I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
O TH THU H
MÔ HìNH Tổ CHứC, QUảN TRị, ĐIềU HàNH
BảO HIểM TIềN GửI THEO PHáP LUậT VIệT NAM
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
O TH THU H
MÔ HìNH Tổ CHứC, QUảN TRị, ĐIềU HàNH
BảO HIểM TIềN GửI THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS. Lấ TH THU THY
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đào Thị Thu Hà
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH BẢO
HIỂM TIỀN GỬI ............................................................................... 7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, mục đích của bảo hiểm tiền gửi ................... 7
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi ................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi ......................................................... 10
1.1.3. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi ......................................................... 14
1.2.
Vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi .............. 17
1.3.
Khái niệm, mô hình tổ chức của chủ thể thực hiện bảo hiểm
tiền gửi và các nguyên tắc xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền
gửi hiệu quả ....................................................................................... 21
1.3.1. Khái niệm, mô hình tổ chức của chủ thể thực hiện bảo hiểm tiền gửi .... 21
1.3.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả ................................ 26
1.4.
Mô hình quản trị, điều hành bảo hiểm tiền gửi............................. 28
1.5.
Kinh nghiệm quy định pháp luật của một số nước trong việc
xây dựng mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG hiệu
quả và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................... 34
1.5.1. Kinh nghiệm quy định pháp luật của một số nước trong việc xây
dựng mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG hiệu quả .............. 34
1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 37
Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 43
Chương 2: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ,
ĐIỀU HÀNH BẢO HIỂM TIỀN GỬI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................... 44
2.1.
Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay ............. 44
2.1.1. Vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam .................... 44
2.1.2. Trụ sở chính, Văn phòng đại diện và các Chi nhánh ......................... 45
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ....... 59
2.2.
Mô hình quản trị, điều hành bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ........... 63
2.2.1. Hội đồng quản trị ................................................................................ 63
2.2.2. Kiểm soát viên .................................................................................... 65
2.2.3. Ban điều hành ..................................................................................... 66
2.3.
Đánh giá thực trạng mô hình tổ chức, quản trị, điều hành
theo pháp luật Việt Nam .................................................................. 67
2.3.1. Ưu điểm .............................................................................................. 67
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ..................................... 73
Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 82
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN MÔ HÌNH
TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH BẢO HIỂM TIỀN
GỬI TẠI VIỆT NAM....................................................................... 83
3.1.
Một số định hướng hoàn thiện mô hình tổ chức, quản trị,
điều hành bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ........................................... 83
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức, quản trị,
điều hành bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam ....................................... 89
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHTG
Bảo hiểm tiền gửi
BHTGVN
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
DIV
Cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
HĐQT
Hội đồng quản trị
TCT BHTG
Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi
TCTD
Tổ chức tín dụng
TGĐ
Tổng Giám đốc
NHTW
Ngân hàng Trung ương
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1: Tên gọi, thời gian thành lập BHTG ở một số nước trên
thế giới
Bảng 1.2: Mô hình BHTG ở một số nước trên thế giới
8
24
Bảng 1.3: Mô hình quản trị của tổ chức BHTG tại một số quốc
Bảng 2.1:
gia trên Thế giới
31
Số liệu chi tiết tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tại
Việt Nam
57
Bảng 2.2: Quản lý nguồn vốn và đầu tư của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam
62
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu hình
Tên hình
Trang
Hình 2.1: Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi Philippines
46
Hình 2.2: Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản
47
Hình 2.3: Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện nay
51
Hình 2.4: Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
56
Hình 2.5: Định hướng triển khai tầm nhìn bảo hiểm tiền gửi hiệu
quả tại Việt Nam
58
Hình 2.6: Hội đồng quản trị bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
65
Hình 2.7: Ban điều hành bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
66
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
BHTG ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội là bảo vệ quyền và lợi ích
của người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức này gặp rủi ro
trong kinh doanh tới mức bị phá sản. Nhờ đó củng cố niềm tin của người gửi tiền
đối với hệ thống ngân hàng quốc gia. Với tư cách là một tổ chức bảo hiểm, hoạt
động theo những nguyên lý của bảo hiểm, tổ chức BHTG đã và đang thực hiện
được vai trò quan trọng trong việc tham gia quản lý rủi ro của các NHTM, các tổ
chức tham gia bảo hiểm khác, và hơn nữa là có vai trò trong giám sát, góp phần
bảo đảm an toàn hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia.
Tổ chức BHTG có vai trò thực hiện các chức năng, nhiệm vụ giám sát,
phối hợp hoạt động, chia sẻ thông tin và cùng chịu trách nhiệm với các cơ
quan khác về sự an toàn và phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính - tiền
tệ. BHTG tham gia giám sát, bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng với tư
cách là một định chế tài chính độc lập cùng gánh vác và chia sẻ trách nhiệm
quản lý với các cơ quan nhà nước và các định chế tài chính khác thông qua
hoạt động nghiệp vụ BHTG của mình.
Ngày 18/6/2012, Luật BHTG đã được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 3
thông qua, ghi nhận một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý về hoạt động của BHTG. Ngày 13/08/2013, Thủ tướng Chính phủ
ra quyết định thành lập BHTGVN (Deposit Insurance of Vietnam - DIV) và
quy định chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN. Việc thành lập tổ chức
BHTGVN đã góp phần tạo nên một môi trường lành mạnh, an toàn đối với hệ
thống ngân hàng nói riêng và nền tài chính Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh những mặt tích cực mà pháp luật về
BHTG mang lại cho xã hội, pháp luật về tổ chức, quản trị, điều hành BHTG ở
1
Việt Nam đã bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu, đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn.
Theo Luật NHNN được Quốc hội khóa 12, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010, tại Điều 4, Khoản 14 quy định: “NHNN thực
hiện quản lý nhà nước về BHTG” theo quy định của pháp luật về BHTG
[30, Điều 14, Khoản 14]. Theo Luật BHTG 2012, tổ chức BHTG là “tổ chức
tài chính Nhà nước” do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức BHTG có tư cách pháp nhân, hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí; nhưng mặt
khác Luật BHTG cũng xác định rõ ràng trách nhiệm quản lý nhà nước đối
với BHTG [31, Điều 4, Khoản 4]. Theo đó, “Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về BHTG; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHTG” [31, Điều 8, Khoản 1, 2].
Như vậy, BHTGVN vẫn là một tổ chức độc lập ở mức độ nhất định theo các
quy định pháp luật hiện hành, không thuộc NHNN. BHTGVN chỉ chịu sự chỉ
đạo của NHNN về lĩnh vực BHTG theo quy định của pháp luật về BHTG.
Tuy nhiên, tính độc lập của BHTGVN hiện nay chưa rõ ràng, BHTGVN là cơ
quan quản lý nhà nước hay là doanh nghiệp nhà nước đặc biệt hoạt động trong
lĩnh vực BHTG và có chức năng quản lý quản lý nhà nước về BHTG? Về mặt
tổ chức, cơ quan nào quản lý tổ chức BHTG… Có thể nói pháp luật về BHTG
ở Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa quy định rõ và đầy đủ mô hình tổ chức,
vị trí pháp lý, chức năng nhiệm vụ của tổ chức BHTG, dẫn đến năng lực hoạt
động của BHTGVN còn hạn chế, đặc biệt là khả năng giám sát an toàn, cảnh
báo sớm, tiếp nhận và xử lý tổ chức tham gia BHTG có vấn đề.
BHTG là tổ chức góp phần phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro, nên việc
nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG đủ mạnh để
đảm bảo an toàn cho hoạt động tài chính - ngân hàng, bảo vệ tốt hơn người
2
gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội là đòi hỏi khách quan. Vì vậy, hoàn thiện
pháp luật về mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG tại Việt Nam là một
vấn đề quan trọng góp phần xây dựng luật BHTG đạt kết quả, đảm bảo tốt
hơn quyền lợi của người gửi tiền và an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Với mong muốn hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức, quản trị, điều
hành BHTG một cách có hệ thống và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tôi đã
lựa chọn đề tài “Mô hình tổ chức, quản trị, điều hành bảo hiểm tiền gửi
theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về BHTG ở Việt Nam,
cụ thể là những quy định của pháp luật về tổ chức, quản trị, điều hành của cơ
quan BHTG ở Việt Nam. Làm rõ, phân tích những vấn đề pháp lý cần quan
tâm liên quan đến việc tổ chức, quản trị, điều hành BHTG hiện nay;
So sánh quy định của pháp luật Việt Nam về việc tổ chức, quản trị, điều
hành BHTG với cùng vấn đề này ở một số quốc gia trên thế giới;
Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức,
quản trị, điều hành BHTG ở Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có một số nghiên cứu về BHTG như: “Pháp luật về BHTG
ở Việt Nam” của PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà nội, năm 2008. Cuốn chuyên khảo này đã đề cập đến mọi vấn đề của
BHTG như một cuốn giáo trình về BHTG, cung cấp cho bạn đọc nhiều thông
tin quý báu về BHTGVN và BHTG trên thế giới, tuy nhiên công trình này
chưa đi sâu vào từng khía cạnh của BHTG. Một số công trình khác chủ yếu
tập trung vào quy chế pháp lý và hoạt động nghiệp vụ giám sát, kiểm tra, tiếp
nhận và xử lý, phí BHTG, lợi ích của BHTG... như: “Bảo hiểm tiền gửi Nguyên lý, thực tiễn và định hướng”, TS. Lê Thị Kim Oanh, Nhà xuất bản
3
Lao động xã hội, tháng 12 năm 2004; “Quy chế pháp lý về bảo hiểm tiền gửi
tại Việt Nam”, ThS. Lê Thị Thúy Sen, Viện Nhà nước Pháp luật, năm 2008;
“Pháp luật về tổ chức BHTG ở Việt Nam”, ThS Nguyễn Duy Hoàn, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; “Pháp luật về hoạt động BHTG ở
Việt Nam”, TS Hoàng Thu Hằng, năm 2012; …
Ngoài ra cũng có một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí đề cập
đến vai trò của tổ chức BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo
an sinh xã hội; Một số tài liệu tham khảo có thể tìm thấy như các bài viết
của các chuyên gia kinh tế, chuyên gia pháp lý đăng trên các tạp chí nghiên
cứu của ngành ngân hàng và của BHTGVN: “Bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền theo pháp luật về BHTG tại Việt Nam - Thực trạng và phương
hướng hoàn thiện” - GS.TSKH Đào Trí Úc, Thông tin BHTG số 03 tháng 4
năm 2007; “Quản lý nhà nước về BHTG” - Đặng Dung, Giám đốc văn
phòng luật sư DDZ, Báo điện tử Vietnamnet, ngày 03/3/2010…
Tuy nhiên, tài liệu tham khảo về BHTG chưa nhiều vì đây là lĩnh vực
chưa được nhiều người quan tâm nghiên cứu, biên dịch. Hơn nữa, đây là
một lĩnh vực phức tạp, tài liệu tham khảo trong nước không nhiều, đặc biệt là
sách nghiên cứu về vấn đề này hầu như rất ít. Trong bối cảnh hội nhập, đặc
biệt sau khủng hoảng tài chính - ngân hàng, nước ta cũng đang trong quá trình
hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính - ngân hàng, trong đó có việc hoàn
thiện khung pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động, quản trị, điều hành
BHTG thì việc nghiên cứu đề tài "Mô hình tổ chức, quản trị, điều hành
BHTG theo pháp luật Việt Nam" là thực sự cần thiết.
4. Những điểm mới của Luận văn
Đề tài đóng góp về các nội dung sau:
Đề tài làm rõ được đặc điểm của mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG;
Những ưu điểm và hạn chế trong việc tổ chức, quản trị, điều hành
BHTG theo pháp luật Việt Nam hiện hành;
4
Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế;
Điểm mới của luận văn là: Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp
luật về mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG, Luận văn còn nêu ra được
những yêu cầu bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật liên
quan đến việc tổ chức, quản trị, điều hành BHTG ở Việt Nam;
Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức, quản trị, điều hành BHTG tại Việt Nam, so sánh, đối chiếu với
thông lệ quốc tế, Luận văn còn nêu ra những bất cập và phương hướng hoàn
thiện pháp luật về mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG. Trên cơ sở đánh
giá khách quan, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
tổ chức, quản trị, điều hành BHTG ở Việt Nam.
Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoàn thiện
Luật BHTG cũng như góp phần vào công tác tuyên truyền đến công chúng về
lĩnh vực BHTG tại Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 . Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quan điểm, học thuyết liên quan đến
BHTG, cũng như tình hình thực tiễn xây dựng mô hình tổ chức, quản trị, điều
hành tổ chức BHTG ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Cụ thể gồm các vấn
đề sau: Các quy định của pháp luật Việt Nam và của một số nước trên thế giới
về mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG.
5.2 . Phạm vi nghiên cứu
Hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức, quản trị, điều hành BHTG của
Việt Nam: Luận văn tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật về tổ chức,
quản trị, điều hành BHTG từ khi tổ chức BHTG được thành lập cho đến nay;
Hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức, quản trị, điều hành của một số
5
quốc gia trên thế giới: Luận văn lựa chọn nghiên cứu các văn bản pháp luật về
tổ chức, quản trị, điều hành của một số quốc gia đạt nhiều thành tựu nổi bật
trong việc xây dựng mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG. Cụ thể: pháp
luật về tổ chức, quản trị, điều hành BHTG của Mỹ, Canada, Nhật Bản,
Philippines… Bởi lẽ, đây là các quốc gia triển khai áp dụng mô hình tổ chức,
quản trị, điều hành BHTG hiện đại, lành mạnh, an toàn và đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, luận văn cũng dành sự quan tâm đến
pháp luật về mô hình tổ chức, quản trị, điều hành BHTG của một số quốc gia
khác như: Hàn Quốc, Đức, …
Ngoài ra, Luận văn còn tham khảo các công trình khoa học, bài viết nghiên
cứu, bài báo… trong và ngoài nước dưới giác độ kinh tế - tài chính và pháp lý.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn có kế thừa và sử dụng một số kết quả nghiên cứu của các đề
tài nghiên cứu về lĩnh vực BHTG trong và ngoài nước để tham khảo và luận
giải các vấn đề có liên quan đến BHTG. Vận dụng phương pháp nghiên cứu
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, phỏng vấn, đánh giá việc vận hành, xây dựng chính
sách BHTG…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời Mở đầ u, Kế t luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn bao gồm 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm tiền gửi và mô hình tổ
chức, quản trị, điều hành bảo hiểm tiền gửi.
Chương 2: Thực trạng mô hình tổ chức, quản trị, điều hành bảo hiểm
tiền gửi theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức, quản
trị, điều hành BHTG tại Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ MÔ HÌNH
TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
BHTG đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Từ năm 1829 hoạt động
BHTG công khai được thực hiện tại Mỹ nhằm phòng ngừa sự đổ vỡ mang
tính chất định kì của ngân hàng vào thế kỉ XIX. Tuy nhiên, đến năm 1933
khi tình hình tài chính ở Mỹ bị rối loạn, nền kinh tế bị lâm vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng, hàng loạt các ngân hàng bị phá sản, cơ quan
BHTG công khai của Nhà nước ở Mỹ lần đầu tiên mới ra đời (FDIC), nhằm
củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ người gửi
tiền. Từ đó cho đến nay các quốc gia trên thế giới cũng lần lượt cho ra đời
các tổ chức BHTG nhằm bảo vệ người gửi tiền trước nguy cơ phá sản của
các tổ chức tài chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn
chế các cuộc khủng hoảng tài chính.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống tài chính - ngân hàng
trên thế giới, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, nhu
cầu về bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng là nhu cầu
đặt ra với bất kể Chính phủ nào. Niềm tin của người gửi tiền là quan trọng đối
với sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính trong thế giới
hiện đại. Với những ưu thế và tính chuyên nghiệp trong việc bảo vệ người gửi
tiền, góp phần đảm bảo sự ổn định của hoạt động tài chính - ngân hàng, hệ
thống BHTG công khai ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới. BHTG
được xác định không chỉ bảo vệ người gửi tiền mà còn được khẳng định như
một tiêu chí, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của
TCTD. Tính đến 10/2014, theo khảo sát thường niên của Hiệp hội BHTG Quốc
7
tế (IADI), trên thế giới hiện có 113 tổ chức BHTG đang hoạt động và có 40 tổ
chức BHTG đang trong quá trình nghiên cứu thành lập [4, tr.317].
Bảng 1.1: Tên gọi, thời gian thành lập BHTG ở một số nước trên thế giới
STT
Tên tổ chức BHTG
Thời gian
thành lập
1933
1.
Tổng công ty BHTG Liên bang Mỹ (FDIC)
2.
Tổng công ty BHTG Canada (CDIC)
1967
3.
Tổng công ty BHTG Nhật Bản (DICJ)
1971
4.
Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC)
1996
5.
Tổng công ty BHTG Philippines (PDIC)
1963
6.
Tổng công ty BHTG Malaysia (MDIC)
2005
7.
Tổng công ty BHTG Đài Loan (CDIC Taiwan)
1985
8.
Tổng công ty BHTG Canada (CDIC)
1967
(Nguồn: Tổng hợp từ DIV: ).
Vậy BHTG là gì?
Theo Luật BHTG Canada 2011, BHTG: “là bảo hiểm cho những tổn thất
một phần hoặc toàn bộ tiền gửi” [6, Khoản 2]; Theo Luật BHTG Việt Nam 2012,
BHTG: “là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được BHTG trong hạn mức
trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi
trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản [31, Điều 4, Khoản 1].
Theo đó, BHTG là: “cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ
chức tham gia BHTG và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi
được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt
hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền” [47].
BHTG cũng là một loại hình bảo hiểm, theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi
trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham
gia BHTG khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, và bị phá sản.
Tổ chức BHTG: “là tổ chức tài chính nhà nước do Thủ tướng Chính
8
phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ”; “là pháp nhân, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi
phí” [10, Điều 3, Khoản 1, 2].
Tổ chức tham gia BHTG: “là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
được nhận tiền gửi của cá nhân” [10, Điều 4, Khoản 1].
Theo thông lệ quốc tế, hiện nay trên thế giới có hai xu hướng tham gia
BHTG, đó là các tổ chức tham gia BHTG có thể tham gia BHTG một cách
bắt buộc hoặc tham gia tự nguyện. Điều này tùy thuộc vào chính sách tài
chính – ngân hàng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, qua nghiên cứu ở các nước,
cho thấy xu hướng phổ biến hiện nay là tham gia BHTG bắt buộc. Khi tham
gia BHTG các tổ chức này có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức
BHTG và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho người
gửi tiền tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này bị mất khả năng thanh
toán và bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.
Người được BHTG “là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi” [31, Điều 4, Khoản 2]. Người gửi tiền không
phải đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG nhưng có quyền yêu cầu tổ chức
BHTG thanh toán tiền gửi kể cả tiền gốc và tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó
trong hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức BHTG có thể là
toàn bộ hoặc một phần tiền gửi do chính sách của mỗi quốc gia.
BHTG có thể được thực hiện trong phạm vi hạn chế (các khoản tiền gửi
được bảo hiểm đến một giới hạn nhất định) hoặc được bảo hiểm toàn bộ (mọi
người gửi tiền và tất cả các khoản tiền gửi đều được bảo hiểm). Điều này còn
phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước, trong từng giai
đoạn khác nhau. Ví dụ, vào thời kì nền kinh tế ổn định, thị trường tài chính
phát triển, các quốc gia thường áp dụng cơ chế bảo hiểm có giới hạn các
khoản tiền gửi nhằm củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính,
9
duy trì sự ổn định hoạt động của hệ thống này. Khi nền kinh tế bị khủng
hoảng, thường áp dụng cơ chế bảo hiểm toàn bộ nhằm ngăn chặn một cách
hữu hiệu hiện tượng rút tiền đồng loạt, bởi lẽ người gửi tiền trong trường hợp
này hoàn toàn tin tưởng rằng BHTG sẽ bảo vệ quyền lợi của họ một cách triệt
để khi ngân hàng nào đó bị đổ vỡ (ví dụ như một số nước đã làm Hàn Quốc,
Mehico, Nhật bản…).
Tại Việt Nam, BHTGVN (Deposit in Insurance of Vietnam – tên viết
tắt: DIV) là một định chế tài chính nhà nước, được ngân sách cấp vốn điều
lệ ban đầu là 1.000 tỉ, nay tăng lên 5.000 tỉ đồng, hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
BHTG cũng mang bản chất của các loại hình bảo hiểm nói chung,
tức là hoạt động theo nguyên lý lấy số đông bù số ít nhưng bên cạnh đó nó
còn mang tính chất đặc thù, đó là:
Hoạt động của tổ chức BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ công,
có nghĩa là BHTG là công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách công,
không vì mục tiêu lợi nhuận của từng quốc gia. Trong thực tế, hoạt động tài
chính - ngân hàng là hoạt động nhạy cảm, gắn với tính lan truyền rất cao;
đồng thời sự đổ vỡ của hệ thống tài chính - ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến
toàn bộ nền kinh tế và gây ra những bất ổn về mặt xã hội. Do đó, Chính
phủ các quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính là BHTG nhằm góp phần
đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính - ngân
hàng và ổn định xã hội.
BHTG có những đặc điểm như sau:
Chủ thể tham gia BHTG chỉ có thể là tổ chức tài chính có nhận tiền gửi
của công chúng dưới các hình thức nhất định. Với một hệ thống BHTG công
khai thì sự tham gia của các tổ chức tài chính là bắt buộc, nhằm tạo sân chơi
10
bình đẳng giữa các tổ chức này, tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức BHTG.
Bên cạnh đó rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối tượng đa dạng, tránh tình
trạng chỉ có ngân hàng, TCTD yếu kém mới mua bảo hiểm, còn những ngân
hàng, TCTD hoạt động tốt thì không mua bảo hiểm. Trên cơ sở đó làm giảm
mức độ rủi ro của bản thân tổ chức BHTG và gánh nặng của Chính phủ trong
việc hỗ trợ tài chính chi trả bảo hiểm. Ở điểm này, ta thấy BHTG khác với các
loại hình bảo hiểm khác có thể bắt buộc và có thể tự nguyện như bảo hiểm xã
hội, hoặc tham gia hoàn toàn do ý chí các bên như loại hình kinh doanh bảo
hiểm theo luật kinh doanh bảo hiểm.
Phí BHTG là khoản phí do pháp luật quy định. Các bên tham gia quan
hệ BHTG không thể thoả thuận về mức phí như các loại hình bảo hiểm khác.
Các hệ thống BHTG trên thế giới thường đứng trước sự lựa chọn hai loại phí
bảo hiểm: phí đồng hạng hoặc phí căn cứ vào mức độ rủi ro của từng ngân
hàng. Các nước khi mới thành lập hệ thống BHTG thường áp dụng mức phí
bảo hiểm đồng hạng để dễ thực hiện và quản lí. Tuy nhiên, chế độ phí này
không đề cập tới mức độ rủi ro của từng ngân hàng đối với hệ thống nên
không đảm bảo tính công bằng, dễ gây những phản ứng từ phía các ngân
hàng “mạnh”, có quy mô và uy tín lớn trên thị trường. Do vậy, xu hướng
những năm 90 của thế kỉ XX trở lại đây, các nước chuyển đổi sang chế độ
tính phí theo mức độ rủi ro. Theo cách tính phí này, cơ sở để xác định tỉ lệ
phí BHTG là kết quả phân loại tổ chức tham gia BHTG. Ngân hàng nào hoạt
động với mức độ rủi ro lớn sẽ phải chịu tỉ lệ phí BHTG cao, ngược lại ngân
hàng nào hoạt động tốt, rủi ro thấp sẽ được áp dụng tính phí thấp và còn có
thể được miễn phí. Việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro trong hoạt
động của tổ chức tham gia BHTG tạo ra cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ
chức này và thể hiện xu thế thị trường trong hoạt động BHTG. Bên cạnh đó,
nó còn góp phần hạn chế rủi ro đạo đức phát sinh. Nếu áp dụng cùng một
11
mức phí, các ngân hàng dễ hoạt động bất cẩn, huy động vốn với lãi suất cao,
hoạt động đầu tư với độ rủi ro lớn và luôn an tâm là các khoản tiền gửi của
khách hàng vẫn được bảo hiểm. Trong trường hợp này, hệ thống ngân hàng
dễ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng do các ngân hàng bị “yếu đi”, đổ bể,
mất uy tín trên thương trường và tổ chức BHTG cũng phải chịu hậu quả
nặng nề liên quan đến các khoản chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền. Mỹ là
nước tiên phong triển khai cách tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro vào
năm 1993, mặc dù trong một thời gian dài kể từ khi tổ chức BHTG công
khai của Nhà nước – FDIC được thành lập năm 1933, Mỹ đã áp dụng cơ chế
tính phí đồng hạng. Tuy nhiên, việc tính phí dựa vào mức độ rủi ro của từng
ngân hàng cũng đòi hỏi phải có nguồn lực để quản lí hệ thống một cách
thích hợp và xác định cụ thể những phương pháp, những tiêu chí – là cơ sở
tin cậy cho việc phân loại rủi ro của ngân hàng. Nó được xác định bởi mục
tiêu của việc áp dụng chế độ tính phí này là khuyến khích các ngân hàng
không tiến hành quá nhiều những hoạt động rủi ro và tạo sự công bằng trong
việc tính phí, đóng góp vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Các nước
thường dựa vào các tiêu chí định tính và định lượng để tính mức độ rủi ro,
tuy nhiên theo xu hướng giảm dần các tiêu chí định tính, tăng các tiêu chí
định lượng. Ví dụ, ở Pháp cách tính phí này xuất hiện từ năm 1999 dựa vào
sự kết hợp các tỉ lệ an toàn và phân tích rủi ro tài chính đối với số lượng tiền
gửi của từng ngân hàng hội viên.
Ngoài ra, một chỉ số “rủi ro tổng hợp” hình thành từ 4 tiêu chí về khả
năng thanh toán, khả năng sinh lời, phân tán rủi ro và hoán đổi kì hạn giữa
tài sản nợ và tài sản có cũng được sử dụng. Mức phí bổ sung khác nhau cho
từng ngân hàng được tính toán căn cứ vào những tiêu chí của hệ thống
CAMEL của cơ quan thanh tra và những chỉ số xác định mức vượt hoặc
thiếu vốn so với mức tối thiểu bắt buộc và chất lượng tín dụng. Cơ quan
12
BHTG của Mỹ (FDIC) xem xét đánh giá mức độ rủi ro của ngân hàng thông
qua hệ thống CAMELS (hệ thống đánh giá tình trạng vững mạnh của các tổ
chức tài chính).
Đối tượng được bảo hiểm rất đặc biệt đó là: nghĩa vụ thanh toán các
khoản tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi. Người nộp phí
BHTG tách rời người thụ hưởng bảo hiểm. Có thể nói, rủi ro tiền gửi có mối
liên quan mật thiết với hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Việc xác định
loại tiền gửi nào được bảo hiểm, là cơ sở tính phí BHTG định kì phụ thuộc
vào chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia. Nguyên tắc hoạt động BHTG nói
chung là bảo vệ người gửi tiền nhỏ. Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của cá nhân
bằng nội tệ là loại tiền gửi mà đến nay tất cả các hệ thống BHTG trên thế giới
đều bảo vệ. Việc loại trừ những khoản tiền gửi được bảo hiểm cũng như quy
định mức BHTG tối đa nhằm giảm thiểu rủi ro cho chính tổ chức BHTG và
nâng cao trách nhiệm quản lí hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia
BHTG. Các khoản tiền gửi không được bảo hiểm thường là bằng ngoại tệ
hoặc là tiền gửi của các tổ chức. Việc quyết định bảo hiểm cho đồng ngoại tệ
hay không là một vấn đề nan giải đối với mỗi quốc gia. Ở những quốc gia mà
tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm tỉ lệ thấp, các giao dịch chủ yếu được thực hiện
thông qua đồng nội tệ thì việc loại trừ đối tượng bảo hiểm là đồng ngoại tệ là
điều dễ dàng được chấp nhận. Ở những nước đang phát triển, việc loại trừ
đồng ngoại tệ thường gắn với lí do bảo vệ đồng nội tệ, không muốn đồng
ngoại tệ được sử dụng trong các quan hệ giao dịch. Tiền gửi liên ngân hàng
thường không được bảo hiểm vì đây là tiền gửi của các tổ chức kinh doanh
trực tiếp tiền tệ, có cơ hội tiếp cận tốt các thông tin và kiểm soát được mức độ
rủi ro đối với các khoản tiền của họ. Trong khi đó, chính sách BHTG có mục
tiêu bảo vệ người gửi tiền có thu nhập thấp và bị hạn chế bởi khả năng tiếp
cận thông tin ngân hàng. Ngoài ra, tiền của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã
hội cũng hay bị loại trừ, không được bảo hiểm bởi lẽ tiền gửi trong tài khoản
13
của các chủ thể này không thuần tuý nhằm mục tiêu tích luỹ, tiết kiệm mà
thường để thực hiện các giao dịch thanh toán liên quan đến hoạt động của tổ
chức. Vì vậy các tổ chức này có cơ hội nắm bắt các thông tin về ngân hàng
mà họ quyết định gửi tiền, không nhất thiết phải thuộc đối tượng được bảo vệ
trực tiếp của chính sách BHTG.
1.1.3. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền: Đây là mục tiêu hàng đầu của
BHTG. Tổ chức BHTG sinh ra là để bảo vệ quyền lợi của những người gửi
tiền tại các ngân hàng và các định chế tài chính khác khi họ gặp rủi ro. Người
gửi tiền chính là những người cho các ngân hàng vay tiền hoặc có những
khoản tiền có tính chất như các khoản tiền gửi tại một số định chế tài chính
khác như tiền trên tài khoản kinh doanh chứng khoán tại công ty chứng
khoán, hoặc tiền tại các công ty bảo hiểm. Do vậy, người gửi tiền là những
người rất dễ bị tổn thương nhưng lại không có khả năng tự bảo vệ mình, vì
những thiệt hại của họ không đến từ chính bản thân họ mà đến từ rủi ro của
những ngân hàng và các định chế tài chính kinh doanh bằng đồng tiền của họ.
Ở Việt Nam, hiện tượng rút tiền ồ ạt tại NHTMCP Á Châu vào tháng
10/2003, NHTMCP Phương Nam năm 2008, là một minh chứng điển hình.
Hiện tượng này nếu không được xử lí kịp thời bằng các biện pháp nhất
định có thể là nguyên nhân dẫn đến việc rút tiền hàng loạt tại các ngân
hàng, gây nên cuộc khủng hoảng tài chính.
Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, nhất là những người
gửi tiền nhỏ, ít có khả năng tự bảo vệ cần phải có một tổ chức đứng ra bảo
hiểm cho tiền gửi của họ. Điểm đặc biệt của hình thức bảo hiểm này là người
được bảo hiểm (người được hưởng quyền lợi bảo hiểm, cũng tức là người gửi
tiền) không phải là người tham gia bảo hiểm và trả phí bảo hiểm mà là các tổ
chức nhận tiền gửi (tất nhiên các tổ chức nhận tiền gửi là người trả phí). Đây
14
là mối quan hệ ba bên giữa tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người
gửi tiền. Đây cũng là điểm khác biệt so với bảo hiểm thương mại. Khi cơ
quan BHTG cấp chứng nhận tham gia BHTG cho tổ chức tham gia BHTG là
xác lập mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG về việc
phải chi trả tiền cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản. Ở
đây, không có mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và người gửi tiền. Giữa cơ
quan BHTG và người gửi tiền không thông qua hợp đồng ràng buộc nào.
Nhưng ở bảo hiểm thương mại, tổ chức bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm
phải thông qua một hợp đồng tự nguyện hoặc thỏa thuận. Vì vậy, BHTG trở
thành hình thức bảo hiểm bắt buộc đối với các tổ chức nhận tiền gửi của
người gửi tiền.
Bảo đảm sự an toàn của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia, tránh đổ
vỡ dây chuyền hoặc khủng hoảng: BHTG trước hết tạo ra cơ chế giám sát,
cảnh báo, ngăn chặn và hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG phòng tránh rủi ro
trong kinh doanh. Sau nữa, hệ quả của việc BHTG mang lại chính là tạo tâm
lý an toàn cho tất cả những người gửi tiền, tránh tình trạng rút tiền đồng loạt
của những người gửi tiền khi có sự đổ vỡ của một hoặc một vài ngân hàng,
ngăn chặn được sự lây lan trong đổ vỡ tín dụng, tạo hiệu ứng dây chuyền
trong hệ thống các ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi. Từ đó góp phần
rất lớn vào bảo đảm an toàn hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia và tránh
được những đổ vỡ có tính dây chuyền, thường là căn nguyên của những cuộc
khủng hoảng tài chính, thậm chí là khủng hoảng kinh tế.
Tạo ra một cơ chế BHTG chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân
hàng: BHTG trên thực tế có thể được thực hiện một cách công khai hoặc
ngầm, tuy nhiên BHTG công khai sẽ hữu ích hơn đối với người gửi tiền, vì
hình thức này gắn với luật pháp điều chỉnh, gắn với trách nhiệm của tổ chức
tài chính Nhà nước (tổ chức thay mặt Nhà nước bảo vệ quyền lợi của người
15
gửi tiền), lợi ích của người gửi tiền được bảo đảm bằng những chính sách
công khai, minh bạch và dịch vụ tư vấn của hệ thống BHTG. Nhờ đó, người
gửi tiền biết được cách sử dụng tiền một cách hiệu quả nhất, kể cả khi tổ
chức tham gia BHTG bị lâm vào tình trạng phá sản họ cũng không bị “mất
trắng” số tiền gửi của mình. Một hệ thống BHTG công khai giúp cảnh báo
sớm về những “trục trặc” trong hoạt động và liên quan đến khả năng tài
chính của các tổ chức nhận tiền gửi, thông qua đó giảm thiểu rủi ro cho hệ
thống ngân hàng. Nhờ có chức năng giám sát an toàn hệ thống mà hoạt động
BHTG công khai thông qua tổ chức tài chính Nhà nước có những ưu điểm
nhất định so với bảo hiểm của các quỹ BHTG. Các quỹ này chỉ thực hiện
chức năng chi tiền mặt cho người gửi tiền sau khi tổ chức nhận tiền gửi bị
phá sản. Trong khi đó, bảo hiểm của tổ chức tài chính Nhà nước không chỉ
thực hiện chức năng đó mà còn nhằm ngăn chặn sự phát triển của các khoản
nợ xấu, nợ khó đòi, hạn chế những rủi ro tiềm ẩn dẫn đến sự đổ vỡ của các
ngân hàng thông qua hoạt động không chỉ giám sát, mà còn cả hoạt động hỗ
trợ tài chính dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ, hoặc mua
bán, sát nhập… cho các ngân hàng trước khi lâm vào tình trạng phá sản.
Giảm gánh nặng tài chính cho Chính phủ, tạo sự công bằng và động
lực cạnh tranh cho các tổ chức tham gia BHTG: Tổ chức BHTG được lập ra
là để giúp Chính phủ gánh vác trách nhiệm bảo hiểm cho người gửi tiền. Ở
nhiều quốc gia, tổ chức BHTG là những doanh nghiệp thực sự, tự chịu trách
nhiệm và có đủ năng lực tài chính để xử lý những đổ vỡ ngân hàng, Chính
phủ không cần thiết phải can thiệp hoặc chỉ can thiệp, hỗ trợ khi có khủng
hoảng. Ở một số quốc gia, năng lực tài chính của tổ chức BHTG lớn mạnh
đến mức giảm thu phí, hoặc không thu phí của tổ chức tham gia BHTG trong
một thời gian. Ngoài ra, việc thu phí bảo hiểm được áp dụng theo cơ chế
định phí trên cơ sở định mức tín nhiệm (cũng tức là định mức rủi ro). Ngân
16
hàng nào hoạt động an toàn, có uy tín càng cao thì mức phí bảo hiểm phải
nộp càng thấp, và ngược lại, ngân hàng nào có uy tín thấp, độ rủi ro cho
người gửi tiền càng cao thì mức phí bảo hiểm phải nộp càng lớn. Từ đó, tạo
ra sự công bằng cũng như động lực cho sự cạnh tranh trong hoạt động của
các tổ chức tham gia BHTG.
Một mục tiêu nữa và cũng là hệ quả tất yếu của hoạt động BHTG là tạo
niềm tin và tâm lý an toàn cho người dân đối với các tổ chức nhận tiền gửi.
Từ đó, khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm, qua đó thúc đẩy tăng
trưởng thị trường tài chính - tiền tệ và nền kinh tế.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức BHTG với tư cách là một tổ chức bảo hiểm, hoạt động theo
những nguyên lý của bảo hiểm. Trong kinh tế hiện đại, tổ chức BHTG làm
nhiệm vụ thu phí của nhiều người tham gia bảo hiểm để bù đắp, để khắc phục
hậu quả cho một số ít người bị rủi ro. Tổ chức BHTG có và phải thực hiện
được vai trò nhất định trong việc tham gia quản lý rủi ro của các NHTM, các
tổ chức tham gia bảo hiểm khác, và hơn nữa là có vai trò trong giám sát và
góp phần bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia.
Ở các nước phát triển, tham gia giám sát và bảo đảm an toàn hệ thống
tài chính quốc gia thường bao gồm các cơ quan như: Bộ Tài chính, NHTW, tổ
chức BHTG và cơ quan giám sát quốc gia về tài chính, tiền tệ. Trong đó, tổ
chức BHTG có vai trò không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ giám sát an toàn, phối hợp hoạt động, chia sẻ thông tin và cùng chịu
trách nhiệm với các cơ quan khác về sự an toàn và phát triển lành mạnh của
hệ thống tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt rõ rằng, vai trò
tham gia giám sát, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia của
BHTG không phải với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tài chính,
NHNN Việt Nam hiện nay mà là một định chế tài chính độc lập cùng gánh
17