giải quyết được vấn đề” [10, tr. 8].
16

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

Xuất phát từ vị trí quan trọng của SGK trong DHLS, từ những điểm mới và
khó trong nội dung và cấu tạo của SGK được biên soạn theo tinh thần đổi mới, đòi
hỏi cả thầy và trò sử dụng tốt SGK, triệt để khai thác nội dung SGK theo hướng tích
cực hóa hoạt động nhận thức của HS hay tổ chức cho HS tự lực nghiên cứu SGK để
lĩnh hội những KT cơ bản của bài học. Mặt khác, ở trên lớp GV cũng không đủ thời
gian để nói hết tất cả những nội dung viết trong SGK. Bởi vậy, GV cần tổ chức cho
HS khai thác, xử lý thông tin trong SGK để tự rút ra các kết luận.
Như đã nói ở trên, trong SGK Lịch sử lớp 10, ngoài kênh chữ, kênh hình đóng
vai trò rất quan trọng trong việc giúp HS lĩnh hội những KT cơ bản, trọng tâm của
từng bài, từng nội dung học tập. Giữa kênh hình và kênh chữ có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Thông qua kênh chữ, GV giúp HS giải quyết một cách chính xác,

đầy đủ nội dung kênh hình ở SGK. Ngược lại thông qua kênh hình, GV sẽ giúp HS
hình dung một cách chính xác, khoa học sự kiện lịch sử, vấn đề lịch sử, tránh được
việc “hiện đại hóa” lịch sử. Vì vậy, căn cứ vào nội dung SGK, GV tổ chức cho HS
kết hợp khai thác nội dung phần kênh chữ và kênh hình trong SGK để nắm vững
những nội dung cơ bản của bài học.
Biện pháp chủ yếu để tổ chức cho HS tự lực nghiên cứu SGK là đưa ra các
CH, BT hướng dẫn HS thu thập, lựa chọn, xử lý thông tin trong SGK để tìm lời giải
đáp. Lời giải chính là KT mà HS lĩnh hội được. Như vậy, các CH, BT này thực chất
là các tình huống nhận thức nội dung khoa học mà khi giải quyết cần nghiên cứu, xử
lý các thông tin thu được từ SGK. Các CH, BT phải được gia công sư phạm sao cho
có thể tổ chức HS thực hiện đầy đủ các KN làm việc với SGK: KN đọc hiểu văn bản;
KN rút ra nội dung chính từ đoạn văn bản vừa đọc; KN trả lời CH thông qua các lệnh
hoạt động; KN phân tích bảng biểu, số liệu, biểu đồ, đồ thị; KN khai thác thông tin từ
tranh ảnh, hình vẽ…), kích thích được tính tích cực, sáng tạo ở những mức độ phù
hợp. Hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, hoặc toàn lớp.
Nhằm giúp HS khai thác, thu thập, xử lý các thông tin trong SGK một cách
hiệu quả, GV phải gợi mở, hướng dẫn các em một cách cụ thể: đọc, tìm hiểu ở đoạn
nào, chỗ nào, từ đâu?; đọc để làm gì, phát hiện cái gì và để trả lời cho CH nào?. Đối
với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, bảng thống kê, GV phải gợi cho HS cách khai thác, thu
thập và xử lý thông tin: bức ảnh, bản đồ, lược đồ… nói về ai, mô tả cái gì, cho em
biết điều gì?...
Vai trò của GV trong việc tổ chức cho HS tự lực nghiên cứu SGK thể hiện
qua việc hướng dẫn HS hoặc nhóm HS đọc SGK và thực hiện các yêu cầu đề ra; tổ
chức cho từng HS, nhóm HS trình bày kết quả để các nhóm hoặc cả lớp góp ý, thảo
luận, bổ sung; hướng dẫn HS tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Vai trò của HS là tích
cực, chủ động đọc SGK, tóm tắt ý chính, phân tích, tổng hợp để trả lời các CH và
diễn đạt KT lĩnh hội được bằng các hình thức như: sơ đồ, biểu, bảng, trình bày bằng
văn viết hay báo cáo trước tập thể, trao đổi thảo luận trong nhóm hay cả lớp.
Như đã nói ở trên, HS có thể diễn đạt KT lĩnh hội được từ các hoạt động tự
lực nghiên cứu SGK bằng những hình thức như: sơ đồ, biểu, bảng, trình bày bằng

văn viết hay báo cáo trước tập thể, trao đổi thảo luận trong nhóm hay cả lớp. Vì vậy
các CH, BT mà GV đưa ra để tổ chức cho HS làm việc độc lập với SGK có thể
được thiết kế dưới nhiều dạng khác nhau. Ngoài các CH, BT nhận thức như trên,
BT để tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT qua nghiên cứu nội dung SGK có thể
mang tính chất một BT thực hành. Hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân
hoặc cả lớp.
17

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

Ví dụ, khi dạy học bài 20 “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong
các thế kỉ X – XV”, GV có thể chia lớp thành 5 nhóm để thực hiện các nhiệm vụ
học tập sau đây trên cơ sở nghiên cứu nội dung SGK (nhiệm vụ học tập được thể
hiện cụ thể trong phiếu học tập của mỗi nhóm):
- Nhóm 1: Nghiên cứu SGK và hoàn thành “Niên biểu về tình hình tôn giáo
nước ta thế kỉ X – XV”.
- Nhóm 2: Nghiên cứu SGK và hoàn thành “Niên biểu tình hình phát triển
giáo dục nước ta thế kỉ X – XV”.
- Nhóm 3: Nghiên cứu SGK và hoàn thành “Sơ đồ thể hiện đặc điểm văn học
thế kỉ X – XV”.
- Nhóm 4: Nghiên cứu SGK và hoàn thành “Bảng thống kê những thành tựu
nghệ thuật thế kỉ X – XV”.
- Nhóm 5: Nghiên cứu SGK và hoàn thành “Bảng thống kê các thành tựu
khoa học kĩ thuật thế kỉ X – XV”.

Để hoàn thành BT mang tính chất BT thực hành như trên, đòi hỏi HS phải tự
lực nghiên cứu SGK dưới sự hướng dẫn của GV để lựa chọn, xử lý thông tin và
tổng hợp, khái quát KT nhằm hoàn thành niên biểu, sơ đồ theo yêu cầu GV đưa ra.
Tóm lại, “Việc sử dụng có kết quả SGK là một điều kiện quan trọng bậc nhất
để đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn, nên việc sử dụng SGK là
khâu quan trọng trong hoạt động giáo dục. Phát huy vai trò của SGK là một trong
những con đường để nâng cao hiệu quả dạy học” [17, tr. 65]. Sử dụng SGK để tổ
chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT dưới sự hướng dẫn của GV là một trong những
biện pháp quan trọng để khai thác nội dung SGK trên cơ sở phát huy tính tích cực,
tự giác, tư duy độc lập, sáng tạo của các em. Khai thác nội dung SGK theo hướng
đó không chỉ giúp HS nắm vững nội dung cơ bản, trọng tâm của bài học mà còn có
tác dụng lớn trong việc giáo dục và phát triển năng lực tư duy, thực hành cho các
em. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, khi
SGK là tài liệu học tập chủ yếu, quan trọng nhất mà HS dựa vào đó để học tập và
tiếp thu KT lịch sử, thậm chí ở nhiều nơi SGK gần như là tài liệu học tập duy nhất.
Việc tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT trên cơ sở khai thác nội dung SGK cần
tránh hai thái cực: hoặc là lặp lại nội dung SGK, hoặc là quá xa rời nội dung SGK
khiến giờ học trở nên nhàm chán, đơn điệu hoặc dễ xa rời chương trình, xa rời mục
tiêu bài học.
Bên cạnh SGK là tài liệu cơ bản, bắt buộc trong học tập đối với HS, thì việc
sử dụng các loại tài liệu tham khảo khác (ngoài SGK) là rất cần thiết trong DHLS.
Do đặc trưng của việc học tập lịch sử, các loại tài liệu tham khảo, học tập khác góp
phần nhất định vào việc khôi phục, tái hiện lại hình ảnh quá khứ. Các loại tài liệu
này là căn cứ khoa học, bằng chứng về tính chính xác, tính cụ thể, phong phú của sự
kiện lịch sử mà HS cần thu nhận; nó giúp các em khắc phục việc “hiện đại hóa” lịch
sử hoặc “hư cấu” sai sự thực. Là một nguồn KT quan trọng, tài liệu tham khảo cần
được thẩm định, phân tích nội dung và lựa chọn những phần chính xác, phù hợp với
trình độ và yêu cầu học tập của HS.
2.2. Tổ chức cho học sinh khai thác đồ dùng trực quan để lĩnh hội Chuẩn
kiến thức trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỉ (X - XV) lớp 10 trường

Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)
Việc học tập lịch sử phải tuân thủ quy luật của con đường biện chứng trong
nhận thức: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến
18

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

thực tiễn. “Trực quan sinh động” trong DHLS được xây dựng trên cơ sở các sự kiện
khoa học, cơ bản, tiêu biểu để tạo biểu tượng chân xác, có hình ảnh về quá khứ
đang học. Từ biểu tượng đó để hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút bài học
lịch sử nhằm giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện tại và tương lai. Trong quá
trình đó, ĐDTQ đóng vai trò rất quan trọng. Vì thế việc sử dụng và tổ chức cho HS
khai thác ĐDTQ cần phải được thực hiện trong khi dạy học KT mới, ôn tập, tổng
kết, kiểm tra, hoạt động ngoại khóa và thực hành, đặc biệt là khi nghiên cứu KT
mới.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đa số GV mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng
ĐDTQ như một phương tiện để minh họa nhằm tăng màu sắc, hình ảnh cho SGK
chứ chưa xem đó là một nguồn tài liệu, chưa quan tâm nhiều đến việc tổ chức các
hoạt động nhận thức, rèn luyện các KN khai thác ĐDTQ cho HS.
Để tổ chức, hướng dẫn HS khai thác nội dung từ ĐDTQ có hiệu quả, GV
phải kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý các PP, biện pháp, các cách dạy học phù hợp với
từng nội dung lịch sử. Trong đó, việc sử dụng CH, BT là biện pháp có ý nghĩa lớn,
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
CH, BT gắn với ĐDTQ được sử dụng là những CH, BT có tính chất yêu cầu,

kích thích, gợi ý cho HS mà GV sử dụng để hướng dẫn các em khai thác các góc độ
khác nhau của các loại ĐDTQ nhằm phục vụ cho hướng khai thác KT bài học.
Những CH, BT này có tính định hướng cho quá trình khai thác KT cơ bản của bài
học từ ĐDTQ theo hướng phát huy tính tích cực của HS, giúp các em vừa nắm KT
cơ bản, vừa rèn luyện các KN và PP học tập để phát triển tư duy lịch sử .
ĐDTQ trong DHLS rất phong phú và đa dạng, mỗi loại có nội dung và ý
nghĩa khác nhau nên cách sử dụng cũng khác nhau. Chúng tôi sẽ làm rõ điều này
thông qua các ví dụ cụ thể trong việc sử dụng tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, niên biểu.
* Tổ chức cho HS khai thác tranh ảnh để lĩnh hội Chuẩn kiến thức
Thông qua quan sát tranh ảnh, HS không chỉ có biểu tượng chính xác về sự
kiện, hiểu được bản chất của lịch sử mà năng lực tri giác của các em cũng phát triển.
Kết hợp với việc phân tích, so sánh, trả lời những CH do GV đưa ra, thực hành với
ĐDTQ, năng lực tư duy của HS sẽ được phát triển, khả năng thực hành của các em
cũng không ngừng được nâng cao.
GV tổ chức các hoạt động nhận thức nhằm mục tiêu HS tự lực tìm hiểu nội
dung tranh ảnh dưới sự hướng dẫn của GV theo 4 bước:
Bước 1: Cho HS quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát nội dung
tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2: GV đặt CH nêu vấn đề, tổ chức, hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung
tranh ảnh.
Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi đã quan
sát, kết hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung trong bài học.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung HS trả lời, hoàn thiện nội dung khai thác
tranh ảnh cung cấp cho HS.
Cuối cùng, HS nắm được cách khai thác tranh ảnh và nội dung tranh ảnh
trong bài học.
* Sử dụng bản đồ, sơ đồ, niên biểu, đồ thị để tổ chức cho học sinh lĩnh hội
Chuẩn kiến thức
Bản đồ, sơ đồ, niên biểu, đồ thị là loại ĐDTQ quy ước, có ý nghĩa quan trọng
trong việc cụ thể hóa những sự kiện, hiện tượng lịch sử phức tạp, trừu tượng và hình

19

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

thành khái niệm cho HS, đặc biệt là phát triển năng lực tư duy, năng lực thực hành
cho các em.
- Bản đồ (lược đồ), nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và
không gian nhất định, đồng thời còn giúp HS suy nghĩ và giải thích các hiện tượng
lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình
lịch sử, giúp các em củng cố, ghi nhớ những KT đã học.
Trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV ở lớp 10
trường THPT (Chương trình Chuẩn), việc sử dụng bản đồ để tổ chức cho HS lĩnh
hội KT là biện pháp không thể thiếu. Bởi vì, đặc trưng nổi bật của lịch sử Việt Nam
giai đoạn này là: song song với quá trình xây dựng đất nước, nhân dân ta liên tục
phải cầm vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Sử dụng bản đồ như thế nào? Đó là một nghệ thuật. Người GV như một đạo
diễn, dẫn HS nhận thức bản chất các vấn đề lịch sử từ bản đồ. GV cần kết hợp sử
dụng bản đồ với các PPDH khác như: đặt CH nhận thức, sử dụng tài liệu thành văn
để tường thuật, miêu tả, kết hợp với tài liệu văn học, tranh ảnh lịch sử, niên biểu.
Việc tổ chức HS làm việc với bản đồ có thể tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Cho HS quan sát lược đồ, trong đó chú ý quan sát cả nội dung, ranh
giới và các kí hiệu của bản đồ.
Bước 2: GV đặt CH nêu vấn đề và gợi ý HS tìm hiểu nội dung trên bản đồ
kết hợp với tìm hiểu nội dung SGK.

Bước 3: HS trả lời CH bằng việc trình bày kết quả tìm hiểu nội dung bản đồ.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung phần HS trả lời và hoàn chỉnh nội dung lược
đồ mà HS cần khai thác.
Cuối cùng HS nắm được cách khai thác lược đồ, nắm được nội dung của
lược đồ gắn liền với nội dung bài học.
Ví dụ: Theo trình tự các bước tổ chức cho HS khai thác nội dung từ bản đồ,
khi giảng mục 2 “Cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý” (Bài 19), GV sử dụng
“Lược đồ kháng chiến chống Tống thời Lý” để giảng về diễn biến theo hướng phát
huy tính tích cực của HS:

Lƣợc đồ kháng chiến chống Tống thời Lý

20

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com
Ung Châu

Khâm Châu

KHÁNG
CHIẾN

Liêm Châu


Thăng Long

CHỐNG
TỐNG
( 1075 1077)

Bố Chí nh

Địa Lí
Ma Linh

Bước 1: GV treo lược đồ ở vị trí thuận lợi cho cả lớp quan sát hoặc phóng to
lên màn hình nếu lược đồ được thiết kế trên máy vi tính, giới thiệu tên lược đồ và
các kí hiệu trên đó như: mũi tên đỏ (
) chỉ hướng tiến công của quân Lý, mũi
tên xanh (
) chỉ các cánh quân Tống, ngôi sao màu đỏ ( ) chỉ các địa điểm tập
trung quân của quân Tống.
Bước 2: GV yêu cầu HS quan sát lược đồ kết hợp tìm hiểu nội dung SGK trả
lời CH nhận thức: “Trước âm mưu xâm lược của quân Tống nhà Lý đã tổ chức
kháng chiến như thế nào? Điểm đặc biệt của cuộc kháng chiến là gì?”.
GV đặt một vài CH gợi mở: “Nhìn vào lược đồ, cuộc kháng chiến có thể chia
mấy giai đoạn?”, “Trận chiến nào tiêu biểu nhất quyết định thắng lợi của quân
ta?”, “Cuộc kháng chiến có lúc nào diễn ra ngoài lãnh thổ hay không?”…
Bước 3: HS trả lời CH nhận thức thông qua tìm hiểu nội dung lược đồ và
HTCH gợi mở của GV.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung câu trả lời của HS, hoàn chỉnh KT bài học
được biểu hiện trên lược đồ:
- Trước âm mưu xâm lược của quân Tống, nhà Lý đã tổ chức kháng chiến:
+ Giai đoạn 1: Lý Thường Kiệt tổ chức thực hiện chiến lược “tiên phát chế

nhân” đem quân đánh trước chặn thế mạnh của địch.
Năm 1075, quân triều đình đánh sang đất Tống sau đó rút về nước.
+ Giai đoạn 2: Chủ động lui về phòng thủ đợi giặc. Năm 1077, 30 vạn quân
Tống kéo sang xâm lược nước ta bị đánh bại bên bờ Bắc sông Như Nguyệt.
- Nét đặc biệt của cuộc kháng chiến là có lúc diễn ra ngoài lãnh thổ, nhưng
đó là hành động tự vệ chính đáng, không phải là đi xâm lược.
- Sơ đồ, nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những hình học đơn giản,
diễn tả một cơ cấu tổ chức xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự
kiện lịch sử…
Ví dụ, khi dạy học bài 17 “Quá trình hình thành và phát triển của nhà
nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV”), mục II.1 “Tổ chức bộ máy nhà
nước”, để giúp HS nắm vững quá trình xây dựng, phát triển và hoàn chỉnh nhà nước
phong kiến (thể hiện rõ nhất qua tổ chức bộ máy nhà nước), GV cần tổ chức cho các
em khai thác nội dung từ các sơ đồ: “Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh –
Tiền Lê”, “Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần – Hồ”, “Sơ đồ tổ chức
21

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

bộ máy nhà nước thời Lê Sơ” thông qua các CH nhận thức: “Nhận xét về tổ chức bộ
máy nhà nước thời Đinh – Tiền Lê?, Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần – Hồ
được hoàn chỉnh hơn như thế nào?, Tại sao đến thời Lê Sơ, bộ máy nhà nước quân
chủ chuyên chế đạt được mức độ hoàn chỉnh cao?”. Để giúp HS khai thác nội dung
sơ đồ và trả lời các CH nhận thức trên, GV có thể sử dụng HTCH gợi mở: “Bộ máy

nhà nước thời Đinh – Tiền Lê được tổ chức như thế nào? Nhìn vào cách tổ chức bộ
máy nhà nước em có nhận xét gì? – Bộ máy nhà nước đã hoàn chỉnh chưa hay còn
mang tính sơ khai?”, “Dưới thời Lý – Trần – Hồ, tổ chức bộ máy nhà nước ở trung
ương và địa phương có sự thay đổi như thế nào? So với thời Đinh – Tiền Lê, em có
nhận xét gì?”, “Dưới thời Lê Sơ đã diễn ra một cuộc cải cách lớn, đó là cuộc cải
cách nào? Với cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước
quân chủ chuyên chế tiếp tục được hoàn chỉnh như thế nào? Dựa vào điều kiện nào
mà Lê Thánh Tông có thể tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn như vậy?”…
Với cách tổ chức hoạt động nhận thức cho HS như trên, GV đã cụ thể hóa quá
trình hình thành, phát triển và hoàn chỉnh của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam
trong năm thế kỉ (thế kỉ X - XV). Điều này không chỉ giúp HS lĩnh hội KT cơ bản của
bài học một cách sâu sắc, có hệ thống mà còn giúp các em nắm được bản chất của sự
kiện, nắm vững khái niệm nhà nước quân chủ chuyên chế. Đồng thời, khả năng ghi
nhớ, năng lực tư duy khái quát của HS cũng được phát triển. Các em sẽ thuần thục
hơn trong năng lực diễn đạt, khai thác nội dung từ sơ đồ, nhờ đó mà khả năng nhận
thức cũng cao hơn, tạo thuận lợi trong việc học tập và tiếp thu những KT mới.
- Niên biểu, nhằm hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian,
đồng thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước
trong một thời kì. Việc sử dụng niên biểu không chỉ có vai trò quan trọng trong việc
cụ thể hóa, hệ thống các sự kiện phức tạp trong một giai đoạn lịch sử nhất định mà
còn là cơ sở giúp HS rút ra quy luật phát triển của lịch sử thông qua việc làm rõ mối
liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ví dụ, khi giảng mục II.3: “Nghệ thuật”, (bài 20: Xây dựng và phát triển
văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV), GV sử dụng “Bảng thống kê những
thành tựu nghệ thuật tiêu biểu ở các thế kỉ X – XV” kết hợp với các CH nhận
thức: “Qua các thành tựu nghệ thuật tiêu biểu, em hãy nhận xét về đặc điểm của
từng lĩnh vực nghệ thuật trong nền văn hóa Đại Việt ở các thế kỉ X – XV?, Nhận xét
về đời sống văn hóa của nhân dân ta thời Lý – Trần – Lê?”, để hướng dẫn HS tự
lực chiếm lĩnh KT thông qua khai thác nội dung từ niên biểu.
Bảng thống kê những thành tựu nghệ thuật thế kỉ X - XV

Lĩnh vực
Kiến trúc
Điêu khắc
Nghệ thuật
sân khấu

Thành tựu
Nhiều công trình nghệ thuật Phật giáo được xây dựng:
chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, tháp chùa Phổ Minh…
Xuất hiện nhiều tác phẩm điêu khắc độc đáo: rồng
cuộn trong lá đề, bông cúc nhiều cánh, bệ chân cột
hình hoa sen nở…
Chèo, tuồng, múa rối nước phát triển

22

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

Ca múa nhạc

Âm nhạc phát triển với nhiều nhạc cụ: trống cơm, sáo,
tiêu, đàn cầm, đàn tranh, chiêng cồng…; nhiều bản
nhạc được sáng tác để hát tấu trong các lễ hội; các điệu
múa dân gian trong lễ hội phát triển…


Khai thác nội dung từ niên biểu, HS phải rút ra được những kết luận sau đây:
- Kiến trúc: phát triển chủ yếu ở giai đoạn Lý, Trần, Hồ theo hướng Phật
giáo, gồm chùa chiền, tháp, đền. Bên cạnh đó, có những công trình ảnh hưởng của
Nho giáo: cung điện thành quách (thành Thăng Long, thành nhà Hồ).
- Điêu khắc: gồm những công trình chạm khắc, trang trí ảnh hưởng của Phật
giáo và Nho giáo song vẫn mang nét độc đáo riêng.
- Nghệ thuật sân khấu, ca múa nhạc mang đậm tính dân gian truyền thống.
- Đời sống văn hóa nhân dân Đại Việt thế kỉ X – XV rất phong phú và đa
dạng, văn hóa Đại Việt tuy chịu ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài song vẫn mang
đậm tính dân tộc và dân gian.
Bên cạnh việc sử dụng bản đồ, sơ đồ, niên biểu ở dạng hoàn chỉnh (dạng
kín), GV cần phải sử dụng các loại ĐDTQ quy ước ở dạng trống, dạng mở, kết hợp
với các CH để hướng dẫn HS nghiên cứu SGK, tài liệu tham khảo và tự hoàn chỉnh
những nội dung còn thiếu trên ĐDTQ.
Ví dụ, khi dạy học bài 19, mục II “Các cuộc kháng chiến chống xâm lược
Mông – Nguyên ở thế kỉ XIII”, GV sử dụng sơ đồ mở “Sơ đồ nguyên nhân thắng
lợi của ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên”:

Nguyên nhân thắng lợi

? (1)

? (2)

? (3)

Nhìn vào sơ đồ trên, HS biết có ba nguyên nhân nhưng chưa hiểu nội dung. GV
phải đặt những CH gợi mở để giúp HS tìm ra những nội dung còn thiếu trên sơ đồ:
1. Thái độ của vua tôi nhà Trần trước âm mưu xâm lược của quân Mông –

Nguyên như thế nào?
2. Nhân dân Đại Việt đã có thái độ gì khi nhà Trần hiệu triệu nhân dân
chống giặc?
3. Đường lối kháng chiến chống quân Mông – Nguyên như thế nào?
Sau khi trả lời được các CH gợi mở trên thì HS sẽ tự mình rút ra được nguyên
nhân dẫn đến thắng lợi trong 3 lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên:
- Nhà Trần có vua hiền tướng tài, quyết tâm đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân
dân chống giặc ngoại xâm.
- Nhân dân đoàn kết quanh triều đình vâng mệnh kháng chiến.
- Có đường lối kháng chiến đúng đắn (thực hiện vườn không nhà trống).
Tóm lại, tổ chức cho HS khai thác nội dung từ ĐDTQ để lĩnh hội Chuẩn KT
23

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

là biện pháp không thể thiếu trong DHLS, do đặc trưng của KT lịch sử, của nhận
thức lịch sử là HS không thể trực tiếp tri giác được đối tượng. Yêu cầu đặt ra là GV
phải nắm vững nội dung, PP khai thác đối với các loại ĐDTQ khác nhau để thực
hiện một cách có hiệu quả, tránh bệnh hình thức, máy móc, coi việc sử dụng ĐDTQ
chỉ là để tăng thêm màu sắc, hình ảnh, chỉ là minh họa cho nội dung bài viết…; phải
xem đây là một trong những biện pháp quan trọng nhằm giúp HS nắm vững KT cơ
bản của bài học, phát triển các năng lực tư duy và thực hành cho các em. Đặc biệt
cần thiết kế các hoạt động học tập độc lập, sáng tạo để lôi cuốn các em làm việc với
ĐDTQ, tham gia xây dựng và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Việc tổ chức

cho HS khai thác nội dung ĐDTQ cần kết hợp đa dạng với các PPDH khác: trình
bày miệng, sử dụng SGK…
2.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi để tổ chức cho học sinh lĩnh hội Chuẩn
kiến thức trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X – XV lớp 10
trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)
Xây dựng và sử dụng HTCH trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng là một
trong những biện pháp quan trọng để tổ chức cho HS lĩnh hội Chuẩn KT, trên cơ sở
đó thực hiện giáo dục và phát triển tư duy các em. Đặc biệt, khi áp dụng các PPDH
tích cực, việc sử dụng HTCH lại càng cần thiết nhằm tích cực hóa hoạt động học tập,
phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của người học.
Khác với CH thông thường, CH trong dạy học có chức năng cơ bản nhất là tổ
chức quá trình lĩnh hội tri thức cho HS. Bên cạnh đó, nó còn có chức năng kích
thích khả năng tư duy của HS, đưa HS vào tình huống có vấn đề, giao cho HS một
nhiệm vụ, đòi hỏi HS phải tìm hiểu và giải đáp được vấn đề đó bằng các thao tác tư
duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa, tập
cho HS suy luận, giải thích, chứng minh, trình bày. GV thông qua HTCH để thể
hiện ý đồ của mình dẫn dắt HS tìm hiểu vấn đề theo hướng nào, nhằm đạt được KT,
KN gì, đưa đến cho người học loại thông tin nào. Thông qua HTCH, GV rèn luyện
tư duy cho HS, “lôi kéo” HS tham gia tích cực vào quá trình học tập, giao tiếp, huy
động KT, kinh nghiệm của HS.
Về mặt cấu trúc, tùy theo từng loại KT, GV có thể cấu trúc HTCH khác
nhau, song điểm mấu chốt là HTCH phải chứa đựng những vấn đề xoay quanh nội
dung đơn vị KT cần đạt được cho HS bằng cách khai thác các khía cạnh, các đặc
điểm, tính chất của nội dung mà GV cần giảng dạy. Trong đó, có CH nêu vấn đề
(CH trọng tâm), có CH gợi mở phục vụ cho việc giải đáp CH trọng tâm đó. Đối với
một bài học, HTCH phải được sắp xếp theo nội dung mà GV lựa chọn trong bài học
một cách logic, không sắp xếp lộn xộn, làm HS rối trí. Đồng thời HTCH phải ở
trong vùng phát triển gần của KT của HS. Chúng tôi sẽ phân tích làm rõ cấu trúc
của HTCH trong DHLS và minh họa thông qua các ví dụ cụ thể trong phần Lịch sử
Việt Nam ở lớp 10 (Chương trình Chuẩn).

 CH nêu vấn đề: Có nhiều cách nêu yêu cầu học tập cho HS trước khi
nghiên cứu bài mới, nội dung mới; trong đó, hiệu quả nhất là đặt các CH nêu vấn đề
dưới dạng bài tập nhận thức (BTNT) hoặc nêu các CH nhận thức. CH nêu vấn đề
thường được đặt ở đầu bài hoặc đầu mục để xác định nội dung cơ bản, nhiệm vụ và
phương hướng tư duy của HS vì “Tư duy luôn luôn bắt đầu từ một vấn đề hoặc một
CH, từ sự ngạc nhiên hay nỗi băn khoăn thắc mắc” [21, tr. 45]. Để giải quyết CH nêu
vấn đề, yêu cầu HS phải chú ý, tập trung quan sát, tri giác tài liệu, huy động các năng
lực tư duy
24

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


www.huongdanvn.com

Ví dụ, khi dạy học bài 17 “Quá trình hình thành và phát triển của nhà
nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)”, GV có thể đưa ra BTNT: “Các em
chú ý theo dõi thầy (cô) trình bày để trả lời CH: Tại sao nói các triều đại từ Đinh –
Tiền Lê đặc biệt là Lý – Trần – Hậu Lê đã từng bước xây dựng một nhà nước quân
chủ hoàn chỉnh? Những hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước đó là gì?”.
Cách định hướng nhiệm vụ nhận thức như vậy tuy đơn giản nhưng giúp HS xác
định được những vấn đề trọng tâm của bài học mà các em cần theo dõi, tiếp thu.
Nói tóm lại, CH nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ học cho HS phải hướng vào
những KT trọng tâm. Nội dung phải bao quát toàn bài, đòi hỏi HS vận dụng KT
tổng hợp, nắm bắt được những sự kiện cơ bản của bài học thì mới trả lời được. Điều
này buộc HS phải tập trung theo dõi bài học suốt thời gian học tập và đó chính là
điều kiện để phát triển tư duy HS.

 CH gợi mở giúp giải quyết từng phần CH trọng tâm (CH nêu vấn đề):
CH nêu vấn đề được hiểu như một tiền đề quan trọng để giúp HS nắm chắc
KT cơ bản, trọng tâm của một bài, một vấn đề. Loại CH này thường khó đối với
HS, đòi hỏi các em phải biết phân tích, đánh giá; biết bày tỏ thái độ của mình đối
với sự kiện, hiện tượng lịch sử. HS rất khó trả lời ngay được CH vừa nêu ra vì thiếu
dữ kiện, do vậy, cùng với quá trình cung cấp thông tin, GV phải xây dựng các CH
gợi mở để giúp HS giải đáp dần CH nêu vấn đề. Muốn vậy, GV phải trả lời chính
xác, khoa học CH nhận thức, trên cơ sở đó xây dựng thành một HTCH gợi mở
tương ứng. GV phải dự kiến trước các mức độ trả lời của HS để có phương án xây
dựng cụm CH gợi mở phù hợp với tình huống thực tế dạy học đặt ra.
Ngoài việc phải đảm bảo có hai thành phần quan trọng là CH nêu vấn đề và
CH gợi mở, HTCH trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng phải có các loại CH
theo các mức độ nhận thức khác nhau, từ thấp đến cao và hỗ trợ nhau trong một bài
dạy. Theo các nhà lý luận PPDH lịch sử, có rất nhiều loại CH dùng trong trao đổi,
đàm thoại trong DHLS. Thông thường, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của KT lịch
sử mà xây dựng nên các loại CH sau:
- CH nêu lên sự phát sinh, phát triển của một biến cố hay hiện tượng lịch sử
(diễn biến về cách mạng, chiến tranh, thái độ của các tầng lớp qua các giai đoạn
cách mạng…). Ví dụ: “Trình bày những nét chính về diễn biến của các cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên ở thế kỉ XIII”…
- CH nêu những đặc trưng bản chất của các sự kiện lịch sử, bao gồm sự đánh
giá và thái độ HS. Ví dụ: “Tại sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân dân nhà
Trần đánh bại?”…
- CH nêu mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử (nguyên nhân, ý
nghĩa của một cuộc cách mạng….). Ví dụ, “Sự phát triển của đô thị trong các thế kỉ
XVI – XVIII có ý nghĩa như thế nào?”…
- CH về việc sử dụng KT đã học để hiểu một sự kiện mới, bao gồm việc so
sánh KT đã học với KT mới. Ví dụ, “Em hãy làm rõ bước phát triển mới của nền
văn hóa nước ta trong các thế kỉ XVI – XVIII?”…
- Những CH mang tính chất BT thực hành (vẽ bản đồ về diễn biến của một

chiến dịch, hay tường thuật một trận đánh, hoặc tìm những sự kiện của lịch sử địa
phương mình để liên hệ minh họa một vài sự kiện trong khóa trình lịch sử dân
tộc…). Ví dụ, “Em hãy trình bày trên bản đồ những diễn biến chính của cuộc kháng
chiến chống Tống thời Lý”.
Tóm lại, xây dựng và sử dụng HTCH không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi GV
25

bvvbvbnjhhhhmmkl.................................................................................................
..............................bbjjjgfffccghhhNNNNNNNNNNN...........................................
...........................................................................
GVGV..............................................................c


×