Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

So sánh 3 chính sách an sinh xã hội bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đại xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.19 KB, 14 trang )

2. So sánh 3 chính sách ASXH: BHXH, CTXH và UĐXH ở Việt
Nam
BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội là 3 nhánh của an sinh xã hội.
Ba nhánh này đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi
quốc gia. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và
tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống của mọi thành viên trong cộ ng
đồng xã hội, từ đó góp phần ổn định và an toàn xã hội.
Giống nhau:
- Đều là những mảng chính sách trong hệ thống các chính sách
asxh nhằm thực hiện mục tiêu của asxh đó là tạo ra 1 mạng lưới an
toàn bảo vệ cho tất cả các thành viên trong xã hội không may lâm vào
hoàn cảnh yếu thế, giúp họ có điều kiện phát huy khả năng lao động,
từ đó vươn lên trong cuộc sống
Khác nhau
Tuy nhiên, giữa BHXH với cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội cũng có
những điểm khác nhau cơ bản
- Thứ nhất là, quan điểm về mỗi loại chính sách này cũng khác
nhau. Đặc biệt là chính sách cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội ở mỗi
nước khác nhau và mỗi thời kỳ khác nhau cũng khác nhau. Chính sách
BHXH chỉ mang tính lịch sử, vì nó chỉ tồn tại trong điều kiện xã hội
có sản xuất hàng hoá, có sự thuê mướn lao động. Chính sách Ưu đãi
xã hội cũng tương tự như vậy.
- Thứ hai là, đối tượng tham gia, đối tượng được cứu trợ xã hội
và ưu đãi xã hội rộng hơn rất nhiều so với đối tượng tham gia và đối


tượng được hưởng trợ cấp BHXH. Người lao động tham gia BHXH
cũng có thể là những đối tượng của cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
- Thứ ba là, nguồn quỹ dùng để cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội
cũng khác so với BHXH. Sự khác nhau đó thể hiện ở cả sự đóng góp
và mức đóng góp và sự hình thành quỹ. Nhất là hình thức của nguồn


quỹ được thể hiện cả ở giá trị hiện vật. Ngay cả hình thức giá trị trong
ưu đãi xã hội cũng không chỉ thuần tuý là giá trị vật chất mà còn thể
hiện ở cả giá trị tinh thần. Do đó, tính nhân văn và đạo lý trong ưu đãi
xã hội thể hiện rất rõ.
- Thứ tư là, cả ba loại hình chính sách này còn khác nhau về thời
gian, mức độ, thể thức và cơ quan quản lý.


Bảo hiểm xã hội Cứu trợ xã hội
Diện bao phủ

Hẹp

những Rộng,

Ưu đãi xã hội

không Hẹp, tùy đối

người tham gia phân biệt giàu tượng và phải
đóng bảo hiểm

nghèo khi gặp có chứng nhận
rủi ro,điều kiện của bộ thương
không khắt khe binh xã hội

Đối

tượng Người lao động


tham gia
Đối

Cộng đồng và Cộng đồng
quốc tế

tượng Người lao động Những

thành Những cá nhân

được bảo hiểm làm việc trong viên trong xã và tổ chức có
tất cả các lĩnh hôi gặp rủi ro cống hiến , hi
vực tham gia không có đủ sinh đặc biệt
BHXH

khả năng nuôi cho



hội

sống bản thân trong quá trình

hoặc

gia


đình xây dựng và
mức bảo vệ tổ quốc


sống rất thấp
Đối tượng BH

Phần thu nhập Cả vật chất và Phần vật chất
bị giảm hoặc tinh thần cho và

tinh

thần

mất của người người có công cho người lao
lao động khi rủi và gia đình

động, mọi mặt

ro xảy ra

trong đời sống

Nghĩa vụ đóng Bắt buộc và tự Tự nguyện, chủ Tự nguyện, chủ
góp

nguyện

yếu là trên mặt yếu là trên mặt
đạo đức

đạo đức,
hiện


thể
trách

nhiệm

mỗi

người
Hình thức chi Bằng tiền, tiền Bằng tiên, tiền Tiền, hiện vật
trả

mặt theo định kì mặt, hiện vật, và

các

hình

tinh thần, mang thức tinh thần


Khá


1. Hãy phân tích mối quan hệ giữa BHXH với tăng trưởng và phát triển kinh
tế
I.Những khái niệm cơ bản về Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một bộ phận của hệ thống bảo đảm xã hội, nó có ý
nghĩa rất lớn đối với đời sống của người lao động và gia đình họ.
Cùng với các bộ phận khác của an sinh xã hội như cứu trợ, trợ cấp…

BHXH đã tạo ra một lưới an toàn xã hội cho mọi tầng lớp dân cư
trước các biến cố, rủi ro góp phần ổn định và công bằng xã hội. Với
giác độ là một bộ phận của kinh tế bảo hiểm xã hội tạo điều kiện thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất khả năng lao động, hoặc bị mất việc lâu, thông qua việc lao
động và sử dụng quĩ BHXH do sự đóng góp các bên tham gia BHXH,
nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động gia đình
họ, đồng thời và góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Thực chất BHXH
là sự đền bù hậu quả của những rủi ro xã hội. Sự đền bù này được
thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quĩ tiền tệ tập trung
hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Như vậy
BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập xét trên phạm vi toàn
xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP được xã hội phân phối lại cho
những thành viên khi phát sinh nhu cầu như ốm đau, thất nghiệp…
II. Mối quan hệ giữa bảo hiểm xã hội với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở
Việt Nam
2.1.Tác động của BHXH tới tăng trưởng và phát triển kinh tế
-BHXH là "sản phẩm" của nền kinh tế thị trường. Do đó, nó thực sự
phát triển và phát huy tác dụng trong cơ chế của nền kinh tế thị
trường. Điều đó được minh chứng qua lịch sử phát triển BHXH ở các
nước có nền kinh tế thị trường ở trình độ cao. Cho đến nay, theo thông
báo của Tổ chức lao động quốc tế có khoảng 170 nước ký vào Công
ước Giơnevơ - công ước BHXH cho người lao động. Tuy mức độ


thực hiện ở các nước có khác nhau, nhưng đều thống nhất mục tiêu,
phương pháp tiến hành; đều nhất quán vai trò quan trọng của BHXH;
đều thống nhất nhận định tác động BHXH đến nền kinh tế và ngược
lại.
Nền kinh tế càng phát triển đời sống người dân càng cao thì nhu cầu

BHXH càng lớn và hoạt động BHXH càng mở rộng. BHXH có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và ngược lại. BHXH tác động
rất tích cực đến sự phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Điều đó thể hiện:
- BHXH góp phần bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho người lao động,
phục hồi năng lực làm việc và khẳ năng sáng tạo của sức lao động.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng
cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi
khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử
dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu
nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm
bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn
bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao
động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức
năng này biểu hiện như một đòn bảy kinh tế kích thích người lao động
nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao
động xã hội, năng suất lao động xã hội, làm tăng tổng giá trị sản xuất
(GO), tổng thu nhập quốc gia (GNI), tổng sản phẩm trong nước
(GDP) cho nền kinh tế . Trên cơ sở đó tăng thu nhập cho người lao
động nhằm ổn định đời sống của bản thân và gia đình họ. Các chế độ


BHXH đồng bộ với cơ cấu đa dạng hoá hợp đồng lao động sẽ tạo
thêm thuận lợi cho người lao động có khả năng di chuyển sức lao
động khi cần thiết nhằm duy trì và phát triển công ăn việc làm, hạn
chế thất nghiệp và làm cho nền kinh tế phát triển.Đồng thời với qui
chế quyền và nghĩa vụ trong hoat động BHXH, thị trường lao động sẽ
được tự do hóa hơn, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, khuyến khchs các
doanh nghiệp phát triển sản xuất.

- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao
động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại,
khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động v.v... Thông
qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc
biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được
bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với
nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải
chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về
đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản
xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn
hơn.
- BHXH tăng tiết kiệm và đầu tư: Do sự đóng góp của những người
tham gia , quĩ BHXH là 1 nguồn tiết kiệm nội bộ rất lớn. Đối với
những nước có số dân ở độ tuổi lao động trẻ như nước ta thì khoản thu
cho BHXH rất lớn nhưng chưa phải chi nhiều .BHXH đã tạo ra nguồn
vốn đáng kể để đầu tư cho các chương trình phát triển và tăng trưởng
kinh tế xã hội. Thông qua thị trường tài chính, phần quỹ bảo hiểm xã
hội chưa sửa dụng đến sẽ được đầu tư vào sản xuất kinh doanh để sinh


lợi. Thường là đầu tư gắn hạn và dài hạn vào các lĩnh vực như: xây
dựng cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, nhà ở ít tiền v.v…cho phù hợp với
phương hướng, chích sách phân phối lại thu nhập. Quỹ BHXH còn là
một nguồn tiết kiệm quan trọng góp phần thực hiện chính sách tiết
kiệm của quốc gia. Đối tượng BHXH càng được mở rộng thì tác dụng
này của BHXH càng lớn.
- BHXH đóng vai trò là người bảo vệ, che chắn cho người sử dụng lao
động, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh , dịch vụ
được ổn định liên tục và phát triển. Bởi vì, người sử dụng lao động

khi đóng BHXH cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại
kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn trong cùng một thời gian khi
người lao động của mình gặp rủi ro từ đó giúp họ giảm phần tiền
lương, tiền công trong thời gian người lao động gặp rủi ro phải nghỉ
việc. Đồng thời BHXH g óp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp và
kiến tạo sự gần gũi trong quan hệ "chủ - thợ" làm cho người lao động
yên tâm và có tránh nhiệm hơn trong sản xuất . Đồng thời BHXH còn
giúp người lao động ổn định cuộc sống, duy trì và táo tạo sức lao
động, góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội
- Trong cơ chế thị trường, khía cạnh kinh tế của BHXH có tác động
rất lớn đến thị trường lao động. Bởi vì, xét về bản chất BHXH cũng là
một quan hệ lao động trong thị trường lao động và có quan hệ chặt
chẽ với các chính sách về lao động, tiền lương v.v… nếu chính sách
BHXH được ban hành và thực hiện nghiêm túc thì các chính sách về
lao động, tiền lương sẽ được thực hiện đầy đủ và có tác dụng đến
nhiều vấn đề trong nền kinh tế , đặc biệt là góp phần ổn định và tăng
trưởng kinh tế .


2.2. Tác động của tăng trưởng kinh tế đến BHXH:
- Trước hết, một nước có mức tăng trưởng kinh tế cao cũng có
nghĩa là tăng GNI và GDP trên cơ sở phát triển sản xuất sản phẩm
vật chất và sản phẩm dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao
thì thu nhập bình quân đầu người càng lớn và như vậy thu nhập
của người lao động cũng tăng. Từ đó, khả năng đóng góp vào quỹ
BHXH ngày càng lớn. Bởi vì, sự đóng góp của người lao động và
người sử dụng lao động phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập. Mặt
khác, tăng trưởng kinh tế làm cho ngân sách Nhà nước dồi dào, từ
đó sự hỗ trợ của Nhà nước cho quỹ BHXH cũng ngày một tăng.
- Tăng trưởng kinh tế đạt đến tiềm năng thì việc làm của người lao

động đạt mức thoả mãn cao nhất. Song, theo kinh nghiệm của các
nước, kinh tế phát triển theo chu kỳ có lúc hưng thịnh, có lúc suy
thoái. Khi nền kinh tế bị suy thoái thì thất nghiệp sẽ tăng nhanh từ
đó làm cho mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cũng ngày một tăng.
Chế độ trợ cấp thất nghiệp không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn
có ý nghĩa về an toàn xã hội. Nó giúp cho người thất nghiệp giảm
bớt khó khăn, yên tâm sản xuất, làm giảm các tệ nạn xã hội và tình
trạng đói nghèo. Thực tế cho thấy, khi nền kinh tế tăng trưởng thì
tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống và ngược lại. Điều này đặt ra nhiều
vấn đề cần phải giải quyết trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với thất nghiệp và BHXH.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập được nâng cao, làm cho
mức sống của người dân tăng lên, do đó thể lực của người lao động


cũng khá hơn dẫn tới tuổi thọ tăng. Điều này làm cho chi phí y tế
giảm từ đó sẽ tiết kiệm được các khoản chi từ quỹ BHXH.
- Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy khi nền kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao thì tốc độ tăng dân số lại giảm xuống. Do đó
phần chi trả cho chế độ trợ cấp thai sản của lao động nữ trong quỹ
BHXH cũng giảm xuống. Bên cạnh đó quỹ BHXH luôn chịu ảnh
hưởng của yếu tố lạm phát. Nếu nền kinh tế tăng trưởng sẽ hạn chế
được lạm phát do đó quỹ BHXH sẽ được bảo toàn.
- Nền kinh tế tăng trưởng thì người lao động nói riêng và dân
chúng nói chung càng có khả năng và điều kiện để nâng cao trình
độ dân trí. Điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
BHXH. Bởi vì khi trình độ dân trí được nâng cao thì nhận thức của
người dân về BHXH sẽ đầy đủ và đúng đắn hơn, họ sẽ tự nguyện
và hăng hái tham gia BHXH. Từ sự phân tích trên có thể khẳng
định rằng tăng trưởng kinh tế có tác động rất lớn và trên nhiều góc

độ khác nhau tới hoạt động BHX
III. Thành quả đạt được của đầu tư quĩ bảo hiểm xã hội
Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH là một đặc trưng cơ
bản của hoạt động BHXH trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động đầu
tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH là một
yêu cầu nhất thiết khách quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và
phát huy tác dụng của chính sách BHXH trong việc bảo đảm an sinh
xã hội và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững.Hoạt động đầu tư
trước hết giúp mang lại lợi ích cho chính quỹ BHXH. Thông qua hoạt
động đầu tư quỹ BHXH vào các lĩnh vực có khả năng sinh lời của nền
kinh tế, nguồn tài chính nhàn rỗi từ quỹ BHXH có thể tạo ra một
nguồn tài chính tương đối lớn bổ sung vào quỹ, từ đó tăng quy mô và


sức mạnh cho quỹ BHXH. Mặt khác, quy mô số người tham gia
BHXH ngày càng tăng cũng tạo nên sự tăng trưởng cho quỹ, đảm bảo
khả năng chi trả thường xuyên cho các đối tượng hưởng chế độ
BHXH.
Đối với nền kinh tế, nguồn vốn lớn có được từ tín dụng quỹ BHXH sẽ
hỗ trợ quan trọng để đầu tư phát triển một số dự án phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu vốn cho
đầu tư không ngừng tăng nhanh thì bên cạnh việc thu hút các nguồn
vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, việc cung ứng vốn từ nền kinh
tế thông qua các tụ điểm tài chính như quỹ BHXH có ý nghĩa rất quan
trọng, nhất là tạo ra sự tự chủ và thế chủ động trong việc phát triển
kinh tế đất nước.
Mặt khác, thông thường Nhà nước phải hỗ trợ một phần ngân sách
Nhà nước để cân bằng thu - chi quỹ BHXH. Quỹ BHXH đầu tư hiệu
quả, đem lại một nguồn tài chính không nhỏ sẽ giúp ngân sách nhà
nước giảm gánh nặng bù đắp cho quỹ BHXH.

Hiện nay, quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh vực như: mua
các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu
công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mua kỳ phiếu ngân hàng; mua cổ
phiếu; cho các công ty vay vốn; trực tiếp liên doanh hoặc uỷ thác kinh
doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu chính phủ
và gửi ngân hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng.
Tuy nhiên, ở những nước có hệ thống BHXH trưởng thành và hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, Nhà nước một mặt để hệ thống BHXH tự
chủ về tài chính, mặt khác luôn hậu thuẫn để BHXH dám đầu tư vào
lĩnh vực có thể ít lãi hơn nhưng có mục tiêu xã hội quan trọng (như
cho vay xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, các công trình
giáo dục hay chăm sóc sức khoẻ). Một số nước lập ngân hàng riêng
trong hệ thống BHXH để đầu tư vào các xí nghiệp với mục tiêu chính
là tạo công ăn việc làm...
Đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH:


Tính đến ngày 31/12/2008, số kết dư quỹ BHXH ( chủ yếu là quỹ bảo
hiểm hưu trí, tử tuất ) là 83.973 tỷ đồng, trong đó có ngân sách Nhà
nước vay 8.500 tỷ , mua trái phiếu chính phủ : 22.500 tỷ đồng, mua
công trái giáo dục: 200 tỷ, cho các ngân hang thương mại vay: 52.773
tỷ và số lãi thu được trong năm là 8.978 tỷ đồng, tỷ lệ lãi bình quân là
11,76%. Nếu trừ đi chi phí quản lý của BHXH Việt Nam năm 2008 sử
dụng hết 1.076 tỷ đồng thì tiền lãi chỉ còn 7.902 tỷ đồng , tỷ lệ lãi suất
bình quân còn là 10,35%.
Tính đến ngày 31/12/2009, số kết dư quỹ là 95.163 tỷ đồng. Các hình
thức đầu tư được phân bổ trong năm 2009 như sau: cho ngân sách nhà
nước vay 21,02%; mua trái phiếu chính phủ 29,95%; mua công trái
giáo dục 0,21% và cho các ngân hàng thương mại cảu nhà nước vay
48,82%. Số lãi thu được trong năm là 8.408 tỷ đồng, tỷ lệ lãi bình

quân trong năm là 9.1%. Nếu trừ đi chí phí quản lý của BHXH Việt
Nam, năm 2009 sử dụng hết 1.234 tỷ đồng thì số tiền lãi chỉ còn 7.174
tỷ đồng, tỷ lệ lãi bình quân còn là 7,76%. Tính đến cuối năm 2009,
tồn quỹ BHXH trên 106 nghìn tỷ đồng.
Danh mục đầu tư quĩ BHXH
Nguồn Bảo hiểm xã hội

Danh mục đầu tư

Số dư
đến hết
ngày

Năm 2009
Đầu tư
mới

Thu hồi

Cho ngân sách NNvay 8.500

11500

20000

Mua trái phiếu chính
phủ

6000


28500

22.500

Mua công trái giáodục 200
Các NHTM của Nhà
Nước

52773

200
7880

14190

46463


Tổng cộng

83973

25380

14190

95163





×