Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THỊ THU TRANG

§¡NG Ký GIAO DÞCH B¶O §¶M TIÒN VAY
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THỊ THU TRANG

§¡NG Ký GIAO DÞCH B¶O §¶M TIÒN VAY
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Đặng Quang Phương. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Tống Thị Thu Trang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐĂNG KÝ
GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY ............................................. 11
1.1.

Một số khái niệm trong đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ...... 11

1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm............................................................. 11
1.1.2. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay ............................................... 13

1.1.3. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay ................................................... 14
1.1.4. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ................................. 15
1.2.

Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ............................................... 17

1.2.1. Đặc điểm chung của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ................. 17
1.2.2. Mục đích của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ............................ 19
1.2.3. Ý nghĩa của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay .............................. 21
1.2.4. Chủ thể của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay............................... 22
1.2.5. Hiệu lực pháp lý của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ................ 24
1.2.6. Xác lập và chấm dứt quan hệ pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm tiền vay ................................................................................ 28
1.2.7. Các giao dịch bảo đảm bắt buộc phải đăng ký ................................... 29
1.3.

Pháp luật chỉnh hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tiền
vay ở Việt Nam ................................................................................. 32

1.3.1. Giai đoạn 1992 đến 2005 ................................................................... 32


1.3.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay ......................................................... 33
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 37
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY ...... 38
2.1.

Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm .............................................................. 38


2.1.1.

Tổ chức và thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm......... 38

2.1.2. Đăng ký, thay đổi, xoá đăng ký giao dịch bảo đảm ........................... 45
2.1.3. Hồ sơ và thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm ..................................... 53
2.1.4. Cung cấp và công bố thông tin về giao dịch bảo đảm ....................... 60
2.2.

Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong đăng ký giao
dịch bảo đảm tiền vay ...................................................................... 64

2.2.1. Do sự thiếu nhất quán, đồng bộ giữa các quy định pháp luật ............ 64
2.2.2. Quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm ............................................ 65
2.2.3. Phân chia việc đăng ký giao dịch bảo đảm không hợp lý .................. 67
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 69
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH ĐẢM BẢO TIỀN VAY ...... 70
3.1.

Các định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm tiền vay ............................................................................... 70

3.1.1. Định hướng đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về các
biện pháp bảo đảm tiền vay ................................................................ 70
3.1.2. Định hướng hoàn thiện đối với việc đăng ký giao dịch bảo đảm ...... 71
3.1.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
tiền vay ............................................................................................... 74
3.2.


Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về đăng ký
giao dịch bảo đảm tiền vay .............................................................. 75


3.2.1. Giải pháp lập pháp.............................................................................. 75
3.2.2. Giải pháp hành pháp ........................................................................... 80
3.2.3. Giải pháp tư pháp ............................................................................... 82
3.2.4. Một số giải pháp khác ........................................................................ 83
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Số hiệu bảng,
sơ đồ

Tên bảng, sơ đồ

Trang

Sơ đồ 2.1:

Về hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

39

Bảng 2.1:


Kết quả thống kê số lượng các giao dịch bảo đảm
được đăng ký từ năm 2005 đến năm 2011

40


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế cho thấy, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm đã góp phần
công khai, minh bạch các giao dịch bảo đảm và đối kháng với người thứ ba,
tạo nguồn dữ liệu thông tin quan trọng làm cơ sở tra cứu, xác minh khi quyết
định chấp nhận tài sản đảm bảo và quyết định ký kết giao dịch đảm bảo và cấp
tín dụng cho bên vay. Việc xác định thời điểm đăng ký giao dịch đảm bảo còn là
căn cứ xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản. Với ý nghĩa này, đăng
ký giao dịch đảm bảo có thể được coi như lá chắn đảm bảo an toàn pháp lý
chủ thể có quyền yêu cầu trong các giao dịch dân sự (theo nghĩa rộng).
Theo quy định của BLDS 2005 hiện có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký
cược; Ký quỹ; Bảo lãnh; Tín chấp. Trong đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay
gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, tín chấp.
- Bảo đảm tiền vay bằng cầm cố tài sản
Theo quy định tại điều 326 BLDS 2005 quy định về cầm cố tài sản:
“Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố)
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” [37, Điều 326]. Như vậy, khái niệm
về cầm cố tài sản đã thay đổi, biện pháp bảo đảm bằng cầm cố tài sản buộc
bên cầm cố phải giao tài sản cho bên nhận cầm cố. Và đây là tiêu chí để
phân biệt với thế chấp tài sản, chứ không căn cứ vào loại tài sản là động sản
hoặc bất động sản.

Tuy nhiên, nếu theo quy định tại điều 326 của BLDS 2005 không quy
định về tài sản dùng để cầm cố là động sản hay là bất động sản, thì được hiểu
cầm cố cả hai loại tài sản trên. Khi xem xét các quy định tại các luật chuyên

1


ngành, thì chỉ thấy có các quy định về thế chấp nhà ở tại Luật Nhà ở hoặc thế
chấp quyền sử dụng đất tại Luật đất đai, mà không có quy định nào về cầm cố
bất động sản cả.
Như vậy, mặc dù luật doanh nghiệp đã lấy tiêu chí việc chuyển giao tài
sản hay không để phân biệt giữa thế chấp và cầm cố tài sản. Nhưng thực tế,
tiêu chí này không được các luật chuyên ngành xem xét đến, mà vẫn mặc
nhiên cầm cố động sản và thế chấp bất động sản. Đây là sự không thống nhất,
chồng chéo giữa quy định của luật chung và luật chuyên ngành.
- Bảo đảm tiền vay bằng thế chấp tài sản
Cũng như việc ghi nhận biện pháp cầm cố tài sản, thì BLDS 1995 cũng
lần đầu ghi nhận biện pháp bảo đảm là thế chấp tài sản. Theo đó, tại điều 346
BLDS 1995 quy định: “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản
là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với
bên có quyền” [25, Điều 346].
Đến BLDS 2005 đưa ra khái niệm khác: “Thế chấp tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế
chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp” [37, Điều 342].
BLDS 2005 cho phép người thế chấp bằng tài sản là động sản hoặc bất động
sản và việc thế chấp không phải chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp,
bên thế chấp vẫn sử dụng và quản lý tài sản trong thời gian thế chấp.
- Bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh
Theo quy định tại BLDS năm 2005 có sự khác biệt so với BLDS năm

1995, đó là chỉ còn một loại bảo lãnh duy nhất không kèm theo tài sản cầm
cố, thế chấp. Tức là sẽ không còn giao dịch bảo lãnh bằng hàng hoá, tài sản,
nhà ở, quyền sử dụng đất.

2


Tuy nhiên, theo Điều 361 của BLDS năm 2005:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa
vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 lại quy định “bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất”. Mà thực tế hiện nay, trong hoạt động cho vay của các
ngân hàng, việc bên thứ ba bảo lãnh – cầm cố bằng tài sản của mình hoặc
bảo lãnh – thế chấp bằng tài sản. Khi giải thích về bảo lãnh, có ý kiến cho
rằng: “bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó
người thứ ba dùng tài sản thuộc quyền sở hữu để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự của người khác chứ không phải là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
của chính chủ sở hữu tài sản như các chế định bảo đảm khác”. Như vậy,
những quy định của BLDS 2005 được hiểu không khác gì so với các quy
định của BLDS 1995 khi quy định không có việc cầm cố, thế chấp tài sản
của người thứ ba để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự không rõ ràng
như vậy, đã dẫn đến một thực tế khi Tòa án nhân dân xét xử các tranh chấp
liên quan đến các biện pháp bảo đảm có nhận định khác nhau. Trường hợp
Bản án số 26/2011/KT-ST ngày 05-8-2011 của tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi đã tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba với ngân
hàng TMCP Quân Đội, vì cho rằng đó phải là hợp đồng bảo lãnh chứ không

phải là hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba. Vì thế, cần phải phân biệt
khái niệm giữa bảo lãnh và thế chấp tài sản của bên thứ ba một các rõ ràng,
tránh sự áp dụng pháp luật khác nhau.

3


- Bảo đảm tiền vay bằng tín chấp
Đây là biện pháp bảo đảm mới xuất hiện trong BLDS 2005, thể hiện
sự quan tâm, giúp đỡ của nhà nước đến đối tượng đặc biệt là các hộ gia đình
nghèo để phát triển kinh tế hộ gia đình. Theo quy định tại điều 372 BLDS
2005 “Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho
cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức
tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính
phủ” [37, Điều 372]. Xung quan biện pháp bảo đảm này, còn nhiều ý kiến
cho rằng, biện pháp tín chấp không nên đưa vào các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong bộ luật dân sự. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn nào
liên quan đến hoạt động tín chấp, trong trường hợp nếu hộ gia đình nghèo
vay tiền, nhưng đến hạn trả nợ không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ đó, thì
bên đã bảo đảm bằng tín chấp có nghĩa vụ, trách nhiệm như thế nào. Vì thế
trong thực tế các tổ chức tín dụng thường rất hiếm khi cho vay, trừ khi buộc
phải thực hiện.
Khi nhận xét về quy định này, có học giả cho rằng: Thực chất thì trách
nhiệm về tài sản của biện pháp bảo đảm này hoàn toàn bằng không. Đó chỉ là
một thứ bảo đảm “ảo”, như một thứ “thuốc” giả, không màu sắc, không mùi
vị và hoàn toàn vô tác dụng trong chế định giao dịch bảo đảm. Giao dịch tín
chấp này không thuộc về quan hệ tài sản, cũng chẳng phải là quan hệ nhân
thân phi tài sản. Vì vậy, đề nghị cần loại bỏ khỏi BLDS biện pháp bảo đảm
“tín chấp” để bảo đảm sự hợp lý, chuẩn mực của BLDS [28].
Theo quy định tại Bộ luật dân sự mới được thông qua ngày 24/11/2015

(Sau đây gọi là BLDS 2015) có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao
gồm: 1. Cầm cố tài sản; 2. Thế chấp tài sản; 3. Đặt cọc; 4. Ký cược; 5. Ký
quỹ; 6. Bảo lưu quyền sở hữu; 7. Bảo lãnh; 8. Tín chấp; 9. Cầm giữ tài sản.
Như vậy, BLDS 2015 vẫn giữ nguyên 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa

4


vụ cũ và quy định thêm hai hình thức bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự mới
là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản. Cả hai biện pháp mới này đều
không thuộc trường hợp bảo đảm bằng tiền vay.
Trong những năm gần đây, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
ngày càng được quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Cụ thể, năm 2000 Chính
Phủ ban hành Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao
dịch bảo đảm. Đến năm 2003, quy định về giao dịch đảm bảo được khẳng
định trong Luật Đất đai, tiếp đến là Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Nhà ở, Bộ
luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng. Tiếp đến là Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
Năm 2007, tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã
ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007, theo đó xác định mục
tiêu: Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân
chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức
có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và
bền vững của đất nước. Không nằm ngoài mục tiêu này, đăng ký giao dịch
đảm bảo là một trong những loại dịch vụ hành chính công cần được cải cách
để đáp ứng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Thể chế hoá đường lối của Đảng và Nhà nước, năm 2008, Quốc hội đã

xây dựng chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, trong đó có dự án Luật
Đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong quá trình xây dựng luật, ngày 10/12/2010,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-CP về việc đơn giản hoá thủ tục
hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp, trong đó nhóm
thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm được đặt ở vị trí trang nhất. Trong quá

5


trình xây dựng luật, Chính phủ luôn chủ động hoàn thiện pháp luật về giao
dịch đảm bảo, cụ thể như thông tư số 5/2011/TT-BTP ngày 06 tháng 02 năm
2011 và thông tư số 08 ngày 26/02/2014 sửa đổi, bổ sung một số vấn đề về
đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm…
Tuy nhiên, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn còn nhiều bất
cập, trùng lặp, mâu thuẫn. Đồng thời quy trình đăng ký giao dịch bảo đảm còn
thiếu sự thống nhất và chưa thực sự đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện. Đặc
biệt là ở vùng nông thôn. Để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về đăng ký
giao dịch đảm bảo và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt
Nam về vấn đề này, học viên lựa chọn đề tài “Đăng ký giao dịch bảo đảm
tiền vay theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, có nhiều các công trình nghiên cứu của các tác giả về giao
dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm. Có thể kể đến một số công
trình cụ thể như:
Tác giả Nguyễn Văn Mạnh, “Một số vấn đề về giao dịch bảo đảm theo
pháp luật hiện hành” tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 99 tháng 6/2007. Tác
giả phân tích các quy định tại Bộ luật dân sự 1995 và Bộ luật dân sự 2005 để
nhận định rằng một số vấn đề về tài sản bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm,
thứ tự ưu tiên thanh toán và phương thức xử lý tài sản bảo đảm chưa được
quy định thống nhất, hợp lý. Qua đó, tác giả đề xuất các quy định về giao dịch

bảo đảm nói riêng cần có sự thống nhất, ổn định, phản ánh đúng tính chất
quan hệ dân sự trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra
các đề xuất cụ thể cho các vấn đề trên.
Tác giả Nguyễn Văn Phương có bài “Đăng ký giao dịch bảo đảm: Rủi
ro từ thực tế và bất cập của pháp luật” trên tạp chí ngân hàng số 8/2009. Tác
giả đã đề cập đến những vấn đề thực trạng về quy định thiếu nhất quán, đồng

6


bộ về công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và/hoặc
tài sản gắn liền với đất; việc đăng ký giao dịch bảo đảm không tập trung và
thiếu thông tin liên kết do việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện ở
nhiều cơ quan khác nhau, tùy thuộc vào loại tài sản thế chấp, cầm cố; quy
định còn bỏ ngỏ về bên giữ bản chính giấy chứng nhận sở hữu tài sản thế
chấp, cầm cố là phương tiện vận tải…
Chuyên đề “Bình luận về những bất cập của pháp luật giao dịch bảo
đảm” của tác giả Trương Thanh Đức tại Hội thảo Khoa học cấp Bộ về Nhận
diện khía cạnh pháp lý của vật quyền bảo đảm và một số kiến nghị xây dựng,
hoàn thiện Bộ luật Dân sự Việt Nam, ngày 27/6/2013. Tác giả đã đưa ra
những bất cập của pháp luật hiện hành trong thực tiễn, khó khăn, nguyên nhân
và đề xuất những giải pháp, như: cầm cố thẻ tiết kiệm ngân hàng, thế chấp
hàng hóa luân chuyển, thế chấp xe ô tô hoặc phương tiễn vận tải khác, thế
chấp nhà hoặc quyền sử dụng đất…..
Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Thế Hoài về “Pháp luật về hoạt động đăng
ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng ở
Việt Nam” tại Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Luận án đưa ra những
luận cứ làm căn cứ đề xuất các quan điểm, yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm trong lĩnh
vực tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian tới.

Tác giả Lưu Thị Lan Hương với đề tài “Vấn đề giao dịch bảo đảm
bằng tàu bay trong pháp luật quốc tế hiện đại”, Luận văn thạc sĩ khoa LuậtĐại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Luận văn tìm hiểu khái lược về quy
định của pháp luật về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay và thực trạng pháp luật
Việt Nam về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay.
Hay như tác giả Nguyễn Trí Đức với luận văn thạc sĩ luật tại Đại học
Luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động

7


của ngân hàng thương mại Việt Nam”. Đề tài đưa ra thực trạng áp dụng pháp
luật về các biện pháp bảo đảm tiền vay, đồng thời đưa ra các yêu cầu và kiến
nghị pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động của ngân hàng thương
mại Việt Nam ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khác của
các tác giả đề cập đến các biện pháp bảo đảm như tác giả Nguyễn Ngọc Điện,
“Hoàn thiện các quy định về xử lý tài sản thế chấp” trên Tạp chí nghiên cứu
lập pháp điện tử. Tuy nhiên, các công trình nói trên chỉ nghiên cứu chung về
giao dịch đảm bảo, điều kiện có hiệu lực của giao dịch đảm bảo, rủi ro... mà
chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực
tiễn về đăng ký giao dịch đảm bảo tiền vay. Kế thừa những công trình nghiên
cứu về giao dịch bảo đảm đã được công bố của giới khoa học pháp lý trong
nước, tác giả quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đăng ký
giao dịch đảm bảo tiền vay theo pháp luật Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tổng quát lý luận về đăng ký giao dịch đảm bảo;
phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề này và kiến nghị
các định hướng và giải pháp hoàn thiện chế định này ở Việt Nam.
Với đề tài nghiên cứu đã chọn, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu tập
trung giải quyết vấn đề pháp lý cơ bản về việc đăng ký giao dịch đảm bảo tiền

vay, mà bên cho vay và nhận đảm bảo (nhận thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) phải
là các tổ chức tín dụng.Về bản chất, giới hạn theo chủ thể của giao dịch không
có khác biệt lớn. Tuy nhiên, hiện tại giao dịch đảm bảo với Ngân hàng là phổ
biến, nhưng việc giới hạn nhằm mục đích đảm bảo sự phù hợp giữa tiên đề tài
và nội dung nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lí luận về

8


đăng ký giao dịch đảm bảo; Làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về đăng ký giao dịch đảm bảo tiền vay; Làm rõ những hạn
chế, bất cập và nguyên nhân của chúng để làm cơ sở đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân
tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về chấm dứt doanh nghiệp, qua đó chỉ ra các khiếm
khuyết, bất cập
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước
ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa
pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích
cực hay tụt hậu…

9


6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đăng ký giao dịch bảo
đảm và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo
đảm tiền vay
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký
giao dịch bảo đảm tiền vay

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY
1.1. Một số khái niệm trong đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay
1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm

Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả
năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy
định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong
quan hệ giao dịch dân sự.
Ở Việt Nam, khái niệm giao dịch bảo đảm được nhìn nhận chủ yếu dưới
giác độ là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng.
Trước khi BLDS ra đời khái niệm về giao dịch bảo đảm lần đầu tiên
được biết đến dưới góc độ là đối tượng của hoạt động đăng ký nhằm mục đích
công khai hoá các nội dung liên quan đến giao dịch bảo đảm như Bên chủ thể
quyền (giao dịch) cũng như các quyền (giao dịch) tồn tại từ trước đối với tài
sản bảo đảm theo đơn đề nghị của người yêu cầu.
Với sự ra đời của BLDS 1995, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ đã được quy định đầy đủ hơn, bao gồm các quy định chung về các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và các quy định cụ thể về từng biện
pháp như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm.
Tuy nhiên, một số quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế về các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có hiệu lực thi hành song song với BLDS
1995 đã làm cho tình trạng cùng tồn tại các quy định về bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong pháp luật dân sự và pháp luật kinh tế có nhiều quan điểm và nội
dung pháp lý không thống nhất. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng, để thi hành các quy định của BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong

11


quan hệ tín dụng, Ngân hàng nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh riêng về lĩnh vực này.
BLDS 2005 đưa ra khái niệm “giao dịch bảo đảm” một cách bao quát
hơn, theo đó “giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận

hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại
Khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này” [37, Điều 323, Khoản 1]. Các biện pháp bảo
đảm đó là: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp.
Trong giao dịch bảo đảm, bên bảo đảm dùng tài sản của mình để bảo
đảm một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Trong đó,
bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký
cược, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong
trường hợp tín chấp. Còn bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ
dân sự mà việc thực hiện quyền đó được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao
dịch bảo đảm, bao gồm bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặt
cọc, bên nhận ký cược, bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong trường hợp
tín chấp và bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại
trong trường hợp ký quỹ.
Như vậy, giao dịch bảo đảm là các giao dịch được xác lập nhằm tạo ra
những “phương thức bảo đảm” cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh
từ các giao dịch dân sự như hợp đồng tín dụng và từ các căn cứ pháp lý khác
như trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Giao dịch bảo đảm là sự thoả
thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm dùng tài
sản của mình (tài sản bảo đảm) để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong
giao dịch dân sự. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng thoả thuận, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo
đảm để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

12


1.1.2. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay
Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay

của các Tổ chức tín dụng đã đưa ra khái niệm về bảo đảm tiền vay: “Bảo đảm
tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi
ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách
hàng vay” [14, Điều 2, Khoản 1].
Đến Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm được ban hành
để thay thế Nghị định 178/1999/NĐ-CP để thống nhất các giao dịch bảo đảm
nói chung với bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Nghị định 163 được
ban hành sau khi BLDS 2005 có hiệu lực, nhằm cụ thể hóa điều 318 của
BLDS 2005 quy định các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ dân sự.
Điều 318. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: a)
Cầm cố tài sản; b) Thế chấp tài sản; c) Đặt cọc; d) Ký cược; đ) Ký
quỹ; e) Bảo lãnh; g) Tín chấp [37, Điều 318].
Tuy nhiên, tại Nghị định 163 không có quy định nào nêu lên định nghĩa
về giao dịch bảo đảm hoặc giao dịch bảo đảm tiền vay mà chỉ liệt kê các biện
pháp bảo đảm như tại điều 318 BLDS 2005. Đây cũng là đặc thù một số quy
định trong pháp luật ở Việt Nam chỉ mang tính liệt kê, chứ không đưa ra định
nghĩa cụ thể.
Căn cứ vào khái niệm của giao dịch bảo đảm và tiếp cập theo chức
năng của các giao dịch bảo đảm tiền vay, chúng ta có thể định nghĩa giao dịch
bảo đảm tiền vay như sau: “Giao dịch bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó, bên cho vay nhận bảo đảm bằng quyền đối với tài sản của
bên vay hoặc bên thứ ba nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ trong một thời
gian nhất định trong tương lai”.
Như vậy, giao dịch bảo đảm tiền vay có thể được xác lập giữa bên cho

13


vay với bên vay hoặc với một bên thứ ba nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ

cho bên vay khi đến hạn trả nợ theo thỏa thuận.
1.1.3. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay
“Tài sản” theo ý nghĩa pháp lý được thể hiện dưới các dạng là: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [37, Điều 163].
Bên cạnh đó, các quyền tài sản cũng có thể là tài sản đảm bảo tiền vay.
Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số
tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn
góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các
quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Quyền sử dụng đất được dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật
này và pháp luật về đất đai. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên
được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của
Bộ luật này và pháp luật về tài nguyên [37, Điều 322].
Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm đưa ra khái niệm về
tài sản bảo đảm: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm” [16, Điều 3].
Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có
nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài
sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có
quyền. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong
tương lai và được phép giao dịch [16, Điều 4].
Điều kiện của tài sản được dùng để đảm bảo là cho việc thực hiện
nghĩa vụ phải thỏa mãn“vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc sở
hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch” [37].

14



Theo quy định trên, “tài sản đảm bảo phải thuộc sở hữu của bên bảo
đảm” có điểm mâu thuẫn nội tại với quy định “tài sản hình thành trong tương
lai”. Bởi thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, thì tài sản này vẫn chưa hoàn
toàn thuộc sở hữu của bên bảo đảm.
Như vậy, tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo
đảm hoặc tài sản hình thành trong tương lai được bên bảo đảm dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận bảo đảm.
1.1.4. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay
Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cơ chế điều tiết việc
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, với mục tiêu công bố công khai quyền của bên
nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm. Qua đó, các cá nhân, tổ chức có nguồn
thông tin để tìm hiểu trước khi xem xét, quyết định giao kết hợp đồng, cho
vay vốn. Với vai trò bảo vệ nhà đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận các
nguồn vốn trong hoạt động tín dụng, thương mại, đăng ký giao dịch bảo đảm
còn làm căn cứ để xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài
sản bảo đảm trong trường hợp một tài sản được bảo đảm để thực hiện
cho nhiều nghĩa vụ theo thứ tự thời gian công khai hóa, nó tồn tại như một
yếu tố tự nhiên trong nền kinh tế thị trường.
Mặt khác, đăng ký giao dịch bảo đảm là việc nhà nước (hoặc các chủ
thế khác do Nhà nước ủy quyền) công nhận một tình trạng đã được bảo đảm
cho một nghĩa vụ hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự nhất định. Giá trị pháp lý thực
sự của hành vi đăng ký giao dịch bảo đảm không phải ở chỗ nó nhằm chứng
minh sự tồn tại trên thực tế cũng như về mặt pháp lý của giao dịch bảo đảm
đã đăng ký, mà chính là ở chỗ nó thừa nhận một tài sản đã được chủ sở hữu
đem bảo đảm cho việc thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự của chính
họ hoặc người khác đối với bên có quyền. Hành vi này sẽ là sự kiện pháp lý
để làm phát sinh quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm trong

15



giao dịch bảo đảm đã đăng ký, so với bên nhận bảo đảm khác trong các giao
dịch bảo đảm chưa được đăng ký. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc coi
hành vi đăng ký giao dịch bảo đảm là sự kiện pháp lý để “đánh dấu” thứ tự
hình thành các giao dịch bảo đảm đã được xác lập đối với một tài sản và từ
đó xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm đối với các
chủ nợ có bảo đảm bằng một tài sản. Từ đó có thể nhận thấy, chứng từ
chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những yếu tố quan
trọng để Tòa án giải quyết các tranh chấp.
Tại Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội trong hơn hai thập
kỷ vừa qua, vấn đề xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đăng ký giao
dịch bảo đảm đã và đang được thực hiện có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo
lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thực hiện những cải cách về chính sách và
thể chế nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã có những phát triển đáng kể trong vài năm trở lại đây, song cho
đến thời điểm hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chưa có một
khái niệm chính thức về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về Đăng ký
giao dịch bảo đảm thì: “Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào Cơ
sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dung tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm ” [20, Điều 2]. Đăng ký
giao dịch bảo đảm là việc một trong các bên tham gia quan hệ bảo đảm tiến
hành đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, tránh việc chuyển dịch chủ sở hữu của tài sản trong thời gian đăng ký.
Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực hiện theo quy
định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm công khai hoá tình


16


trạng pháp lý của tài sản bảo đảm và là một trong những cách thức làm phát
sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba. Việc đăng ký là điều kiện để giao
dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định. Thông
tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp
là chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm đối
với tài sản bảo đảm và là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử
lý tài sản bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [27, tr.15].
1.2. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay
1.2.1. Đặc điểm chung của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay
Với mục đích làm minh bạch hoá thông tin về giao dịch bảo đảm, tình
trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm có
những đặc điểm pháp lý như sau:
Thứ nhất, đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Tuy pháp luật hiện hành quy định khác nhau về
trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản và bất động sản,
nhưng mục tiêu chung của các quy định này vẫn là nhằm công khai hoá quyền
lợi của bên nhận bảo đảm đối với bên bảo đảm.
Thứ hai, đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động dịch vụ công của Nhà
nước. Hiện nay, ở các nước cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và
đăng ký bất động sản nói riêng là cơ quan độc lập với cơ quan quản lý nhà
nước về giao dịch bảo đảm hoặc bất động sản. Đây là những cơ quan chuyên
môn không thực hiện chức năng quản lý nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc
“lấy thu, bù chi”. Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm được xác định theo
loại tài sản bảo đảm, theo địa giới hành chính – lãnh thổ hoặc theo địa vị pháp
lý của bên nhận bảo đảm (tổ chức hoặc cá nhân).
Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, mỗi
quốc gia thiết lập một mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm phân tán


17


hoặc tập trung khác nhau. Các nước có hệ thống đăng ký bất động sản tập
trung và thống nhất từ trung ương xuống địa phương, như ở Nhật Bản là Sở
Pháp vụ, Hàn Quốc là Toà án, ở Việt Nam là Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất cấp tỉnh, huyện thuộc Sở và Phòng Tài nguyên và môi trường,… Do
mục đích của đăng ký giao dịch bảo đảm là công khai hoá thông tin về tài sản
bảo đảm nên việc đăng ký mang tính dịch vụ công. Vì vậy, mọi tổ chức, cá
nhân khi có yêu cầu đều được cung cấp thông tin cũng như các quyền đã thiết
lập với tài sản bảo đảm.
Thứ ba, đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện một cách bắt buộc
hoặc tự nguyện tuỳ theo quy định của pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia đều quy định những trường hợp bắt buộc phải đăng ký giao dịch
bảo đảm hoặc đăng ký theo yêu cầu tự nguyện của một trong các bên tham
gia giao dịch bảo đảm.
Đăng ký bắt buộc là loại đăng ký mà pháp luật buộc một trong các bên
tham gia giao dịch bảo đảm phải đăng ký giao dịch đó tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Nhà nước chỉ thừa nhận giá trị pháp lý của giao dịch đó khi nó đã
được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm có thẩm quyền [25, tr. 7].
Đăng ký tự nguyện là loại đăng ký mà các bên trong quan hệ bảo đảm có
thể đăng ký hoặc không đăng ký giao dịch bảo đảm đó tại cơ quan đăng ký có
thẩm quyền của Nhà nước. Và việc đăng ký hay không đăng ký này không ảnh
hưởng đến hiệu lực pháp lý của giao dịch bảo đảm mà các bên đã thiết lập.
Thứ tư, thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký phải được cung
cấp cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu. Cung cấp thông tin là mục
tiêu quan trọng của tất cả các hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trên thế
giới. Do vậy, thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm đã đăng ký
tại các cơ quan có thẩm quyền đều được lưu giữ và cung cấp công khai cho

các tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Trong bối cảnh hoạt động cho vay có bảo

18


×