Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Đề cương Đường lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.19 KB, 66 trang )

Trọng tâm ôn tập đường lối
LÊ THIÊN KIM
1. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (19111920)
 Ngày 1/9/1958, thực dân Pháp nổ súng vào ĐN mở đầu cho quá trình xâm
lược Việt Nam, bắt đầu thiết lập bộ máy thống trị ở VN. Chúng áp đặt chính
sách cai trị thực dân, chia rẽ nước ta thành 3 xứ, tiến hành bóc lột nặng nề về
kinh tế, kìm hãm và nô dịch nền văn hóa. Dưới chính sách thống trị của thực
dân Pháp, đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chĩnh
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Xã hội Việt Nam xuất hiện thêm 2 giai cấp mới
là công nhân và tư sản Việt Nam và tồn tại 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân VN với giai cấp địa chủ phong kiến. Biến xã hội VN thành một
xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
 Thực tiễn lịch sử Vn đặt ra 2 nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi
thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nd; hai là, xóa
bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, ruộng đất cho nông
dân.
 Trước tình hình đó, nhiều phong trào yêu nước nổ ra, theo nhiều khuynh
hướng (khuynh hướng phong kiến và tư sản) cuối thế kỷ 19, đầu 20 ra đời
như: phong trào Cần Vương, khởi nghĩa yên Thế, phong trào yêu nước theo
tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Nhưng tất cả
đều đi đến thất bại.
 Trước hoàn cảnh lịch sử của đất nước như vậy, xuất phát từ lòng yêu nước
nồng nàn, trên cơ sở rút kinh nghiệm từ cuộc đấu tranh của các bậc tiền bối đi
trước, 5/6 1911, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.


 Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách
mạng điển hình trên tg. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái
và quyền con người của các cuộc CM tư sản tiêu biểu như CM Mỹ (1776),
CM Pháp(1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc CM


tư sản này là những cuộc CM không đến nơi đến chốn (không giải phóng cho
số đông và người lao động trong xã hội)  Do đó người khẳng định: Con
đường CMTS không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân
nói chung, nhân dân VN nói riêng. Người cũng không nóng vội mặc dù trong
thời kỳ này không còn xu hướng nào khác.
 1917, CM tháng Mười Nga thành công. Người tập trung nghiên cứu cuộc CM
này nhưng vẫn chưa đi theo con đường CMVS.
 Đầu năm 1919, người thay mặt “Hội những người VN yêu nước” đưa ra bản
yêu sách 8 điểm lên hội nghị Véc xây nhưng không được chấp nhận  khẳng
định sự bịp bợm của các nước Đế Quốc. Các dân tộc muốn giải phóng được
mình thì nên dựa vào chính sức mình.
 1919, NAQ ra nhập đảng Xh Pháp chủ trương chống chính sách bóc lột của
TDP, tranh thủ được sự ủng hộ, tuyên truyền, giúp NAQ hoạt động thâm nhập
trong các phong trào CN và có cơ hội tiếp xúc, hoạt động cùng nhiều nhà
chính trị nổi tiếng. Tạo điều kiện cho mối quan hệ sau này.
 Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê Nin. Sự kiện này đã đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động CM của NAQ. Người tìm thấy trong luận
cương của Lê Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nd VN. Nguyễn
ÁI Quốc đã đến với CN Mác-Lê Nin. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường CMVS”.
 Tháng 12/1920, Người tham gia đại hội lần 18 Đảng XH Pháp, bỏ Phiếu tán
thành Quốc tế 3.  từ CN yêu nước chân chính đến CN Cộng Sản, từ một


thanh niên yêu nước, NAQ đã trở thành một chiến sĩ cộng sản đầu tiên của
dân tộc.
 Như vậy, vượt qua rào cản hạn chế của các sĩ phu đương thời, bằng thiên tài
và trí tuệ hoạt động CM, sau 10 năm kể từ khi rời bến cảng Nhà Rồng, NAQ
đã tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn tìm ra con đường cứu nước

đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, cùng với việc thực hiện
nhiệm vụ với phong trào cộng sản Quốc tế, NAQ xúc tiến truyền bá CNMLN,
vạch phương hướng chiến lược CMVN, chuẩn bị điều kiện để thành lập
ĐCSVN.
TÓM TẮT
1. Hành tình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân,đã tác động mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam xuất hiện thêm 2 giai cấp mới là công nhân và tư sản tồn tại 2 mâu thuẫn cơ
bảndân tộc Việt Nam với thực dânnhân dân VN với giai cấp địa chủ phong kiến, nhiều
phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ 19, đầu 20
.Nhưng tất cả đều đi đến thất bại.
Trước hoàn cảnh lịch sử của đất nước như vậy, 5/6 1911, Nguyễn Tất Thành đã ra
đi tìm đường cứu nước. Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên tg.
Đầu năm 1919, người đưa ra bản yêu sách 8 điểm.
Tháng 7/1920, Người đọc bản “ sơ thảo luận cương lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê Nin
Tháng 12/1920, Người tham gia đại hội lần 18 Đảng XH Pháp, bỏ Phiếu tán thành
Quốc tế 3

2. Quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc để xúc tiến thành lập chính đảng của giai cấp CNVN.


Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và tin
tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc
mình. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản”.
Mặc dù đã xác định được con đường cứu nước, nhưng NAQ không vội vã đi vào

giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc ngay. Người nhận thấy các cuộc CM ở VN
còn rất lẻ tẻ, lạc hậu, thiếu đường lối chiến lược, sĩ phu yêu nước còn chưa giác ngộ.
 Từ những năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tích cực xúc tiến việc chuẩn bị về tư tưởng
chính trị và tổ chức nhằm tạo điều kiện chín muồi cho việc thành lập Chính Đảng
của Giai cấp CN VN.
1.

Về mặt tư tưởng và chính trị:

+) Trước tháng 12/1924: (NAQ ở Pháp và Liên Xô)
Người đã viết bài đăng các báo: "Người cùng khổ" do Người sáng lập, báo
"Nhân đạo" - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp, báo "Đời sống công
nhân" - tiếng nói của giai cấp công nhân, báo Sự thật (Liên Xô), Tạp chí thư tín Quốc
tê quốc tế cộng sản),… Qua đó đã lên án, vạch trần bản chất xâm lược, phản động,
bóc lột, đàn áp tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời khơi gợi lòng yêu nước
và truyền bá tư tưởng MLN vào VN.
NAQ tham gia nhiều đại hội: ĐH quốc tế nhân dân lần 1, ĐH lần V của QTCS,
quốc tế phụ nữ, quốc tế thanh niên… Trong các đại hội này, người tiếp tục làm rõ
quan điểm của mình về vai trò lịch sử của GCVS ở các nước thuộc địa, về mối quan
hệ giữa phong trào CM thuộc địa với phong trào CM các nước chính quốc. Nêu rõ
cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của CN đế quốc trước khi xóa bỏ chế độ
thối nát này trên toàn TG.
 Như vậy trong giai đoạn này:


- NAQ đánh giá cao vấn đề thuộc địa, phê phán sai lầm của 1 số ĐCS ở các nước
TB phát triển chưa quan tâm tới vấn đề các nước thuộc địa.
- Đánh giá chính xác tình hình thực tế ở các nước thuộc địa, qua đó tố cáo tội ác của
CN Thực dân.
- NAQ tập trung tích cực truyền bá tư tưởng CNMLN vào VN. Đó chính là nền tảng

tư tưởng chính trị quan trọng nhất khi thành lập chính đảng của giai cấp CN.
+) Từ tháng 12/1924 – 1930: (NAQ ở TQ)
Người tiếp tục viết nhiều bài báo đăng tải trên các tạp chí lớn. Đặc biệt là tác
phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) của Người  Đã tố cáo trước dư luận
Pháp và thế giới tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc
địa.  Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm
đánh đuổi TD Pháp xâm lược.
Mở các lớp đào tạo cán bộ (1925-1927), huấn luyện chính trị cho cán bộ CM
VN, người cũng trực tiếp lựa chọn các thanh niên ưu tú gửi đi đào tạo nước ngoài
(ĐH Phương Đông - Liên Xô…). Tổ chức các tờ báo Thanh niên, Công nông, Tiền
phong,…nhằm truyền bá tư tưởng Mác – Lê nin vào VN, thức tỉnh và giác ngộ quần
chúng.
- Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” 1927 tập hợp tất cả các bài giảng của người,
đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư
tưởng chính trị cho việc thành lập ĐCSVN. Có giá trị lý luận và thực tiễn to
lớn với CMVN.
Hệ thống quan điểm đó được truyền vào Việt Nam nhằm chuẩn bị về tư tưởng và
chính trị cho việc thành lập Đảng.


NAQ truyền bá CN ML vào VN

1921- báo người
cùng khổ

2.

1922 - trưởng ban
NC thuộc địa


1923 - báo sự thật

1925 - BA chế độ
TDP

1927 - đường KM

Về mặt tổ chức:
Tháng 12-1924, Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức

Á - Đông để thống nhất hành động chống chủ nghĩa thực dân.
Tháng 6-1925, Người thành lập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội", tổ chức trung kiên là "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo một số thanh
niên yêu nước Việt Nam thành những cán bộ cách mạng, Những bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó đã được xuất bản
thành sách “Đường Kách Mệnh”. Một số được chọn đi học ở Trường đại học Phương
Đông (Liên Xô); một số được cử đi học quân sự, phần lớn sau này được đưa về nước
hoạt động.
Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc
trở thành tư tưởng cách mạng khuynh hướng phong trào dân tộc và các tổ chức chính
trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở


Việt Nam: [Đông Dương cộng sản đảng (6-1929), An Nam cộng sản đảng (7-1929)
và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929).]
Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở
của mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin,
thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời
và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị ,

tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
T2 - 1930, Hội nghị thống nhất Đảng đã họp tại Cửu Long Hương Cảng, dưới
sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tóm tắt:
-Mở đầu:
7-1920: là mốc quan trọng – Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin – thấy con đường giải phóng - tin tưởng – đi theo quốc tế III
Tích cực xúc tiến quá trình sau đó
-Chính trị:
Thành lập các báo, đăng các bài đăng khác nhau, tác phẩm khác nhau (ý này cần
học kĩ) – lên án, vạch trần bản chất, tố cáo trước dư luận pháp và thế giới
Nêu các quan điểm lý luận về cách mạng thuộc địa: kẻ thù chung – quan hệ mật
thiết – tính chất CMGP dân tộc – giai cấp công nhân và nông dân – công dân và Đảng
cộng sản
-Tổ chức:
Thống nhất hành động = cách 1924 lập nên hội liên hiệp các dân tộc bí áp bức á
đông
1925 thành lập thêm 1 hội, 1 tổ chức nữa, huấn luyện, đào tạo chiến sỹ cách mạng
Sự ra đời 3 tổ chức cộng sản ở VN ( Đông dương, an nam, đông dương) – do theo
khuynh hướng vô sản của tư tương HCM


Sự hoạt động của hội VNCMTN và ảnh hưởng của nó – 1928
1930 – thành lập ĐCSVN

3. ND bản chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và ND bản luận cương
tháng 10/1930.
a) Nội dung chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (Bản luận cương thứ nhất
tháng 2) đã vạch ra nội dung cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam. Đó

là :
Phương hướng chiến lược của CMVN: “tư sản dân quyền CM và thổ địa CM
để đi tới xã hội cộng sản”
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa CM (trên 3 lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội):
-

Về chính trị : đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho

nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội
công nông binh.
-

Về kinh tế : thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn

(công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở
mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8h.
-

Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do, nam nữ bình quyền...phổ thông

giáo dục theo công nông hóa.
Về lực lượng cách mạng: GC Công nhân, nông dân, phải tranh thủ, lôi kéo,
thu phục các giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản…
 Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo để làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa
chủ và phong kiến;



 Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày( công
hội,hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản
quốc gia.
 Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh
niên, Tân Việt ..... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
 Với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng ( Đảng lập hiến..) thì
phải đánh đổ.
Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi
liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi
ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Tóm tắt:
-

Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới

xã hội cộng sản.
-

Nhiệm vụ của cách mạng :




Chính trị: đánh đổ đế quốc, phong kiến  giành độc lập



Kinh tế: thủ tiêu quốc trái, tịch thu ruộng đất, tài sản của tư sản đế quốc giao

cho chính phủ và chia cho người nghèo


Văn hóa xã hội: người dân được tự do, bình đẳng.


-

Lực lượng cách mạng: bao gồm nhiều giai cấp như công nhân,nông dân, tiểu

tư sản, tư sản dân tộc…trong đó công nhân nắm vai trò lãnh đạo.
-

Đoàn kết quốc tế: đoàn kết chặt chẽ với các dân tọc bị áp bức và giai cấp vô

sản tg, đặc biệt là vô sản Pháp.
b) Nội dung của bản luận cương tháng 10 năm 1930
Từ ngày 14 – 30/10/1930, HN ban chấp hành TW Đảng lần thứ nhất họp tai Hương
Cảng (TQ) do đ/c Trần Phú chủ trì. Đổi tên DCSVN thành DCS Đông Dương (thể
hiện tinh thần đoàn kết quốc tế), và thông qua bản luận cương chính trị đầu tiên của
Đảng. (Luận cương tháng 10).
Nội dung bản luận cương:
Luận cương đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến
và nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do

giai cấp công nhân lãnh đạo.
Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân
cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc. 
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân lao động với phong kiến, tư sản, đế quốc.  Khác
so với luận cương tháng 2, đặt mâu thuẫn giai cấp lên trước mâu thuẫn dân tộc.
Luận cương vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương
là: lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có
tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm
xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát
triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. 
So với luận cương tháng 2 giống nhau là đều xác định 2 thời kỳ của CMVN, khác ở
chỗ chỉ cụ thể cách thức tiến lên XHCN là bỏ qua TBCN.
Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là: đánh
đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa


Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan
hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa
chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi, và có phá tan được chế độ phong kiến
thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương xác
định: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.  trong luận cương tháng 2 thì ngược lại, vấn
đề dân tộc lên trước vấn đề giai cấp.
Về lực lượng cách mạng, Luận cương chỉ rõ:
-

Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa

là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
-


Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực của cách mạng.

-

Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng,

còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát
triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.
-

Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu

tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng
quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu.
Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công
nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
 Do đặt vấn đề giai cấp lên trước nên trong luận cương này đã xác định LLCM chỉ
có ND và CN, giống mô hình chung ở nước ngoài. Trong khi đó luận cương tháng
2 thì đầy đủ mọi tầng lớp, vì ở đó mâu thuẫn cơ bản là mẫu thuẫn dân tộc nên cần
tranh thủ liên minh dân tộc, đoàn kết giữa các tầng lớp. Thực tế VN chứng minh là
bản luận cương tháng 2 đúng đắn hơn với tình hình lúc bấy giờ.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương chỉ rõ, để đạt được mục tiêu cơ bản
của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay
công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo


động”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo
khuôn phép nhà binh”. (giống)
Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Luận cương

khẳng định: cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,
vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới,
trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng
ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho
cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương. (giống)
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối
chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là
đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lê Nin làm nền tảng tư tưởng,
đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt
được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. (giống)
Tóm tắt:
-

Luận cương nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương.

-

Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp : giữa toàn thể nhân dân lao động vs phong kiến,tư sản,đế quốc.

-

Phương hướng chiến lược: làm cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa phản đế,

sau khi thành công sẽ bỏ qua tư bản tiến lên XHCN.
-

Nhiệm vụ của cách mạng : đánh đổ phong kiến,đế quốc,làm Đông Dương độc lập.

-


Lực lượng cách mạng : chủ yếu là nông dân và công nhân, công nhân nắm vai trò lãnh

đạo.
-

Phương pháp cách mạng : sử dụng võ trang bạo động.

-

Vai trò lãnh đạo của Đảng : là điều kiện cốt yếu cho cách mạng thắng lợi.

-

Quan hệ với cách mạng quốc tế : phải đoàn kết gắn bó với vô sản thế giới đặc biệt là vô

sản Pháp, các dân tộc thuộc địa trên thế giới.


4. ND quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng giai
đoạn 1939-1941.
Hoàn cảnh lịch sử:
Trong nước :
 Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm cộng sản,
đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
 Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất tàn bạo, thủ tiêu quyền
tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939…
 Lợi dụng Pháp đầu hàng Đức, ngày 22-9-1940, phát xít Nhật tấn công Lạng
Sơn rồi đổ bộ vào Hải Phòng.
 Ngày 23-9-1940, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó ND ta chịu cảnh

1 cổ 2 tròng áp bức, bóc lột của Pháp- Nhật.
 Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết.
Thế giới:
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp thi hành biện
pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6-1940, Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:
Khi CTTG thứ 2 bùng nổ, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đề ra đường lối chuyển
hướng chiến lược trong thời kỳ mới thông qua nghi quyết:
- HN BCHTW lần T6 (11/1939)
- HN BCHTW lần T7 (11/1940)


- HN BCHTW lần T8 (5/1941) (đặc biệt có đc NAQ chủ trì, hoàn thiện đường
lối chuyển hướng chiến lược)
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
BCH TW nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách
là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc
này nếu không giải quyết được VĐ dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể DT thì chẳng những toàn thể quốc gia DT còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để
tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của CM lúc này, Ban Chấp hành Trung ương tạm
gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu
“Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”, “Tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo” …
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng
CM nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng CM đông đảo trong cả nước, BCH TW quyết định thành lập

Mặt trận VN độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dương, đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc…) để
vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần,lứa tuổi, đoàn
kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi cần phải ra sức phát triển lực lượng
CM, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến XD căn cứ địa CM.
BCH TW chỉ rõ: việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và
dân ta trong giai đoạn hiện tại. TW quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn
và chủ trương thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ


trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ ND, vừa phát triển cơ sở CM, tiến tới thành
lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
BCH TW xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: “phải luôn luôn
chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhắm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại
quân thù…với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo 1 cuộc khởi nghĩa từng phần
trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho 1 cuộc tổng
KN to lớn.
BCH TW còn đặc biệt chú trọng công tác XD Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh
đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động
quần chúng.
Ngoài ra: Trong HN BCHTW lần 8, đưa 3 nhận định:
- Chiến tranh đang lan rộng, Đức nhất định tấn công LX, LX sẽ tuyên chiến trở
lại và giành thắng lợi.
- Chiến tranh sẽ lan tới châu Á
- Sau chiến tranh các nước sẽ phát triển phong trào đấu tranh giành độc lập và

đi theo con đường CNXH.
Do đó, đưa ra quyết định: Đưa nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu; Chủ trương giải quyết
vấn đề GPDT trong khuôn khổ của từng nước, từng dân tộc, quyết định thành lập ở
mỗi nước một mặt trận riêng (ở VN là mặt trận ĐM). Phương pháp tiến hành là khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Ý nghĩa:
Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được hoàn chỉnh góp phần giải quyết
mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, đưa đến những chủ
trương, sự chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.
- Có ý nghĩa quyết định đvới sự ptriển của phong trào cm đi tới thắng lợi của cm
tháng 8/45, giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng để tiến lên giành thắng lợi


trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân
dân.
- Giúp công tác chuẩn bị giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương
trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng của quần chúng
vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
Tóm tắt:
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc tay sai trở nên gay gắt và trở thành mâu
thuẫn chủ yếu cần phải giải quyết→ đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên đầu
- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được từng bước hoàn chỉnh qua ba hội
nghị:
+ Hội nghị lần thứ 6 (11-1939) mở đầu sự chuyển hướng.
+ Hội nghị lần thứ 7 (11-1940) tiếp tục bổ sung nội dung chuyển hướng
+ Hội nghị lần thứ 8 (5-1941) hoàn chỉnh nội dung chuyển hướng.
Nội dung cơ bản chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
- Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày” bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt

gian chia cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm
tức”…
- Về công tác tổ chức, tập hợp lực lượng:
+ Thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh (còn gọi là Việt Minh), đổi tên các hội phản đế
thành hội cứu quốc
- Về phương thức hoạt động và PP đấu tranh:
+ Xác định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm+ Ra sức phát
triển lực lượng cách mạng + xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng.
+ Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: khởi nghĩa từng phần


+ Chú trọng công tác xây dựng Đảng
+ Đào tạo cán bộ cho cách mạng
+ Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
=> Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhận thức nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên cao hơn hết thảy, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận
Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây
dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, nâng cao hơn nữa năng lực tổ chức và
lãnh đạo của Đảng là tinh thần chung của quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

5. Nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng trong CM tháng 8.
MỞ ĐẦU
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa mùa Thu năm 1945 là thắng lợi vĩ đại của dân
tộc Việt Nam, chỉ xảy ra trong nửa tháng, đó là khởi nghĩa ít đổ máu nhất và nhân
văn nhất. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi đó là nhờ nghệ thuật chớp
thời cơ của Đảng ta.
a) Phân tích, dự báo thời cơ:
Từ lịch sử đấu tranh và thực tiễn cách mạng trên thế giới, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra rằng: Thời cơ của cuộc cách mạng chỉ có thể diễn ra
khi xuất hiện cả 3 điều kiện sau: Một là, kẻ thù của cách mạng (giai cấp thống trị)

không thể thống trị nhân dân như cũ được nữa; Hai là, nhân dân lao động không thể
cam chịu ách áp bức bóc lột của giai cấp thống trị như cũ được nữa; Ba là, có một
chính Đảng ra đời và sẵn sàng đảm nhận sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo cuộc
cách mạng của dân tộc giành chính quyền về tay nhân dân.
Tình hình thế giới và trong nước:
* Trên thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:


Ngày 22/6/1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức xâm lược
Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng
dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
=> Điều kiện 1.
* Tình hình trong nước:
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính
sách thời chiến rất trắng trợn.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, Nhật vào Đông Dương. Ngày 23/9/1940, tại Hà Nội,
Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó, nhân dân chịu cảnh một cổ 2 tròng áp bức,
bóc lột của Pháp - Nhật.
Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao
giờ hết.
=>Điều kiện 2.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, với tầm nhìn chiến lược, lãnh tụ Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng ta đã phân tích, đánh giá tình hình, chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của CM bây giờ là Độc lập dân
tộc. Đồng thời nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang, thành lập các đội du kích,
mặt trận chính trị, thành lập đội VN tuyên truyền giải phóng quân… công việc chuẩn
bị cho cuộc tổng vũ trang diễn ra sôi nổi trên cả nước.
=> Điều kiện 3.
Như vậy cuối năm 1944, nước ta đã đủ cả 3 điều kiện.

- Tháng 10/1944, HCM gửi thư tới đồng bào cả nước sau 1 quá trình dự báo thời
cơ: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong 1 năm hoặc 1 năm rưỡi nữa. Thời
gian rất gấp. Ta cần phải làm cho nhanh. Quân phát xít nhất định sẽ thua quân Đồng
Minh”.


Đêm 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp mau
chóng đầu hàng Nhật. Ngay đêm 9/3/1945 Ban thường vụ Đảng đã họp và đưa ra
chỉ thị vào 12/3/1945: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
* Chỉ thị nhận định:
- Cuộc đảo chính của nhật lật đổ pháp để độc chiếm Đông Dương => tạo ra 1 cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc
-Nhưng đk khởi nghĩa chưa chín muồi, tuy vậy đang có những cơ hội tốt để ĐK
nhanh chóng đi đến chín muồi.
Tiến hành khởi nghĩa vào lúc này chúng ta không thể chắc chắn giành được thắng
lợi. Do:
-Toàn Đảng, toàn dân vẫn chưa thực sự sẵn sàng. (*)
-Cả Pháp và Nhật vẫn trên đất nước ta, dù chúng có suy yếu nhưng số lượng quân
của chúng vẫn rất đông và đủ mạnh để chống lại cách mạng.
-Phần đông nhân dân đã chán cả Pháp và Nhật nhưng vẫn còn một số bộ phần chưa
ngả hẳn về phe cách mạng.
Nhưng đây lại là cơ hội tốt để làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng
chín muồi vì:
-Trên TG thành lập lực lượng quân ĐM sang các nước khác đánh đuổi phát xít.
-Nạn đói năm 45 do Nhật-Pháp, VN phá kho thóc chia cho dân, đem lại lợi ích cho
nd, nên nhân dân đi theo CM.
* Dự kiến thời cơ có thể khởi nghĩa:
1. khi quân đồng minh đổ bộ vào Đông dương đánh Nhật, Nhật phải kéo ra mặt trận
ngăn chặn Đồng Minh nên phía sau sẽ sơ hở.
2. CM Nhật bùng nổ, chính quyền Nhật thành lập

3. Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân viễn chinh Nhật mất tinh thần
* Chỉ thị xác định: Phát xít Nhật là kẻ thù chính => Khẩu hiệu: Đánh đuổi Nhật Pháp
được thay bằng: Đánh đuổi phát xít Nhật


* Chỉ thi chủ trương:
- phát động cao trào kháng nhật trước tổng kn
- mọi hình thức tuyên truyền phải thay đổi phù hợp vs thời kỳ tiền kn
- Đẩy mạnh xd các đội tự vệ cứu quốc, xd LLVT, lập căn cứ địa cách mạng, phát
động đt du kích, gp từng vùng, mở rộng căn cứ địa
 Giải quyết ý (*).
b) Nắm bắt thời cơ :
Ngày 9/5 phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện. Ở châu Á, phát xít Nhật đang đi đến
chỗ thất bại hoàn toàn. Trước sự pt hết sức nhanh chóng của tình hình TW quyết
định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tai Tân Trào (13-15/8/1945).Hội nghị nhận
định: Cơ hội tốt giành chính quyền cho ta đã đến và quyết định phát động toàn dân
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân đồng minh
vào đông dương.
* Thời điểm vàng: Từ khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh đến trước khi quân
Đồng Minh đổ bộ vào Việt Nam
Đây chính là khoảng thời cơ khi “Kẻ thù cũ đã suy yếu, kẻ thù mới chưa xuất hiện.
- Giữa trưa ngày 13 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực
lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Đến đây, kẻ thù của
cách mạng nước ta đã vô cùng suy yếu - tình thế của cách mạng đã xuất hiện.
Nếu tiến hành trước khi Nhật đầu hàng thì Nhật vẫn có thể ngóc đầu dậy.
- Theo thỏa thuận, Đồng Minh vào Việt Nam là: Phía Bắc là Mỹ, phía Nam là
Anh với mục đích áp giải quân Nhật  Nhưng đó là các nước đế quốc, không
phải nước thuộc CNXH, bản chất bóc lột, thực dân, chắc chắn sẽ trở mặt và
tham vọng biến ta thành thuộc địa  Ta nhận thấy đây là âm mưu các nước
đế quốc mượn danh quân ĐM vào nước ta  Kẻ thù mới.

Nếu ta không đón Mỹ và Anh với tư cách là nước chủ nhà thì sẽ bị các nước này đưa
quân chiếm đóng và lèo lái nước ta theo con đường mà ta không mong muốn. Đồng


thời sẽ chia năm, xẻ bảy nước ta cũng như miếng mồi béo bở Đông Dương để cùng
nhau ra sức xâu xé, đàn áp, bóc lột.
Như vậy, Khởi nghĩa phải được diễn ra trong khoảng thời gian sau khi Nhật đầu
hàng quân ĐM và trước khi quân ĐM đổ bộ vào Đông Dương. Việc xác định thời
cơ vàng của ta là rất chính xác và khéo léo, nhạy bén thay đổi khoảng thời cơ để
chớp lấy cơ hội. Cơ hội này chỉ có một và là duy nhất.  Đây là một nhận định hoàn
toàn đúng đắn, thể hiện sự tài tình, sáng suốt của Đảng và Bác Hồ.
TÓM TẮT
I. XÁC ĐỊNH THỜI CƠ:
1.Phân tích, dự báo thời cơ:
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra rằng: Thời cơ của cuộc cách mạng
chỉ có thể diễn ra khi xuất hiện cả 3 điều kiện
* Trên thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
* Tình hình trong nước:
nhân dân chịu cảnh một cổ 2 tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật.
với đường lối chiến lược cách mạng “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, Đảng ta, đã
có những chủ trương, biện pháp sáng suốt, tích cực, thể hiện qua việc chuyển hứng chỉ đạo
chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của CM bây giờ là Độc lập dân tộc.
=> Điều kiện 3.
Đêm 9/3/1945 chỉ thị :" Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.
* Chỉ thị nhận định:
* Chị thị xác định
* Chỉ thi chủ trương:
* Dự kiến thời cơ: 3 TH
Nhưng thời cơ đó chưa thực sự chín muồi, vì : 2 ý.

2.Nắm bắt thời cơ :


Nêu thời cơ.
* Thời điểm vàng: Từ khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh đến trước khi quân Đồng
Minh đổ bộ vào Việt Nam
trước ngày 15-8-1945 , tình thế cách mạng chưa xuất hiện, kẻ thù của cách mạng vẫn còn
mạnh. Còn nếu khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân đội Nhật thì lúc này kẻ thù của
chúng ta không chỉ đông lên về số lượng mà còn mạnh hơn rất nhiều.quân Đồng minhbản
chất của chúng là chủ nghĩa thực dân - đế quốc.

6. ND đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng (1946-1954).
MỞ ĐẦU:
- Vì sao phải phát động toàn quốc kháng chiến? (hoàn cảnh lịch sử)
- Nội dung được thể hiện trong các văn kiện nào?
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến + chỉ thị toàn dân kháng chiến + kháng chiến
nhất định thắng lợi = đường lối toàn quốc kháng chiến
NỘI DUNG: cần trình bày được các ý sau
Mục đích

Tính chất Phương châm/nội dung

+ Đánh phản +
động

giải gia KC, lấy LLVT làm nòng chống phản động TDP

phóng

cốt


lập,

Dân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại + Đoàn kết toàn dân

thống chủ mới

nhất dân tộc

vọng

giao

+ Tự cấp, tự túc về mọi mặt

+ Lâu dài

+ Thực hiện toàn dân kháng chiến

+

Dựa vào sức mình là

chính: tự cấp tự túc về mọi
mặt

1. Hoàn cảnh lịch sử:

định


+ Đoàn kết với Miên, Lào và các dân thắng

+ Toàn diện: chính trị, quân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình
+ Giành độc +

Triển

Dân + Toàn dân: toàn dân tham + Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống, Nhất

TDP tộc

xâm lược

Chính sách/nhiệm vụ

lợi


Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 nước ta còn nằm trong vòng vây của Chủ nghĩa
đế quốc và phản động quốc tế. Để bảo vệ chính quyền, tranh thủ thời gian hoà bình,
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, Đảng ta đã thực hiện sách lược hoà hoãn với
Tưởng và sau đó hoà hoãn với Pháp bằng việc ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm
ước 14-9-1946 – đây là sự nhân nhượng cuối cùng của ta với Pháp. Nhưng với dã
tâm xâm lược, cuối năm 1946, Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một
lần nữa.
17/12/46, Pháp đổ bộ vào miền Bắc  Thảm sát tại HN.
18/12/46, Pháp gửi tối hậu thư, đòi chúng ta phải đầu hàng, vứt bỏ vũ khí.
Đây là giọt nước tràn ly. Trước hành động ngày càng lấn tới của thực dân Pháp, ta
không thể nhân nhượng được nữa, hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong
thời điểm lịch sử này, Đảng và nhà nước ta đã quyết định phát động cuộc kháng

chiến trong cả nước, chủ động tiến công.
2. Nội dung của đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn:
- "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" – Chủ tịch HCM (19/12/46)
- “Chỉ thị toàn dân kháng chiến” – TW Đảng (12/46)
- “Kháng chiến nhất định thắng lợi" năm 1947 – Trường Chinh (1947).
Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến thể hiện qua các văn kiện trên là:
- Mục đích kháng chiến
Kế tục và phát triển sự nghiệp CM Tháng Tám. “Đánh phản động thực dân Pháp
xâm lược, giành thống nhất và độc lập”
- Tính chất của cuộc kháng chiến
Một là: Cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là kế tục sự nghiệp của Cách mạng tháng
Tám, cuộc kháng chiến này sẽ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng và


củng cố chế độ cộng hoà dân chủ Việt Nam và phát triển nó trên nền tảng dân chủ
mới. Cho nên cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng. Lúc này nhiệm
vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp bách nhất.
+ Tính chất dân chủ mới là trong quá trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện
cải cách dân chủ và thực chất của vấn đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện
“người cày có ruộng”.
Hai là: Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn
diện và lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ chiến tranh nhân dân , toàn dân đánh giặc là đánh giặc bằng bất cứ vũ khí gì có
trong tay, đánh giặc ở bất cứ nơi nào chúng tới.
+ Kháng chiến toàn dân là xuất phát từ so sánh lực lượng giữa ta và địch và xuất
phát từ chân lý: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
+ chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Vì thế phải đánh
địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị , kinh tế , văn hoá, trong đó quân sự

là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng của địch trên đất nước ta, đè bẹp ý
chí xâm lược của chúng, giành lại toàn bộ đất nước.
- Phương châm của cuộc kháng chiến:
+ Kháng chiến toàn dân: “bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc, bất kỳ người già, trẻ em hễ là người VN thì phải đứng lên đánh TDP” thực hiện
mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.  Sự nghiệp Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”. Tạo ra được sức mạng toàn dân thì ắt sẽ giành được chiến
thắng.
+ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao. Trong đó:


Chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân, đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình
Quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng LLVT nhân dân, tiêu diệt địch, giải
phóng nhân dân và đất đai, thực hiện, tiêu du kích tiến lên vận động chiến, đánh
chính qui, là “Triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn lực lượng, kháng
chiến lâu dài...Vừa đánh vừa võ trang, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”
Kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng
VH: Xóa bỏ VH thực dân, phong kiến, xây dựng nền VH dân chủ mới theo ba nguyên
tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng
Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương lực lượng. “Liên hiệp với dân
tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
VN độc lập
+ Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh
của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta,
chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch,

đánh thắng địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cung tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị bao
vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có
điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ
lại.
- Triển vọng kháng chiến:
Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi
KẾT LUẬN:


×