Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thuyết trình bảo hiểm thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.41 KB, 24 trang )

Nhóm 3 lớp kinh tế bảo hiểm 6
Thành viên:
Phạm Đức Tài
Đào Nhất Anh
Trần Quang Thái Bảo
Lê Thị Việt Anh
Nguyễn Đức Chuyên
Phạm Hoàng Hà
Nguyễn Mai Dương
Lô Văn Hùng

Chương II – BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI
I.

Khái niệm và nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại

Bảo hiểm thương mại (BHTM)- còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm
kinh doanh – được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý
các rủi ro của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Manh nha của hoạt động
này có từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, từ thưở con người biết săn bắn
tìm kiếm thức ăn, đồ mặc, rồi tích trữ phòng không kiếm được hay khi có chiến
tranh… Khi xã hội phát triển hơn, nhu cầu được đảm bảo an toàn cũng lớn hơn.
Với những tác dụng vô cùng thiết thực đối với các cá nhân, các tổ chức và toàn
cộng đồng, hoạt động BHTM ngày càng khẳng định sự có mặt kông thể thiếu được
trong cuộc sống của con người.
Cho đến nay, câu hỏi “bảo hiểm thương mại là gì?” có thể được trả lời theo nhiều
các tiếp cận khác nhau. Nếu xét từ góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một thỏa thuận,
qua đó bên tham gia bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản
tiền gọi là phí bảo hiểm; ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ chi trả
hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra gây tổn thất”.
Nhìn nhận bảo hiểm dưới góc độ quản lý rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn của


Mỹ cho rằng: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh
nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, công ty
đó sẽ chi trả bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo
hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm” (AIG).
Dưới góc độ kỹ thuật bảo hiểm, có thể hiểu BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất
của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quỹ chung bằng
tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người có cùng khả năng gặp rủi ro đó
thông qua hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như
vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên
không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia
bảo hiểm. BHTM, ở một phương diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ
kinh tế giữa các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp


bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định
đời sống và khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM đáp ứng cho các nhu cầu an
toàn của con người và đồng thời nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Bởi
vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản
sau:
I.1.

Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít

Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi
có khả năng sẽ phải trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường
cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản tiền bồi
thường hay chi trả thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí mà các
doanh nghiệp bảo hiểm nhận được. Để làm được điều này, hoạt động BHTM

phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không
thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào, theo đó hậu quả cảu rủi
ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy
động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho
các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo quy luật số lớn.
Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo hiểm
tích tụ được càng lớn, việc hci trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ
cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được
triển khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm đó.
1.2 Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm
Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ
chức có nhu cầu. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm
đều chấp nhận các yêu cẩu bảo đảm. Hiếm có doanh nghiệp bảo hiểm nào đồng ý thỏa
thuận bồi thường cho các trường hợp tổn thất gây ra do sự cố ý của người được bảo
hiểm. Cũng vậy, doanh nghiệp bảo hiểm thật khó chấp nhận bảo đảm cho những thiệt
hại vật chất của một chiếc xe ô tô ở trong tình trạng không an toàn về kỹ thuật hay
không được phép lưu hành.
Đây là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc
gần như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mòn vật chất tự nhiên, hao
hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử,… Nói
các khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ, không
lường trước được. Với rủi ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố ngẫu nhiên


được xem xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro
có thể được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý. Tính đồng nhất
của rủi ro là một yếu tố khác giúp doanh nghiệp bảo hiểm có thể xem xét rủi ro có thể

được bảo hiểm hay không. Trên cơ sở tính đồng nhất của rủi ro, doanh nghiệp bảo
hiểm có thể tính toán được phí bảo hiểm một cách chính xác và khoa học dựa vào các
phương pháp toán học.
Để đảm bảo nguyên tắc này trong đơn vị bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ
tùy thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được nhận bảo
hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu cần
thiết) và áp dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra lớn hơn
thì mức phí phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ (BHNT), những
người không ở cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do đó phải đóng mức
phí khác nhau. Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra đối với người tham gia bảo hiểm là
phải trung thực tuyệt đối khi khai báo rủi ro để doanh nghiệp bảo hiểm có thể chấp
nhận bảo hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế nào.
Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm
phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc
chắn sẽ dẫn đến phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các doanh nghiệp bảo
hiểm có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo hiểm đầy đủ
để bảo đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các doanh
nghiệp mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi
nguyên tắc này được áp dụng.
1.3
Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro
Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà
bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro
xảy ra. Mặc dù quỹ bảo hiểm là một quỹ tài chính lớn, được lập bởi sự đóng góp của
nhiều người theo nguyên tắc số đông và như vậy, với tư cách là người huy động và
quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có .khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo
hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn đảm
bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ đối với những trường hợp quĩ bảo
hiểm huy động được còn chưa nhiều (doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập hoặc
doanh nghiệp bảo hiểm có qui mô nhỏ) trong khi đó giá trị bảo hiểm (GTBH) lại rất

lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.
Một kinh nghiệp trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi ro quá
lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kị là
phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các doanh
nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi
ro được sử dụng: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà
bảo hiểm cùng đảm nhận cho một rủi ro lớn thì tái bảo hiểm lại là phương thức trong
đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần
rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác


1.4. Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối
Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu để
soạn thảo một HĐBH đến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch
kinh doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm).
Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải
có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng đảm bảo
cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản phẩm dịch
vụ nên khi mua, người thma gia bảo hiểm không thể cầm nắm nó trong tay như các
sản phẩm vật chất khác để đánh giá chất lượng và giá cả… mà chỉ có thể có được
một hợp đồng hứa sẽ bảo đảm. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có bảo đảm hay
không, giá cả (phí bảo hiểm) có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo
hiểm có đảm bảo đầy đủ, công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào sự trung thực
của phí doanh nghiệp bảo hiểm.
Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo hiểm
là phỉa trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp doanh nghiệp
bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận.
Thêm vào đó, các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thong báo, khai
báo các thiệt hại để đòi bồi thường (khai báo lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa ngày
tháng của HĐBH…) sẽ được xử lý theo pháp luật.

1.5 Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm
Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị
tổn thất nếu đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác người tham gia bảo hiểm
phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận.
Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác,
hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc kể trên, trong mỗi một loại hình bảo hiểm lại có them
những nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại như: nguyên tắc bồi
thường, nguyên tắc khoán,…

II – Phân loại bảo hiểm thương mại
Tùy theo 3 tiêu thức sau để ta phân loại bảo hiểm thương mại
1. Theo phương thức quản lý
• Bảo hiểm tự nguyện
 Phần lớn các sản phẩm BHTM đều là tự nguyện
 Khách hàng tham gia mua bảo hiểm tùy nhu cầu


 Doanh nghiệp bảo hiểm đáp ứng tùy thuộc khả năng tài chính và
trình độ kĩ thuật nghiệp vụ của công ty đó
• Bảo hiểm bắt buộc
Các sản phẩm bảo hiểm mà luật pháp quy định về điều kiện bảo hiểm, mức
phí, số tiền tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các doanh
nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện
Thường gắn với rủi ro gây hậu quả ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội
2. Theo kĩ thuật bảo hiểm
• Bảo hiểm theo kĩ thuật phân chia
Các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là 1 năm) bảo đảm cho rủi ro có tính
chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người
• Bảo hiểm theo kĩ thuật tổn tích

Điển hình: bảo hiểm nhân thọ
Thời hạn dài, quỹ dc tích tụ qua nhiều năm mới dc dùng để chi trả
Bảo đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối
tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người
3. Theo đối tượng được bảo hiểm
• Bảo hiểm tài sản
Đối tượng: tài sản (cố định hoặc lưu động) của người được bảo hiểm
a. Nguyên tắc bồi thường
Số tiền bồi thường mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp
không được vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm
b. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp
Khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của
người được bảo hiểm thì sau khi DNBH trả tiền bồi thường, DNBH sẽ được
thay quyền của người được bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của
người thứ ba có lỗi
Ngoại lệ: người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc con cái, vợ chồng, cha mẹ... của
người được bảo hiểm
c. Bảo hiểm trùng
Nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo
hiểm cho cùng một rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, những
HDBH này có điều kiện giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau và tổng
STBH từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm thì
đó gọi là bảo hiểm trùng
Thông thường bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo
hiểm nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm. Do đó về nguyên tắc, DNBH có thể
hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện bảo hiểm trùng có gian lận


Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì trách nhiệm mỗi
công ty đối với tổn thất sẽ được chia theo tỉ lệ trách nhiệm họ đảm nhận. Cụ

thể:
STBTcủa HDBH A = giá trị thiệt hại thực tế x STBHcủa HDBH A / ∑STBH
d. Các chế độ bồi thường bảo hiểm
a. Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường
Trong chế độ này, nếu rủi ro thiệt hại tài sản được bảo hiểm xảy ra:
i. Dưới mức miễn thường: DNBH không chi trả
ii. Trên mức miễn thường: DNBH chi trả
1. Không khấu trừ: STBT = giá trị thiệt hại
2. Có khấu trừ: STBT = giá trị thiệt hại – mức miễn thường
b. Chế độ bảo hiểm theo tỉ lệ
Trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế x STBH / GTBH
Trong các trường hợp khai báo không chính xác rủi ro thì bên bảo
hiểm thường áp dụng tỷ lệ “số phí bảo hiểm đã nộp / số phí bảo
hiểm lẽ ra phải nộp” để thanh toán (trường hợp chấp nhận bồi
thường)
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế x phí BH đã nộp / phí BH lẽ ra phải nộp
c. Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên
DNBH trả STBH theo một giới hạn đã thỏa thuận. Các tổn thất
của người được bảo hiểm nằm trong giới hạn này gọi là tổn thất
thuộc rủi ro đầu tiên (tổn thất đầu tiên). Tổn thất vượt quá giới hạn
thỏa thuận có thể sẽ được bảo hiểm bằng một đơn bảo hiểm vượt
quá
Áp dụng trong bảo hiểm trộm cắp
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Đối tượng: trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ
ba theo luật định
Ví dụ: BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động, bảo hiểm
trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm cộng đồng...
Người được bảo hiểm: người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm

(thường là người tham gia bảo hiểm)
Người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm: những người thứ 3 khác mà
người được bảo hiểm có trách nhiệm phải thực hiện với. người thứ 3 này có
tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi
thường từ DNBH
Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi giải quyết bồi thường bảo hiểm
• Bảo hiểm con người


Đối tượng: tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khỏe con người hoặc các sự
kiện liên quan đến cuộc sống và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người
Nguyên tắc “khoán”: với ý nghĩa là tính mạng và tình trạng sức khỏe của
con người là vô giá, không thể bồi thường khi có thiệt hại xảy ra, DNBH sẽ
thanh toán chi trả bảo hiểm (trong trường hợp xảy ra rủi ro) khoản tiền được
thỏa thuận trong hợp đồng kí kết, số tiền chỉ mang tính trợ giúp tài chính
cho người được bảo hiểm và thân nhân hoặc hoàn lại khoản tiền tích lũy
được của người được bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ)
Đối tượng trong bảo hiểm con người có thể được đồng thời được bảo hiểm
bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm khác nhau, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc
trả tiền bảo hiểm của từng hợp đồng độc lập nhau
Không có sự thế quyền hợp pháp của người bảo hiểm, điều đó có nghĩa
DNBH sau khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép thế quyền
người tham gia bao hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu
nại người thứ 3 truy đòi số tiền bồi thường trách nhiệm tương ứng
• Phân loại chi tiết hơn còn có bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng hải,
bảo hiểm trách nhiệm pháp lí, bảo hiểm xe cơ giới...

III. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm thương mại
3.1 Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) là một văn bản pháp lý qua đó doanh nghiệp bảo

hiểm cam kết sẽ chi trả hoặc bồi thường cho bên được bảo hiểm khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra gây tổn thất, ngược lại bên mua bảo hiểm cam kết trả khoản phí phù hợp
với mức trách nhiệm và rủi ro mà doanh nghiệp bảo hiểm đã nhận.
Như vậy, trong HĐBH sẽ có hai bên: bên bảo hiểm, chính là các doanh nghiệp
bảo hiểm, sẽ được nhận phí bảo hiểm để thiết lập quỹ tài chính và chịu trách nhiệm
chi trả hoặc bồi thường bảo hiểm; bên mua bảo hiểm, là người tham gia bảo hiểm, sẽ
chịu trách nhiệm về việc ký kết và nộp phí bảo hiểm. Nguời tham gia bảo hiểm phải
là người có đủ tư cách pháp lý khi tham gia bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm là các sự kiện
khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định mà khi sự kiện đó xảy ra
thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm. Các HĐBH có thể được ký kết một cách trực tiếp
giữa người tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm hoặc ký kết gián tiếp thông
qua môi giới, đại lý.


HĐBH tài sản là văn bản thỏa thận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm nhằm đảm bảo cho tài sản của người được bảo hiểm bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Thông thường trong
HĐBH tài sản, người tham gia bảo hiểm chính là người được bảo hiểm. Điều này phù
hợp với nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm.
HĐBH trách nhiệm dân sự là văn bản thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm nhằm bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự có thể phát
sinh của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo qui định của pháp luật.
Tương tự HĐBH tài sản, người tham gia bảo hiểm trong HĐBH trách nhiệm dân sự
cũng thường là người được bảo hiểm.
HĐBH con nguời là văn bản thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người
tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo cho tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khỏe của
người được bảo hiểm và tai nạn đó có thể xảy ra đối với người được bảo hiểm. Theo
Luật Kinh doanh bảo hiểm ban hành ngày 22 tháng 2 năm 2000, trong HĐBH con
người, người tham gia chỉ có thể mua bảo hiểm cho: (a) chính bản thân họ; (b) cho vợ

(chồng), con, cha, mẹ; (c) cho anh, chị, em ruột, người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp
dưỡng; (d) hoặc cho những người mà người tham gia bảo hiểm có quyền lợi có thể
được bảo hiểm.
3.2 Chủ thể và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng bảo hiểm
3.2.1 Các chủ thể có liên quan
Trong hợp đồng BHTM có các chủ thể liên quan:
Doanh nghiệp bảo hiểm: là tổ chức hoặc cá nhân có đầy đủ tư cách pháp nhân
được Nhà Nước cho phép tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được thu phí để
lập ra quĩ bảo hiểm và chịu trách nhiệm bồi thường xảy ra hay chi trả cho bên được
bảo hiệm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Người tham gia bảo hiểm: Là tổ chức hoặc cá nhân ký kết HĐBH với doanh
nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm.
Như đã đề cập trong nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm, người tham
gia bảo hiểm phải là người có quyền lợi hợp pháp khi đối tượng được bảo hiểm gặp
rủi ro và bị tổn thất. Ngoài trách nhiệm đóng phí bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm
còn có trách nhiệm khai báo chính xác rủi ro khi ký kết HĐBH đồng thời phải nhanh
chóng kịp thời thông báo thiệt hại khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.


Người được bảo hiểm: Là tổ chức hoặc cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự,
tính mạng hoặc trình trạng sức khỏe được bảo hiểm theo HĐBH.
Người thụ hưởng: Là tổ chức hoặc cá nhân được người tham gia bảo hiểm chỉ
định trong HĐBH sẽ nhận sự trợ giúp và bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm.
Người thụ hưởng có thể được chỉ định đích danh hoặc không đích danh. Nếu
được chỉ định đích danh thì trong HĐBH sẽ nêu rõ tên người được hưởng và mối
quan hệ với người được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Ví dụ: HĐBH này được ký kết để cho con trai là Nguyễn Văn X… được hưởng
STBH nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Các trường hợp người thụ hưởng được chỉ định đích danh thường thấy trong
các BHNT. Còn trong trường hợp không được chỉ định đích danh, người thụ hưởng

vẫn có thể xác định được qua các điều khoản của HĐBH. Chẳng hạn, đó là các nạn
nhân trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, là người thừa kế theo luật trong BHNT.
Việc xác định các chủ thể trong một HĐBH là cần thiết để hiểu rõ được trách
nhiệm và quyền lợi của các chủ thể này. Trong đa số các trường hợp, người tham gia
bảo hiểm hoặc người được hưởng bảo hiểm là một. Trong một số trường hợp khác,
người được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm là một, còn người thụ hưởng lại là
một chủ thể khác. Còn có những trường hợp, các chủ thể này hoàn toàn độc lập với
nhau.
3.2.2. Trách nhiệm các bên trong hợp đồng bảo hiểm
Các bên trong HĐBH có một số trách nhiệm ràng buộc chủ yếu sau:
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm trách nhiệm chính là giải quyết bồi thường chi
trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra gây tổn thất. việc thanh toán phải đảm bảo nhanh
chóng kịp thời và hợp lý. Khi soạn thảo hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm
bảo tính trung thực để bảo vệ quyền lợi cho cả 2 bên. Khi giao kết hợp đồng, daonh
nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung thực, chính xác các thông tin
liên quan đến HĐBH, đồng thời phải giải thích các thông tin liên quan đến HĐBH,
đồng thời phải giải thích cá điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm.
Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm còn có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin mà bên
mua bảo hiểm đã cung cấp. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp bảo
hiểm phải có trách nhiệm đề phòng hạn chế các tổn thất có thể xảy ra. Nếu có bất kỳ


sự thay đổi nào ảnh hưởng đến việc thực hiện HĐBH và quyền lợi của bên mua bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo cho bên mua biết
Bên tham gia bảo hiểm, trước hết, với tư cách là người đi mua sản phẩm bảo
hiểm nên phải trả phí đầy đủ, đúng kỳ hạn. Khi khai báo rủi ro, người tham gia bảo
hiểm phải trả lời một cách trung thực, chính xác các câu hỏi có liên quan đến đối
tượng được bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã yêu cầu. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, nếu có những thay đổi nào liên quan đến đối tượng được bảo hiểm, ví
dụ như gia tăng giá trị, gia tăng rủi ro, phát hiện bệnh truyền nhiễm,… mà có thể ảnh

hưởng đến xác suất xảy ra rủi ro hoặc công tác bồi thường thì người mua bảo hiểm
phải kịp thời thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để điều chỉnh sửa đổi. người tham
gia bảo hiểm phải có trách nhiệmh thực hiện các biện pháp cần thiết để đề phòng hạn
chế tổn thất. Nếu rủi ro được bảo hiểm xảy ra thì người tham gia bảo hiểm phải thông
báo kịp thời và chính xác để thanh toán bồi thường.
3.3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm được hiểu là giá trị của đối tượng được bảo hiểm. trong
BHTM có 3 nhóm đối tượng được bảo hiểm là tài sản, trách nhiệm dân sự, con người.
trách nhiệm dân sự là một khái niệm trừu tượng, chưa được xác định cụ thể khi ký
hợp đồng bảo hiểm, còn đối tượng được bảo hiểm là tính mạng, sức khỏe của con
người là vô giá, không được đánh giá thành tiền. Do vậy, khái niệm GTBH không
được sử dụng trong BHTNDS cũng như trong BHCN mà được xem xét trong BHTS
Như vậy, GTBH chính là giá trị của các tài sản được bảo hiểm và nó được lấy
làm căn cứ để xác định STBH và phí bảo hiểm. Ví dụ giá trị bảo hiểm trong một
HĐBH vật chất xe ô tô là giá trị của xe ô tô tính vào thời điểm nhận bảo hiểm, hoặc
GTBH là của ngôi nhà trong bảo hiểm hỏa hoạn,…
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong HĐBH thể hiện giới hạn
trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là, trong bất kỳ trường hợp
nào, số tiền bồi thường hay số tiền chi trả cao nhất của doanh nghiệp bảo hiểm cũng
chỉ bằng STBH
Trong BHTS, STBH được xác định theo 3 trường hợp
STBH < GTBH: được gọi là bảo hiểm dưới giá trị. Ví dụ, chủ một xe ô
tô chỉ tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giời cho phần thân vỏ xe, lúc này STBH được
xác định căn cứ vào phần thân vỏ xe nhỏ hơn giá trị của chiếc xe được bảo hiểm.


-

STBH = GTBH: được gọi là bảo hiểm ngang giá trị
STBH > GTBH: được gọi là bảo hiểm trên giá trị


Trên thực tế, hầu hết mọi trường hợp người tham gia bảo hiểm thường tham gia
dưới hoặc ngang giá trị. Còn trong trường hợp bảo hiểm trên giá trị thường chỉ xảy ra
khi có thỏa thuận trước giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, hay gặp
trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.
Đối với BHCN, STBH được xác định dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên và khả
năng tài chính của người tham gia bảo hiểm. Còn trong BHTNDS, STBH thường
được xác định dựa trên sự thỏa thuận.
3.4. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm (còn được gọi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm) là số tiền mà
người tham gia bảo hiểm phải trả cho công ty bảo hiểm để đổi lấy sự bảo đảm trước
các rủi ro chuyển sang cho công ty bảo hiểm.
Cơ cấu phí bảo hiểm gồm 2 phần:
P= f + d
Trong đó: P: phí bảo hiểm toàn bộ
f : phí thuần
d: phụ phí
Phí thuần (f) là khoản phí phải thu cho phép công ty bảo hiểm đảm bảo
chi trả, bồi thường cho các tổn thất được bảo hiểm có thể xảy ra. Khoản phí này
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số phí toàn bộ và được tính căn cứ một số yếu tố
sau:
+ Xác suất xảy ra rủi ro: khả năng xảy ra tổn thất phải bồi thường
+ Cường độ tổn thất: tính khốc liệt, mức độ trầm trọng của tổn thất
+ STBH
+ Thời hạn bảo hiểm
+ Lãi suất đầu tư: đặc biệt chi phối phí thuần trong bảo hiểm nhân thọ


Phụ phí (d) là khoản phí cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo
cho các khoản chi, trong hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm:

+ Chi hoa hồng
+ Chi quản lý hành chính
+ Chi đề phòng hạn chế tổn thật
+ Chi thuế nhà nước
Trên thực tế, mức phí bảo hiểm toàn bộ P thường được tính căn cứ vào STBH
và tỷ lệ phí theo công thức
Phí bảo hiểm (P) = tỷ lệ phí x số tiền bảo hiểm
Trong đó, tỷ lệ phí bảo hiểm có thể là tỷ lệ phần trăm hoặc tỷ lệ phần ngàn.
Nhìn chung, phí bảo hiểm được nộp ngay khi HĐBH được ký kết. trong trường hợp
phí bảo hiểm là một khoản tiền lớn thì người tham gia bảo hiểm có thể thỏa thuận với
doanh nghiệp bảo hiểm để đóng làm nhiều lần. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể thu
định kỳ 3 hoặc 6 tháng tùy theo thỏa thuận. phí bảo hiểm có thể thay đổi tăng, giảm
trong quá trình thực hiện HĐBH nếu có sự thay đổi tăng hoặc giảm mức độ rủi ro
được bảo hiểm.
3.5. Thời hạn bảo hiểm
Là thời gian HĐBH có hiệu lực, kể từ khi ký kết HĐBH và có bằng chứng
doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng
phí bảo hiểm (trừ trường hợp đã có thỏa thuận khác trong HĐBH) cho tới khi kết thúc
trách nhiệm bảo hiểm.
Thời hạn bảo hiểm của các HĐBH phi nhân thọ thường là 1 năm. Đối với một
số hợp đồng, có thể thời hạn bảo hiểm là kể từ lúc bắt đầu một chuyến hành trình cho
tới khi kết thúc chuyến hành trình đó (bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm
du lịch,…). Trong bảo hiểm nhân thọ, thời hạn hợp đồng bảo hiểm thường dài hơn 510 năm hoặc suốt đời theo sự thỏa thuận của 2 bên
Sau đây chúng tôi xin được chia sẻ với các bạn một số thông tin mà chúng tôi
tìm kiếm được:
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm


1.
Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được

bảo hiểm hoặc người thụ hưởng;
2.
Đối tượng bảo hiểm;
3.
Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;
4.
Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;
5.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;
6.
Thời hạn bảo hiểm;
7.
Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
8.
Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;
9.
Các quy định giải quyết tranh chấp;
10. Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
11. Ngoài những nội dung trên, hợp đồng bảo hiểm có thể có các nội dung
khác do các bên thỏa thuận.
Hình thức hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp
đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm hay đơn bảo hiểm
Về tính khó hiểu của HĐBH
1. Trên phương diện lý luận
° Hệ quả của các tính chất riêng có của hợp đồng bảo hiểm
- Thứ nhất, xuất phát từ tính may rủi (aléatoire/ aleatory) của hợp đồng bảo
hiểm. Việc giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm gắn liền với những rủi ro tức
những biến cố không chắc chắn. Chính vì vậy mà nhà bảo hiểm khi chấp bút hợp
đồng phải đưa ra nhiều tình huống giả định (nếu thế này thì.., nếu thế kia thì…, ngoại

trừ…. v..v…). Điều này làm cho câu văn sử dụng để diễn đạt luôn phức tạp, hơn nữa,
nhà bảo hiểm miêu tả các trường hợp giả định ở mức độ khái quát cao làm người đọc
phải cố gắng hình dung ra các trường hợp đó. Tất nhiên, vì trình độ rất khác nhAau và
lĩnh vực hoạt động rất khác nhau nên không phải ai nếu không nói là ít người có thể
có trình độ, hiểu biết chuyên môn đầy đủ để hiểu tường tận một cách thống nhất với
nhà bảo hiểm. Sự khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm, vì vậy, e rằng khó tránh khỏi;
- Thứ hai, xuất phát từ tính gia nhập của hợp đồng bảo hiểm, biểu hiện ở chỗ
hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu, mở sẵn và do nhà bảo hiểm soạn thảo (và
được Bộ tài chính chấp nhận) chứ không phải hình thành từ việc đàm phán trực tiếp


của hai bên như các hợp đồng mua bán khác. Điều này đòi hỏi người mua bảo hiểm
phải đọc thật kỹ để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trước khi ký kết và trong khi thực
hiện hợp đồng bảo hiểm. Nhưng, ngay cả khi đọc kỹ, nếu không có sự giúp đỡ, tư vấn
của người hoạt động chuyên ngành, chưa chắc người mua bảo hiểm có thể hiểu đúng
và thống nhất với người chấp bút các điều khoản.
2. Trên phương diện thực tiễn
- Một là, ngành bảo hiểm là một ngành du nhập vào nước ta và cũng chỉ mới
trong thời gian đầu. Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt, là hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ đều dựa theo mẫu của nước ngoài nên khi chuyển đổi ngôn ngữ, một số từ
ngữ còn rất mới mẻ và khó hiểu chưa được bổ sung vào từ điển tiếng Việt phổ thông
(trong khi đó vẫn chưa có từ điển thuật ngữ chuyên ngành bảo hiểm nhân thọ đầy đủ).
- Hai là, thị trường bảo hiểm nhân thọ nước ta chỉ thực sự phát triển trong
những năm gần đây. Nhận thức của người dân về bảo hiểm còn nhiều hạn chế mà việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm cho người dân một cách rộng rãi hình như
chưa được quan tâm đúng mức. Một khi chưa biết nhiều về bảo hiểm và pháp luật bảo
hiểm thì khi tiếp cận với hợp đồng bảo hiểm nói chung, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
nói riêng gặp khó khăn, khó hiểu là điều dễ hiểu.
- Ba là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn về hợp đồng bảo
hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng hiện nay chưa đủ và bất cập. Chính vì

thế, thật khó khăn cho việc tiếp cận tìm hiểu ngay cả đối với những người hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm chứ đừng nói đến từng người dân bình thường.
Để sản phẩm bảo hiểm dễ hiểu hơn, tiếp cận dân chúng dễ dàng hơn, một
số giải pháp có thể đặt ra như sau:
1. Về phía Nhà nước và Hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm:
- Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo
hiểm nói riêng.
- Việc thông tin và giáo dục về bảo hiểm cũng như pháp luật bảo hiểm cần
được tăng cường và phổ biến rộng rãi (các phương tiện thông tin đại chúng, biên sọan
và xuất bản các ấn phẩm có liên quan, biên sọan từ điển bảo hiểm…).


- Tạo điều kiện khuyến khích mạng lưới trung gian bảo hiểm phát triển dưới
hình thức môi giới bảo hiểm, đại lý độc lập để giúp người dân tiếp cận bảo hiểm một
các dễ dàng và bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm.
2. Về phía các nhà bảo hiểm:
- Tăng cường đào tạo chuyên môn cho các cán bộ – nhân viên;
Việc chấp bút hợp đồng bảo hiểm phải cố gắng làm sao cho phù hợp với đặc
điểm ngôn ngữ của nước ta, đơn giản đến mức có thể có nhưng không ảnh hưởng đến
những nội dung quan trọng của hợp đồng bảo hiểm.
- Tăng cường hệ thống đại lý bảo hiểm về trình độ lẫn đạo đức nghề nghiệp để
phục vụ tốt và tận tâm cho khách hàng bảo hiểm.
3. Về phía người mua bảo hiểm:
Chủ động tiếp cận và tự nâng cao trình độ về mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
bảo hiểm. Phải thấy được rằng hợp đồng bảo hiểm khó hiểu bởi vì tính chất vốn có
của nó, muốn hiểu được thì bản thân phải tự hoàn thiện, khắc phục điểm yếu của
mình trong mối quan hệ với nhà bảo hiểm trên hợp đồng bảo hiểm. Đành rằng, khi thị
trường bảo hiểm phát triển, mối quan hệ giữa người mua bảo hiểm và nhà bảo hiểm là
qua trung gian (môi giới, đại lý), nhưng kiến thức cơ bản về bảo hiểm và pháp luật
bảo hiểm sẽ giúp người mua tự bảo vệ quyền lợi của mình tốt nhất và với chi phí thấp

nhất
IV – TÁI BẢO HIỂM TRONG THƯƠNG MẠI
I. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÁI BẢO HIỂM
1. Bản chất của tái bảo hiểm
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế. Nó bao gồm các quá trình phân phối lại nhằm đáp
ứng nhu cầu đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc thành lập mang tính chất
tập thể một quỹ dự trữ tài chính thông qua sự vận dụng các quy luật thống kê và
nguyên tắc cân đối cũng như việc phân phối mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để đáp
ứng những nhu cầu có thể dự đoán được trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố
bất ngờ gây thiệt hại hay xảy ra.
Phân tích sâu hơn ta thấy khái niệm bảo hiểm chứa đựng hai yếu tố cơ bản sau:
- Tính tập thể của việc thành lập quỹ dự trữ, có nghĩa là mỗi thành viên tham gia bảo
hiểm đều phải đóng góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm). Phí này được tính
dựa trên quy luật thống kê (bao gồm thống kê tổn thất và mức độ trung bình của các


tổn thất, thống kê các đơn vị rủi ro) và nguyên tắc cân đối (có nghĩa là tổng số phí thu
phải bằng tổng số tiền chi trả bồi thường).
- Tính riêng rẽ của việc phân phối quỹ dự trữ, có nghĩa là chỉ phân phối quỹ cho
những thành viên khi có rủi ro bất ngờ gây thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra.
Những rủi ro bất ngờ này về tổng thể phải dự đoán được và hay xảy ra.
Trên đây cũng là những yếu tố cơ bản cần phải chú ý khi tiến hành việc lập, quản lý
và phân phối quỹ tiền tệ thông qua hình thức bảo hiểm. Do có đặc thù trên nên bảo
hiểm có sự đóng góp nhất định vào việc đảm bảo tính liên tục, sự ổn định và hiệu quả
của quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng xã hội. Dựa theo các rủi ro được bảo
hiểm, các ngành kinh tế khác nhau và các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia
thành nhiều loại và được tổ chức thành một hệ thống độc lập của nền kinh tế quốc dân
(ở nhiều nước nó còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong những loại hình
đó là tái bảo hiểm.
Đối với các nước có nền kinh tế tập trung như Việt Nam, tái bảo hiểm là một lĩnh vực

đặc biệt của hệ thống bảo hiểm nhà nước và đồng thời cũng là một bộ phận của ngành
kinh tế đối ngoại mà chủ yếu là các quan hệ tài chính đối ngoại. Về khái niệm, tái bảo
hiểm là một hình thức bảo hiểm lại những rủi ro đã được bảo hiểm khác nhau (công ty
tái bảo hiểm). Nói cách khác, tái bảo hiểm là bảo hiểm cho người bảo hiểm. Cũng như
đối với các loại hình bảo hiểm khác, việc tiến hành nghiệp vụ tái bảo hiểm đòi hỏi
phải có các điều kiện sau:
- Số lượng rủi ro phải đủ lớn để quy luật số đông phát huy được tác dụng và qua đó
yếu tố ngẫu nhiên được loại trừ;
- Mức độ tổn thất có thể xảy ra từ các rủi ro được bảo hiểm không được phép chênh
lệch quá lớn, cũng như không được phép có nhiều tổn thất quá lớn xảy ra trong số hợp
đồng bảo hiểm (tình trạng này dẫn đến sự không đồng nhất trong hợp đồng bảo hiểm);
- Khả năng thường xuyên xảy ra tổn thất (Nếu không có điều kiện này thì không phát
sinh nhu cầu bảo hiểm);
Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các
công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể những công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ
tận dụng được một cách tối ưu các quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên, tái bảo hiểm
ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty
này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Ví dụ : Một công ty bảo hiểm A chỉ có khả năng thanh toán tiền bồi thường tối đa là 1
triệu US$, muốn bảo hiểm cho một chiếc tàu chở một khối lượng hàng hóa lớn trị giá
10 triệu US$. Nếu giả sử không có tái bảo hiểm thì công ty bảo hiểm A không thể ký
hợp đồng bảo hiểm với chủ tàu đó được, vì khi không may có tổn thất toàn bộ xảy ra
công ty bảo hiểm A sẽ bị phá sản. Nhưng do có hình thức tái bảo hiểm nên công ty
bảo hiểm A vẫn ký được hợp đồng bảo hiểm với chủ tàu bảo hiểm cho con tàu trị giá
10 triệu US$. Sau khi ký hợp đồng, công ty bảo hiểm A dùng phương pháp tái bảo
hiểm phân tán bớt mức trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Trong trường hợp này,
công ty bảo hiểm A chỉ giữ lại 10%, còn 90% của 10 triệu US$ công ty bảo hiểm A
chuyển cho các công ty tái bảo hiểm khác, ví dụ như 50% cho công ty tái bảo hiểm B
và 40% cho công ty tái bảo hiểm C.
a. Ký hợp đồng:



- Trong tái bảo hiểm : công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm với người
tham gia và sau đó phân chia trách nhiệm cho các công ty tái bảo hiểm theo sự thỏa
thuận giữa họ và các công ty tái bảo hiểm.
b. Trả tiền bồi thường :
- Trong tái bảo hiểm : khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty bảo hiểm gốc đứng ra bồi
thường cho người được bảo hiểm, sau đó mới đòi lại công ty tái bảo hiểm. Ở đây
người được bảo hiểm không có quan hệ trực tiếp với công ty tái bảo hiểm.
Tùy theo góc độ quan sát của công ty bảo hiểm gốc hay công ty tái bảo hiểm mà
người ta phân chia tái bảo hiểm ra thành 2 phần riêng biệt. Đó là chuyển tái bảo hiểm
và nhận tái bảo hiểm:
- Chuyển tái bảo hiểm : có nghĩa là một công ty bảo hiểm gốc phân tán rủi ro cho các
công ty tái bảo hiểm. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm gốc phải chuyển phí
cho các công ty tái bảo hiểm và nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh
doanh của mình.
- Nhận tái bảo hiểm: là một công ty tái bảo hiểm nhận một phần rủi ro đã được bảo
hiểm từ một công ty bảo hiểm gốc khác. Trong trường hợp này, công ty tái bảo hiểm
được hưởng số phí từ công ty bảo hiểm gốc nhằm mục đích kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm.
Theo ví dụ đã nêu ở phần trên thì quá trình phân tán rủi ro của công ty bảo hiểm A
cho các công ty tái bảo hiểm B và C được gọi là tái bảo hiểm đi (nếu đứng ở góc độ
của công ty bảo hiểm A) nhưng được gọi là tái bảo hiểm nhận (nếu đứng ở góc độ của
các công ty tái bảo hiểm B và C) .
2. Chức năng của tái bảo hiểm:
Đối với các thể loại khác nhau của tái bảo hiểm chức năng của chúng cũng khác
nhau.
Chức năng của tái bảo hiểm đi chủ yếu nhằm đảm bảo sự kinh doanh cho công ty bảo
hiểm gốc. Sự đảm bảo này phụ thuộc vào các dạng hợp đồng tái bảo hiểm và được thể
hiện ở các mức độ khác nhau :

- Có thể giảm một cách tuyệt đối sự chênh lệch của kết quả kinh doanh trong lúc tỷ lệ
phí và chi bồi thường vẫn giữ nguyên.
- Có thể loại trừ được những tổn thất lớn
- Cũng có thể loại trừ được những tổn thất lớn và đồng thời cân bằng được chênh lệch
do có nhiều tổn thất xảy ra.
Tái bảo hiểm đi là một nghiệp vụ tốn kém, vì trong phí tái bảo hiểm có cả phần chi
quản lý và lợi nhuận cho công ty tái bảo hiểm. Nên một điều cần phải chú ý là làm
sao sử dụng được một cách tối ưu tái bảo hiểm để vừa ổn định được kinh doanh vừa
tiết kiệm được tài chính (ở các nước đồng tiền không chuyển đổi được thì điều này
càng quan trọng vì đó là ngoại tệ), có nghĩa là chỉ phân tán bớt rủi ro khi thật sự cần
thiết.
Ngược lại, tái bảo hiểm nhận có chức năng hoàn toàn khác với tái bảo hiểm đi. Ở đây
công ty bảo hiểm xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm nhằm ổn định kinh doanh cho các công
ty bảo hiểm khác. Vì vậy chức năng của tái bảo hiểm nhận giống với chức năng của
bảo hiểm đối ngoại là kinh doanh dịch vụ bảo hiểm nhằm tăng thu ngoại tệ.


Tổng kết lại ta có thể rút ra kết luận : đối với nhà nước thì tái bảo hiểm có 3 chức
năng chủ yếu :
- Đảm bảo tính ổn định và sự chắc chắn cho quá trình KD và SX của các đơn vị kinh
tế.
- Đảm bảo tính ổn định của ngân sách ngoại tệ nhà nước
- Tăng thu nhập quốc dân
Thông qua nhiệm vụ và chức năng trên ta thấy bảo hiểm có một ý nghĩa quan trọng
đối với việc phát triển kinh tế của một đất nước. Đảm bảo kinh doanh cho công ty bảo
hiểm có nghĩa là đảm bảo được sự kinh doanh và sản xuất của các đơn vị kinh tế, từ
đó tạo điều kiện tốt cho họ phát triển kinh doanh. Đảm bảo tính ổn định của ngân sách
ngoại tệ nhà nước có nghĩa là đảm bảo được kế hoạch chi tiêu ngoại tệ nhằm phát
triển sản xuất một cách đồng bộ. Tăng thêm thu nhập quốc dân tức là mở rộng được
kinh doanh và sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.

II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Như chúng ta đều biết, ngành bảo hiểm không phải là một khái niệm trùng lặp mà nó
mang tính chất giai cấp sâu sắc, vì một mặt bản chất và nhiệm vụ của nó được xác
định qua những trật tư xã hội khác nhau và quy luật kinh tế cơ bản của xã hội đó,
đồng thời mặt khác hoạt động của nó có tác dụng trở lại đối với sự phát triển của quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của xã hội đó. Vì vậy, sự phát triển của ngành bảo
hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng đều gắn chặt với sự phát triển của xã hội và
của nền sản xuất hàng hóa.
1. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
Vào giai đoạn cuối cùng của thời đại trung cổ, khi ngành bảo hiểm bắt đầu phát triển
và mở rộng ở châu Âu thì nhu cầu tái bảo hiểm đã xuất hiện và ngày càng tăng nhanh
cùng với sự phát triển của nền kinh tế TBCN. Trước tiên, nghiệp vụ tái bảo hiểm
được tiến hành cho loại hình bảo hiểm vận chuyển hàng hải, sau này dần dần được
mở rộng sang bảo hiểm cháy, BHNT.
Nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản giao ước
cổ nhất được biết đến với tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm đã được
ký kết tại thành phố Genés vào năm 1370 giữa một bên là hai thương nhân hoạt động
với tư cách là nhà tái bảo hiểm với một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Hợp
đồng tái bảo hiểm này được ký kết nhằm đảm bảo dịch vụ bảo hiểm cho các hàng hóa
gửi đi bằng đường biển từ Genés đến Bruges.
2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ 20:
Giữa thế kỷ thứ 19 nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những bước tiến
nhảy vọt do áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất. Quan hệ thương mại giữa các nước được mở rộng và phát triển mạnh. Do đó
hình thức hợp đồng tái bảo hiểm trao đổi qua lại giữa các nhà bảo hiểm như trên
không còn đáp ứng được nhu cầu. Điều kiện này dẫn đến sự tất yếu khách quan cho
việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm 1846 tại Kohn (Đức)
công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên đã ra đời lấy tên là công ty Tái bảo hiểm
Kohn. Tiếp theo đó là một số công ty tái bảo hiểm có tên tuổi trên thị trường thế giới



hiện nay cũng đã được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (Swiss Re) năm
1863, công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance co.Ltd) năm
1869, công ty tái bảo hiểm Munich năm 1880.
3. Giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai:
Giai đoạn này được đặc trưng qua các biến động lớn sau :
- Sự phục hồi nhanh chóng của các công ty tái bảo hiểm của CHLB Đức
- Sự thành lập các công ty bảo hiểm nhà nước ở các nước XHCN
- Trong những nước chậm phát triển hoặc mới giành được độc lập những tổ chức độc
quyền tái bảo hiểm, cục bộ hay toàn phần đã được thành lập nhằm bảo vệ lợi ích riêng
của họ (Achentina, Braxin, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập). Sự kiện này có tác dộng làm
thu hẹp khả năng hoạt động của các công ty tái bảo hiểm quốc tế ở những nước đó.
- Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và càng ngày có nhiều công ty bảo
hiểm tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm. Do đó cuộc cạnh tranh giữa họ ngày
càng gay gắt và dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Trong thời gian này, hình thức tái bảo hiểm không theo tỷ lệ là hình thức tối ưu nhất
đáp ứng được nhu cầu đảm bảo của các công ty bảo hiểm gốc và ngày càng được phổ
biến rộng rãi.
* BỔ SUNG
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
PHẦN A
CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
I.

KHÁI QUÁT CHUNG

Sự ra đời và quá trình lịch sử phát triển của tái bảo hiểm cho thấy vào thời gian ban
đầu không có sự phân biệt rõ ràng nào về các hình thức tái bảo hiểm, bởi vì trong
nhiều thế kỷ chỉ có một hình thức tái bảo hiểm duy nhất được biết và được ứng dụng
rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới. Đó là “tái bảo hiểm lựa chọn cho từng rủi

ro riêng biệt”.
Đầu thế kỷ 19, để đáp ứng nhu cầu của ngành bảo hiểm đang ngày càng phát triển
mạnh mẽ, ngành tái bảo hiểm bắt đầu phát triển nhanh chóng và lúc đó, các hình thức
tái bảo hiểm mới được tạo lập.
Dĩ nhiên trong hoạt động hàng ngày, hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (tái bảo
hiểm nhiệm ý) vẫn tồn tại, mặc dù hình thức này sau một thời gian tạm bị lu mờ, nay
lại xuất hiện thậm chí còn trở nên quan trọng hơn trước đây rất nhiều. Bên cạnh hình
thức này, thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới còn hình thành những hình
thức tái bảo hiểm bắt buộc (tái bảo hiểm tự động) và các hình thức này được phân
thành hai phương thức chủ yếu là:
1.Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm tỷ lệ) bao gồm:
- Dạng tái bảo hiểm phân ngạch (số thành) : Quota Share
- Dạng tái bảo hiểm mức thặng dư (mức dôi) : Surplus


2. Tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo hiểm tái bảo hiểm không tỷ lệ) bao
gồm:
- Dạng tái bảo hiểm thặng dư tổn thất (tái bảo hiểm vượt mức bồi thường) : Excess of
Loss;
- Dạng tái bảo hiểm vượt mức thặng dư tổn thất ấn định năm (tái bảo hiểm vượt mức
tỷ lệ bồi thường).
II.

VAI TRÒ KINH TẾ CỦA CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM

1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (Facultative Reins.)
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Danh từ “Tùy ý lựa chọn”
(Facultative) có liên quan đến ý niệm là trong loại tái bảo hiểm này, công ty nhượng
(ceding company) có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại,
nhà tái bảo hiểm (Reinsurer) có quyền nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ bảo

hiểm đem nhượng theo cơ sở tùy ý lựa chọn là một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt
bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà công ty nhượng muốn nhượng cho thị
trường tái bảo hiểm.
Vào thời điểm khi kết thúc một thỏa thuận thương mại nào đó thì các bên tham gia
vào thỏa thuận đó thường quan tâm đến việc quy định thật chính xác các chi tiết cần
thiết của thỏa thuận lần tới, các mục đích, nghĩa vụ của các bên đối với nhau và đặt ra
các điều kiện cần thiết để ràng buộc những nghĩa vụ và quyền lợi ấy và như vậy, chỉ
có hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn là phù hợp nhất, vì nó có thể cho phép nhà
tái bảo hiểm có được một ý niệm đúng về những rủi ro mà mình phải gánh chịu trước
khi tham gia hợp đồng.
2. Tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory):
Hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận giữa công ty nhượng và nhà tái bảo
hiểm mà trong đó công ty nhượng tự bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất
cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy định trước trong hợp đồng cho
tới một hạn mức trách nhiệm ngang với số tiền hạn mức tối đa đã được thỏa thuận từ
trước. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng tự bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn
vị rủi ro đó. Với hình thức này, công ty nhượng có toàn quyền tự do chấp nhận và
định giá phí bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro mà người được bảo hiểm yêu cầu bảo
hiểm và không cần phải tham khảo ý kiến trước của nhà tái bảo hiểm.
Mặt khác, công ty nhượng cũng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất có liên quan
đến những rủi ro được bảo hiểm đó với mục đích bảo vệ quyền lợi chung giữa công ty
nhượng và nhà tái bảo hiểm; tức là: trong mọi quyết định của mình, công ty nhượng
đều phải quan tâm đến quyền lợi của nhà tái bảo hiểm lẫn quyền lợi của chính mình.
Trong hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, nhà tái bảo hiểm sẽ hoàn toàn chia sẻ những
vận may rủi với công ty nhượng và sẽ chấp nhận thanh toán cho tổn thất thuộc phạm
vi hợp đồng tái bảo hiểm đã thỏa thuận mà công ty nhượng thay mặt cho họ giải
quyết. Tuy nhiên, nhà tái bảo hiểm sẽ không bị ràng buộc bởi những hành động hoặc
sơ xuất của công ty nhượng mà đi ngược lại với quyền lợi của họ. Như vậy, hình thức
tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa ước ràng buộc các bên với nhau một cách chặt chẽ hơn
là những dịch vụ bảo hiểm nhượng theo hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn.



Với hình thức này, nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được số phí lớn nhất, phù hợp
với nguyên tắc “Quy luật số đông” (law of large numbers) giúp cho nhà tái bảo hiểm
thực hiện được tốt vai trò kinh tế quốc dân của họ về đẩy mạnh những tiến bộ kỹ thuật
của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận những rủi ro mới và các dạng bảo hiểm mới.
3. Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc (Fac – Obli.)
Tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc (bảo hiểm để ngỏ – open cover) là một hình thức tái
bảo hiểm mà công ty nhượng thường cố gắng thu xếp mỗi khi những rủi ro cần tái bảo
hiểm trong một ngành kinh tế lên tới một mức độ nào đó.
Trong hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả
những dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm, nhưng ngược lại nhà tái bảo hiểm buộc phải
chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này với điều kiện là
những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã quy ước của hợp đồng
tái bảo hiểm thỏa thuận. Như vậy, so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, nhà
tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền được từ chối không nhận những rủi ro mà
một khi họ không muốn.
Để bù đắp thiệt thòi nói trên, trong hình thức tái bảo hiểm này, nhà tái bảo hiểm có
điều kiện thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với
hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Tuy nhiên, trong hình thức này, tỷ lệ thủ tục
phí bảo hiểm thường cao hơn so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Trong
hình thức tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc vẫn có điều kiện đặt ra là nội dung của hình
thức tái bảo hiểm này không có nghĩa chỉ có những rủi ro có khả năng dễ xảy ra tổn
thất nhất thì đưa vào hợp đồng. Công ty nhượng không được lợi dụng hình thức tái
bảo hiểm này để lựa chọn rủi ro nhằm mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo
hiểm. Để phòng ngừa trường hợp khả năng này có thể xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải
nắm vững ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái
bảo hiểm và thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mà mình đã ký
kết.
Sử dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có điều kiện để đem chào tái bảo

hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho một nhà
tái bảo hiểm duy nhất hay cho một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay
cho việc phải đem phân chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của
mình cho các nhà tái bảo hiểm nếu như đem tái bảo hiểm theo hình thức bắt buộc.
Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế thường chỉ có thể thực hiện được bằng cách
chào cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực lớn vì họ là những nhà tái bảo hiểm có khả
năng nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ không đòi hỏi phải phân
tán cho quá nhiều nhà tái bảo hiểm, đỡ tốn kém chi phí.
Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần phải đem tái bảo hiểm thì chi
phí hành chính cho việc áp dụng hình thức tái bảo hiểm này sẽ rất tốn kém vì những
rủi ro cần tái bảo hiểm đó thường đòi hỏi các điều kiện tái bảo hiểm khác nhau, công
tác tính toán phí và sổ sách kế toán sẽ phức tạp và khó khăn hơn.
PHẦN B
PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
Mọi thỏa ước tái bảo hiểm theo tỷ lệ thông thường được gọi là hiệp ước (Treaty) và
thỏa ước tái bảo hiểm không theo tỷ lệ thường được gọi là Hợp đồng vượt mức tổn


thất (Excess of Loss contract). Các thỏa ước tái bảo hiểm này bao gồm nhiều dạng
khác nhau.
I.TÁI BẢO HIỂM THEO SỐ TIỀN BẢO HIỂM (TÁI BẢO HIỂM TỶ
LỆ)PROPORTIONAL REINSURANCE
1.Định nghĩa:
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó
trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo
hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm.
2. Tính chất:
- Trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm được tính theo tỷ lệ
tương ứng của mỗi bên tham gia
- Phí bảo hiểm được chia sẻ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm theo tỷ lệ

tham gia của mỗi bên về số tiền bảo hiểm.
Ví dụ, nếu phần tham gia của nhà tái bảo hiểm trên một rủi ro là 40% của giá trị
rủi ro đó thì họ cũng sẽ nhận được 40% của số phí bảo hiểm và sẽ đóng góp
tiền bồi thường vào mỗi vụ tổn thất thuộc rủi ro đó là 40%. Phần phí bảo hiểm
do nhà tái bảo hiểm nhận đúng như phần rủi ro họ đảm nhận tính theo tỷ lệ.
3. Các dạng tái bảo hiểm theo số tiền: chia làm 2 dạng:
- Tái bảo hiểm thặng dư vốn (mức dôi) (Surplus)
- Tái bảo hiểm phân ngạch thuần (số thành, tham gia) (Quota Share)
4. Thủ tục phí tái bảo hiểm (Reinsurance Commission)
4.1 Định nghĩa: Thủ tục phí tái bảo hiểm là một khoản tiền mà nhà tái bảo hiểm trả
cho công ty nhượng khi nhà tái bảo hiểm tham gia nhận hợp đồng tái bảo hiểm của
công ty nhượng. Số tiền này được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm của số phí đem
tái bảo hiểm. Thủ tục phí bảo hiểm hoàn toàn khác với môi giới phí, là số tiền mà nhà
tái bảo hiểm trả riêng cho người môi giới khi dịch vụ bảo hiểm được đem tái bảo
hiểm gián tiếp qua môi giới.
4.2 Đặc điểm:
- Thông thường trong các dạng tái bảo hiểm, thủ tục phí tái bảo hiểm chỉ áp dụng đối
với dạng tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm tỷ lệ). Do vậy, ở đây chủ
yếu đề cập đến thủ tục phí tái bảo hiểm đối với dạng tái bảo hiểm theo tỷ lệ
- Điều cơ bản nhất là nhà tái bảo hiểm cần thiết phải trả cho công ty nhượng một
khoản thủ tục phí đủ để chi phí cho việc điều hành dịch vụ của công ty nhượng. Tuy
nhiên, thông thường thủ tục phí tái bảo hiểm được điều chỉnh trên cơ sở tính toán về
tỷ lệ bồi thường dự ước của dịch vụ bảo hiểm, và/hoặc số phí thu nhập bảo hiểm. Do
vậy, số thủ tục phí tái bảo hiểm thực tế mà công ty nhượng được hưởng có thể cao
hoặc thấp hơn chi phí thực tế mà họ bỏ ra.
- Kết quả thực tế về tổn thất có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tài chính của công ty
nhượng. Nếu kết quả thực tế xấu hơn dự kiến kế hoạch thì công ty nhượng vẫn có thể
có “lãi” do thủ tục phí tái bảo hiểm trong khi kết quả của nhà tái bảo hiểm bị thua lỗ.



Ngược lại, nếu kết quả thực tế quá tốt so với kế hoạch thì nhà tái bảo hiểm lại được
hưởng số lãi quá lớn.
4.3 Các loại thủ tục phí tái bảo hiểm:
Mục đích của thủ tục phí tái bảo hiểm là để bù đắp khoản chi phí liên quan đến việc
thực hiện các dịch vụ bảo hiểm được đem tái bảo hiểm của công ty nhượng và một
phần để đóng góp vào chi phí quản lý của công ty nhượng. Việc tính toán thủ tục phí
bảo hiểm không có quy tắc cứng nhắc nào cả mà nó phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa
các bên tham gia trong hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy vậy, khi cân nhắc một tỷ lệ thủ tục
phí tái bảo hiểm thích hợp người ta cần xem xét kỹ các yếu tố quan trọng sau:
- Thể loại tái bảo hiểm và phương thức chào tái bảo hiểm: tái bảo hiểm theo đơn vị rủi
ro, mức dôi, số thành
- Phí tái bảo hiểm trên cơ sở phí toàn phần hay có mức khấu trừ (phí gộp, phí thuần,
môi giới…)
- Trong phí bảo hiểm gốc có quy định các điều khoản thỏa thuận giảm giá đặc biệt
cho người được bảo hiểm không (hoàn phí khi không có tổn thất “G.R.R”; thưởng
nếu không tổn thất “N.C.B” – “No Claim Bonus”
- Chi phí hành chính và quản lý của công ty nhượng nhiều hay ít
- Thống kê kết quả bồi thường của các năm cao hay thấp
- Công ty nhượng sử dụng phí nhàn rỗi để đầu tư ra sao?
Thủ tục phí tái bảo hiểm được chia thanh 3 loại chính như sau:
a. Thủ tục phí cố định (Fixed Rate): là một khoản tiền nhàtái bảo hiểm trả cho công ty
nhượng được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của số phí tái bảo hiểm
b. Thủ tục phí theo thang lũy tiến (Sliding Scale Commission):
Để tránh sự ảnh hưởng của kết quả bồi thường đối với thủ tục phí bảo hiểm theo hình
thức cố định, người ta có thể thỏa thuận về thủ tục phí được điều chỉnh tăng giảm theo
nấc thang. Cơ sở để tính thủ tục phí theo thang lũy tiến là lấy mức thủ tục phí cố định
làm chuẩn từ đó quy định mức tăng giảm theo tỷ lệ bồi thường. Thang lũy tiến được
khống chế ở mức tối đa và mức tối thiểu. Như vậy, kết quả bồi thường càng thấp bao
nhiêu thì tỷ lệ thủ tục phí bảo hiểm lại tăng lên bấy nhiêu và ngược lại.
5. Phí tạm giữ và bồi thường tạm giữ (Premium reserve and Loss reserve)

5.1 Phí tạm giữ (phí dự trữ):
Đây là điều kiện thường được đặt ra theo quy định của luật lệ sở tại của công ty
nhượng được coi là một sự bảo lãnh cho nhà tái bảo hiểm hoàn thành trách nhiệm của
họ theo hợp đồng. Phí tạm giữ còn là một khoản dự phòng riêng giúp cho công ty
nhượng có thuận lợi trong việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc
trước khi quyết toán đòi bồi thường của nhà tái bảo hiểm, bởi vì việc thanh toán tái
bảo hiểm thường được lập theo một thời điểm nhất định (theo tháng quý hay nửa
năm). Ngoài ra, đối với một số nước, việc tạm giữ lại một khoản phí tái bảo hiểm của
nhà tái bảo hiểm là một điều kiện quan trọng trong việc thực hiện thanh toán cân đối
của những dịch vụ tái bảo hiểm chuyển ra nước ngoài và cũng là mối quan hệ giữa sự
bảo lãnh của nhà tái bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty nhượng.
Thông thường, trong thực tế khoản dự phòng này được tính bằng một tỷ lệ phần trăm


cố định của phí tái bảo hiểm toàn phần (gross) (khoảng từ 35% đến 40%). Phí tạm
giữ của năm nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ được hoàn trả lại cho nhà tái bảo hiểm vào
thời điểm tương ứng của năm kế tiếp và được tính thêm một khoản lãi suất nhất định
(từ 3% đến 5%).
Trong trường hợp nếu nhà tái bảo hiểm rút lui không tiếp tục tham gia tái bảo hiểm
cho hợp đồng năm tiếp theo nữa, trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm sẽ được giải quyết
theo một trong hai cách sau:
• Hoặc tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi ro còn hiệu lực cho tới khi chấm
dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm nghiệp vụ bảo hiểm đó (run –
off)
• Hoặc thỏa thuận chuyển giao toàn bộ phần trách nhiệm còn tồn tại sang cho nhà tái
bảo hiểm mới tham gia cho năm tới (cut – off)




×