Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.98 KB, 19 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU,ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

-Tên sáng kiến kinh nghiệm:
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN
CHO HỌC SINH LỚP 9

Trang 1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1.Lời giới thiệu:
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn THCS,tôi nhận thấy phân
môn Tập làm văn đối với học sinh là phần quan trọng và khó bởi qua nội dung
này sẽ giúp các em tạo lập văn bản.Trong phần tập làm văn,phần Nghị luận văn
học sẽ giúp các em hình thành,phát triển khả năng lập luận chặt chẽ,trình bày
những lí lẽ,dẫn chứng giàu sức thuyết phục khi bày tỏ ý kiên của mình về một
tác phẩm văn học nào đó.
Nhưng đối với học sinh THCS thì kĩ năng viết văn của các em còn nhiều hạn
chế như: bài viết rời rạc,khô khan,dùng câu từ chưa chính xác,bố cục chưa rõ
ràng,lập luận chưa có sức thuyết phục,vốn từ nghèo nàn nên diễn đạt lủng
củng,tối nghĩa,mắc lỗi chính tả….
Xuất phát từ thực trạng trên, bản thân tôi xin nêu một vài ý kiến kinh nghiệm
trong quá trình giảng dạy với mục đích trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp qua
sáng kiến: “Rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 9”.Với phạm
vi của sáng kiến kinh nghiệm ,tôi xin tập trung vào kiểu bài rèn luyện cho học
sinh kĩ năng viết bài văn nghị luận về tác phẩm văn học.
2. Tên sáng kiến: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CHO
HỌC SINH LỚP 9.
3. Tác giả sáng kiến:


- Họ và tên:
- Địa chỉ tác giả sáng kiến:
- Số điện thoại :

E-mail:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến :
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng vào giờ dạy môn Ngữ Văn 9 có nội
dung liên quan đến viết văn nghị luận .
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
- Về nội dung của sáng kiến:
7.1.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :
7.1.1. Đối tượng :
-Một số bài viết của học sinh .
7.1.2 . Phương pháp:
* Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu tài liệu,đối chiếu so sánh đưa ra đề xuất để
giáo viên vận dụng.
Trang 2


-Phương pháp khảo sát thực tế,quan sát, trao đổi.
-Phương pháp phân tích, so sánh.
-Phương pháp thống kê.
-Phương pháp tổng kết kinh nghiệm .
7.2. Các biện pháp thực hiện:
Làm Tập làm văn nghị luận là hoạt động tổng hợp kiến thức Văn học, tiếng
Việt, Tập làm văn. Vì vậy :
7.2.1 . Đối với Giáo viên :
-Cần phát huy tối đa tính tích cực chủ động của học sinh.

- Có phương pháp dạy lí thuyết Tập làm văn nghị luận văn học, chú trọng
cách làm bài, hướng nhiều vào việc thực hành để rèn luyện kĩ năng cho các em:
Kĩ năng phân tích đề, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, kĩ năng viết đoạn, kĩ năng liên
kết đoạn văn.
-Hướng dẫn học sinh cảm thụ tốt văn bản ,vận dụng tốt kiến thức tiếng
Việt để chuẩn bị tốt cho việc viết bài Tập làm văn .
- Khi dạy học sinh về thể văn nghị luận văn học, giáo viên cần chú trọng
cho học sinh khai thác cái đẹp, cái hay của tác phẩm về nội dung và nghệ thuật,
thấy được chiều sâu tư tưởng của tác giả gửi gắm vào đấy để từ đó giúp học sinh
có kĩ năng sống phù hợp với xã hội hiện đại, sống có trách nhiệm với mọi người,
biết rung động cảm thụ để lĩnh hội kiến thức cơ bản.
- Người giáo viên cần giúp học sinh xác định được trọng tâm kiến thức để
học sinh nắm được vấn đề đặt ra trong tác phẩm mà từ đó có cách viết, cách thể
hiện cảm xúc của mình khi tạo lập văn bản.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quy trình thực hành một bài viết về
nghị luận tác phẩm văn học: từ khâu mở bài, thân bài đến kết bài, từ nghị luận
được một câu thơ đến hai câu thơ rồi đến cả đoạn, các đoạn rồi viết thành bài, để
từ đó giáo viên nâng dần kĩ năng viết văn cho các em.
-Thực hiện tốt việc ra đề, chấm bài, thực hiện tốt và coi trọng tiết trả bài
7.2.2 . Đối với học sinh :
- Để viết tốt, viết hay, giáo viên cần giúp học sinh có ý thức yêu thích học
bộ môn Ngữ văn để từ đó các em có tâm thế, có thái độ tốt khi chiếm lĩnh tri
thức của tác phẩm văn học.
- Học sinh cần chuẩn bị tốt bài ở nhà, đọc kĩ văn bản, thuộc dẫn chứng,
nắm chắc kiến thức, nắm cách làm bài, viết bài, biết viết câu hay, ý hay qua quá
trình hướng dẫn rèn luyện kĩ năng thực hành của thầy cô giáo. Học sinh biết
sáng tạo khi làm bài, biết xây dựng đoạn, liên kết đoạn, biết xây dụng bố cục
mạch lạc, rõ ràng, chặt chẽ.
- Đọc sách báo để mở rộng kiến thức,nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt
Trang 3



- Biết vận dụng lí thuyết vào thực hành. Thành thạo các thao tác nghị luận
,mạnh dạn trình bày cảm thụ riêng của bản thân trước một tác phẩm văn học.
7.3. Cơ sở khoa học :
7.3.1. Cơ sở lí luận:
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, ngành giáo dục đang có những bước
chuyển mình theo nhịp bước của thời đại. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy
học là vấn đề cần thiết và quan trọng trong tình hình hiện nay. Mà một trong
những biện pháp tối ưu trong quá trình dạy học là phương pháp dạy học tích cực
và dạy học theo chuẩn kiến tức và kĩ năng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo
dục ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú
trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng nói và viết cho học sinh, nhất là rèn
luyện kĩ năng viết văn nghị luận về tác phẩm văn học ở bậc Trung học cơ sở
theo chuẩn kiến thức và kĩ năng mà ngành yêu cầu.
7.3.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình làm bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì, thi
tuyển vào lớp 10 ở môn Ngữ văn nhiều năm qua, học sinh làm bài văn nghị luận
về tác phẩm văn học: Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, nghị luận
về nhân vật, nghị luận về tác phẩm thơ, đoạn thơ thì còn rất nhiều hạn chế. Bài
làm của học sinh thường sơ sài, chung chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có
khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dòng là hết, có nhiều em không
biết mở bài, không biết xây dựng luận điểm và thể hiện luận điểm… Thực trạng
ấy làm cho đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải trăn trở, phải suy nghĩ, mà
nguyên nhân chính là học sinh không có kĩ nẵng viết bài, không có định hướng
khi làm bài nghị luận văn học. Do đó chúng ta cần phải có cách dạy như thế nào,
học sinh cần phải có cách học như thế nào để có hiệu quả giáo dực ngày một đi
lên, đó là vấn đề mà thầy cô giáo cần phải quan tâm và chú trọng.
7.4. Các yêu cầu đối với học sinh và giáo viên:
7.4.1. Đối với học sinh:

Do đặc điểm của môn Ngữ văn, học sinh phải tự học, tự tìm tòi là chính.
Chuẩn bị bài, đọc tác phẩm, xem chú thích, trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa,
tham khảo sách, vận dụng kiến thức cũ. Về nhà suy ngẫm, chiêm nghiệm, làm
phong phú cho nhận thức của mình… Đây cũng chỉ là cách học thích hợp cho
học sinh khá, giỏi nhưng đối với học sinh trung bình trở xuống thì các em khó
thự hiện được như thế.
Do đó, giáo viên cần tập trung chỉ cho học sinh không những biết cách
học mà còn biết cách làm bài. Từ khâu tìm hiểu đề, tìm ý – lập dàn bài – viết bài
(cách tổ chức triển khai luận điểm thành đoạn văn). Trong các khâu ấy, học sinh
cần nắm được kĩ năng viết đoạn văn.
7.4.2. Đối với giáo viên:
Cần định hướng trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh trong việc viết
đoạn văn ở từng phần khi làm bài nghị luận văn học. Trong các khâu tự tìm
Trang 4


hiểu đề cho đến viết bài, học sinh yếu – kém thường bỏ qua khâu tìm hiểu đề,
tìm ý, lập dàn ý. Cho nên đọc xong đề là các đối tượng học sinh này bắt tay vào
việc làm bài ngay. Do đó, giáo viên cần cho học sinh hiểu cách trình bày khi đọc
xong đề. Xem đề bài yêu cầu phân tích hay suy nghĩ, cảm nhận mà từ đó có định
hướng khi làm bài. Giáo viên phải cho học sinh hiểu và nắm được yêu cầu của
đề bài.
7.5. Hướng dẫn học sinh các bước chuẩn bị cho viết bài văn :
7.5.1.Tìm hiểu đề và tìm ý :
a. Hướng dẫn tìm hiểu đề :
Đề bài nghị luận không bao giờ đồng nhất một dạng đề đơn điệu, thường có
ba dạng cơ bản sau :
* Kiểu bài phân tích: Nói tới phân tích tức là nói tới việc mổ xẻ, chia tách đối
tượng ra thành các phương diện, các bộ phận khác nhau để tìm hiểu, khám phá,
cắt nghĩa. Cái đích cuối cùng là nhằm để tổng hợp, khái quát, chỉ ra được sự

thống nhất. Như vậy, phân tích là yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét
của người viết (người nói).
* Kiểu bài nêu suy nghĩ: Là nhận xét, nhận định, phân tích về tác phẩm của
người viết ở góc nhìn nào đó về chủ đề, đề tài, hình tượng nhân vật, nghệ
thuật…
* Kiểu bài nêu cảm nhận: Là cảm thụ của người viết về một hay nhiều ấn
tượng mà tác phẩm để lại sâu sắc trong lòng người đọc về nội dung hay nghệ
thuật hoặc cả nội dung và nghệ thuật.
Như vậy, từ việc phân tích chỉ định về phương pháp, từ suy nghĩ nhấn
mạnh tới nhận định, phân tích, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của
người viết. nếu học sinh không hiểu thì đề bài yêu cầu gì đi nữa thì học sinh đều
phân tích hết.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt rõ yêu cầu của từng dạng đề. Từ
việc phân tích ba dạng đề trên,giúp học sinh nhận biết tầm quan trọng của việc
phân tích tìm hiểu đề và biết vận dụng thành thạo, linh hoạt để hình thành những
thao tác và kĩ năng phân tích đề chính xác,làm cơ sở cho việc tìm ý.
b. Hướng dẫn tìm ý :
Một bài nghị luận tác phẩm hay trước hết phải có ý hay. Làm thế nào để tìm ra
những ý hay cho bài văn, giáo viên cần :
+Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu tác phẩm để nắm chắc nội dung ,chủ
đề,các chi tiết hình ảnh tiêu biểu…Khái quát được giá trị đặc sắc về nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.
+ Sau khi đọc kĩ tác phẩm, khám phá được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc trong
từng yếu tố nội dung ,nghệ thuật. Học sinh tự đặt ra câu hỏi để có những ý lớn, ý
nhỏ…của bài văn. Dưới đây là những câu hỏi gợi ý giúp học sinh tìm ý:
(? ) .Câu hỏi tìm hiểu tác giả,xuất xứ,hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm:
Trang 5


-Tác giả của tác phẩm nghị luận là ai? Có nát gì nổi bật trong cuộc đời và sự

nghiệp sáng tác? Có nét riêng gì về phong cách cá nhân ?
-Tác phẩm được trích từ đâu ?Sáng tác trong hoàn cảnh nào ? Tác phẩm được
đánh giá như thế nào?
( ? ). Câu hỏi tìm hiểu giá trị nội dung :
-Đề bài gồm mấy ý? Ý nghĩa cụ thể và khái quát là gì? Ý nào tập trung thể hiện
chủ đề, tư tưởng của tác phẩm? Có giá trị nhân văn như thế nào ?
-Nhân vật chính của truyện ?Nhân vật ấy đại diện cho tầng lớp nào? Có nét tính
cách nào nổi bật? Nét tính cách ấy được thể hiện như thế nào?
-Cảm xúc chủ yếu được thể hiện qua từng đoạn thơ, khổ thơ? Cảm xúc ấy được
biểu hiện như thế nào?
(? ) .Câu hỏi tìm hiểu giá trị nghệ thuật :
-Tác phẩm được viết theo phong cách nào? Có nét gì sáng tạo trong nghệ thuật?
-Tác phẩm đó có tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả không ?
( ? ).Câu hỏi gợi mở những hướng xem xét mới:
-Có thể so sánh với tác giả ,tác phẩm nào để phân tích tác phẩm được sâu rộng?
-Tác phẩm có ảnh hưởng tích cực như thế nào đối với thời đại (cuộc sống).
* Với ngần ấy câu hỏi,giáo viên không thể nào giảng giải một cách cặn kẽ, tỉ mỉ
trong quá trình phân tích một đề bài trên lớp. Do đó, đòi hỏi giáo viên phải biết
lựa chọn những câu hỏi tìm ý cho phù hợp để từ đó kích thích hứng thú ,tư duy
làm bài của các em được sau sắc và tinh tế nhất.
7.5.2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý :
- Lập dàn ý là sắp xếp các ý đã tìm được ở bước tìm ý theo một trình tự hợp lí và
xác định mức độ trình bày mỗi ý theo tỉ lệ thỏa đáng giữa các ý. Có thể hướng
dẫn học sinh sắp xếp các ý theo trình tự nội dung đến nghệ thuật rồi rút ra nhận
xét, đánh giá, suy nghĩ của bản thân (thường dành cho tác phẩm truyện). Có thể
đan xen giữa nội dung, nghệ thuật và nhận xét, đánh giá, suy nghĩ ( thường dành
cho tác phẩm thơ). Dàn bài nghị luận về tác phẩm văn học thường theo trình tự:

a. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm(đoạn trích), nêu ý kiến đánh giá nhận xét sơ
bộ của mình.

b. Thân bài: Trình bày ý kiến đánh giá về nội dung,nghệ thuật của tác phẩm.
( lần lượt nêu các luận điểm, phân tích, chứng minh bằng các luận
cứ lấy trong tác phẩm)
Trang 6


c. Kết bài:

Nhận định khái quát giá trị nội dung, ý nghĩa của tác phẩm hoặc
đoạn trích.

* Lưu ý: Học sinh khi lập dàn ý tránh các lỗi lạc ý, ý không phù hợp với nội
dung,thiếu ý, lặp ý, sắp xếp ý lộn xộn.
7.6. Hướng dẫn học sinh cách làm và viết đoạn văn nghị luận văn học:
Trong chương trình, học sinh học nghị luận văn học về tác phẩm truyện
hoặc đoạn trích; về một đoạn thơ, bài thơ. Riêng nghị luận về tác phẩm truyện
(hoặc đoạn trích) có thể đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau như: về chủ đề, sự
kiện, nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật…. Giáo viên cần tập trung vào nghị luận
về nhân vật văn học theo yêu cầu của sách giáo khoa.
Hướng dẫn học sinh viết bài văn phải có bố cục đầy đủ gồm ba phần: mở
bài, thân bài, kết bài.
Đối với bài thơ học sinh phải xác định được bố cục. Phân tích theo lối cắt
ngang ở từng đoạn thơ, khổ thơ.
Từ văn bản thơ, học sinh tiến hành chia đoạn và tìm những ý chính của
mỗi đoạn. đối với từng khổ thơ, đoạn thơ, câu thơ vẫn có thể chia tách ra thành
các ý nhỏ được. sau khi tìm được ý chính của mỗi đoạn thì biến những ý chính
ấy thành các luận điểm.
Ban đầu tập cho học sinh phân tích một câu, rồi đến hai câu. Từ hai câu
rồi đến một khổ thơ, từ khổ thơ (đoạn thơ) rồi đến bài thơ.
Ví dụ: Khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồn cùng gió khơi.
Giáo viên tâp cho học sinh phân tích câu thơ thứ nhát, rồi đến câu thơ thứ
hai. Phân tích một lượt hai câu (một và hai). Trong khi hướng dẫn học sinh phân
tích lưu ý cho học sinh không thể cắt ngang câu 3 vì câu thơ thứ 3 và câu thứ 4
cùng nói về hoàn cảnh đoàn thuyền ra khơi, còn câu 1 và 2 là cảnh thiên nhiên
khi đoàn thuyền ra khơi. Cho nên để tách thành các ý nhỏ chỉ cắt câu thơ 1 và 2
ở khổ thơ trên.
Phân tích nghệ thuật cũng là nhằm biểu đạt nội dung, một ý tưởng nào
đấy mà tác giả muốn gửi gắm.
Lưu ý là tránh diễm nôm các câu thơ thành văn xuôi. Khi tiến hành diễn
thành văn xuôi, thuật lại ý, tứ của câu chỉ trong trường hợp cái ý, tứ ấy rất mơ
hồ, mỗi người hiểu một cách khác nhau.
7.7. Hướng dẫn viết cụ thể ở từng phần trong bài văn nghị luận :
Trang 7


7.7.1. Cách viết phần mở bài:
Giáo viên trình bày quy trình ở đoạn văn phần mở bài về nhân vật văn học
và về đoạn thơ, bài thơ để học sinh nhận biết qua đối chiếu sau:
Về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích

Về đoạn thơ, bài thơ

(1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác
phẩm -> (3) Thời điểm, hoàn cảnh
sáng tác -> (4) Nhân vật chính -> (5)
Nêu ý kiến, đánh giá sơ bộ của mình

về nhân vật.

(1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác
phẩm -> (3) Thời diểm, hoàn cảnh
sáng tác -> (4) Trích ở đâu -> (5) Nêu
nhận xét, đánh giá sơ bộ về nội dung,
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.

Như vậy, nhìn vào phần mở bài của hai kiểu bài, học sinh sẽ thấy cả hai
đề có (1), (2), (3) giống nhau nhưng bắt đầu khác nhau từ (4) và (5). Điều này
giúp học sinh dễ nhớ.
Giáo viên lưu ý cho học sinh có thể mở bài theo trình tự như thế nhưng
cách trình bày trên là không bắt buộc. điều bắt buộc về nội dung phải có là (2)
và (5) ở mỗi phần.
Về giới thiệu tác giả, mỗi tác giả học sinh phải thuộc ít nhất một câu.
* Ví dụ:
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
- Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí.
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp.
- Bằng Việt là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Viễn Phương là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học
cách mạng miền Nam từ những ngày đầu.
* Ví dụ minh họa phần mở bài:
+Đối với kiểu bài : Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích :
Đề : Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lạng lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long.
Nguyễn Thành Long là một cây truyện ngắn. Truyện ngắn “Lạng lẽ Sa
Pa” được sáng tác vào mùa hè năm 1970, trong một chuyến đi lên Lào Cai của
tác giả. Nhân vật chính trong truyện là anh thanh niên. Dù được miêu tả nhiều

hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, anh thanh niên vẫn hiện lên trong lòng người đọc
với bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng khâm phục. (Câu cuối có thẻ viết: Anh thanh
niên nỏi bật những phẩm chất tốt đẹp của con người trong giai đoạn xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ).
+ Đối với kiểu bài: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ :
Đề : Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Trang 8


Hữu Thỉnh vốn rất gắn bó với cuộc sống nông thôn. Ông có nhiều bài thơ
hay về con người và cuộc sống nông thôn, về mùa thu. Bài thơ “Sang thu” được
Hữu Thỉnh sáng tác gần cuối năm 1977, giới thiệu lần đầu tiên trên báo Văn
nghệ. Bài thơ là những cảm nhận, suy tư của nhà thơ về sự biến chuyển của đất
trời từ hạ sang thu.
Đề : Phân tích bài thơ “Ánh trăng’’ của Nguyễn Duy.
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ. Vừa mới xuất hiện nhưng Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài thơ “Tre
Việt Nam ”. Bài thơ “Hơi ấm ổ rơm’’ của anh đã từng đoạt giải thưởng báo văn
nghệ. Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Anh viết đều và khỏe. “ Ánh
trăng’’là một trong những bài thơ của anh được nhiều người ưa thích bởi bài thơ
có tìn cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ.
Từ các đề trên, giáo viên cho học sinh đối chiếu với phần mở bài ở tùng kiểu
bài thì học sinh dễ dàng viết đoạn mở bài. Cách mở bài này dành cho đối tượng
học sinh từ trung bình trở xuống.
7.7 2. Cách viết phần thân bài:
a. Đối với kiểu bài Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc trích:
Giáo viên hướng cho học sinh viết đoạn theo cách trình bày nội dung
đoạn văn theo lối diễn dịch hoặc quy nạp. Giáo viên cho học sinh nắm cách trình
bày nội dung diễn dịch hoặc quy nạp bằng sơ đồ để học sinh dễ nhận biết hơn.
+ Diễn dịch:


(1) (câu chủ đề nêu luận điểm)

(2)

(3)

(4) …

Các câu (2), (3), (4) là các câu nêu các ý chi tiết, cụ thể để làm sáng tỏ câu
chủ đề. Như vậy, các câu (2), (3), (4) có thể là dẫn chứng, là nhận xét, đánh giá
của người viết.
Đoạn văn thực hiện như sau: (1) Câu chủ đề luận điểm -> (2) Dẫn chứng
lấy từ tác phẩm (chọn 1 hoặc 2 dẫn chứng) -> phân tích, nhận xét, đánh giá từ
dẫn chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành
đoạn văn.
Ví dụ 1: (1) Anh thanh niên là người rất khiêm tốn. (2) Khi ông họa sĩ
muốn vẽ chân dung của anh. (3) Anh hào hứng giới thiệu về những con người
đáng để vẽ hơn mình. (4) Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao
khó khăn vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân, là
anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu
và thiết lập bản đồ sét. (5) Anh thấy đóng góp của mình bình thường nhỏ bé so
với những con người ấy. (6) Anh thấy thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những
Trang 9


con người ngày đêm làm việc lo nghĩ cho đất nước ở nơi mảnh đất nghĩa tình Sa
Pa này.
Như vậy:


Câu (1) là câu chủ đề luận điểm
Câu (2) là câu chuyển để đưa dẫn chứng
Câu (3), (4) là dẫn chứng gián tiếp từ tác phẩm
Câu (5) và (6) là những câu phân tích, nhận xét từ dẫn chứng

của người viết.
Ví dụ 2: Vẻ đẹp của Phương Định được toát lên qua lời tự đánh giá
và nhận xét về mình. Là cô gái Hà Nội vào chiến trường cũng như các cô gái
mới lớn Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình ,nhưng cô
lại không hay biểu lộ tình cảm mà tỏ ra kín đáo đến kiêu kì. Cô tự đánh giá: “Tôi
là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc
dày, tương đối mềm , một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Con mắt tôi
thì các anh lái xe bảo tôi có cái nhìn xa xăm” Cô biết mình được nhiều người
nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm . Điều đó làm cô thấy vui và tự hào
nhưng cô chưa dành tình cảm cho ai. Như vậy:
Câu (1) là câu chủ đề luận điểm
Câu (2) là câu chuyển để đưa dẫn chứng
Câu (3), (4) là dẫn chứng gián tiếp từ tác phẩm
Câu (5) và (6) là những câu phân tích, nhận xét từ dẫn chứng của người viết.
Cái khó là học sinh không biết phân tích, nhận xét nên giáo viên cho học
sinh đặt câu hỏi để trả lời. như: Vì sao anh lại giới thiệu những con người khác ở
Sa Pa? Anh nghĩ điều gì mà giới thiệu như vậy? Học sinh trả lời đúng, nghĩa là
học sinh đã biết nhận xét, đánh giá.
*Quy nạp là cách trình bày ngược với cách diễn dịch. Giới thiệu cách quy
nạp để học sinh biết và viết đúng nhằm thay đổi thao tác lập luận trong khi làm
bài.
Học sinh xác định được đặc điểm, tính cách của nhân vật theo trình tự
diễn biến của truyện thì học sinh lần lượt viết được đoạn văn ở phần thân bài.
( Nếu học sinh trung bình thì nên viết theo cách diễn dịch )
b. Đối với kiểu bài : Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:

Đầu tiên, giáo viên phải hình thành cho học sinh quy trình xây dựng đoạn
khi phân tích một đoạn thơ, khổ thơ như sau:
(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này gọi
là câu dẫn) -> (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ -> (3) Giảng giải, cắt nghĩa (từ,
ngữ, câu thơ) -> (4) Liên hệ, mở rộng, so sánh -> (5) Nhận xét cách sử dụng
nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết nghệ thuật tiêu
biểu, mà ở đó, các ý nghĩa độc đáo, tài năng nghệ thuật của tác giả được bộc lộlựa chọn chi tiết không dàn trải) -> (6) Nhận xét, đánh giá về nội dung của đoạn
Trang 10


thơ, khổ thơ (phần này có thể về cảnh, về tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ
tình trực tiếp hoặc nhân vật trữ tình nhập vai).
Các câu (1), (2), (5), (6) thường bắt buộc phải có khi phân tích. Câu (3),
(4) tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện. Riêng câu (4) học sinh khá, giỏi
thường dùng đẻ mở rộng ý.
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Viết đoạn:
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã có
ước nguyện:
(2)


“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

(3) Nhà thơ muốn làm con chim hót để làm vui cho cuộc đời, muốn làm
một cành hoa để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm làm đẹp cuộc đời, muốn làm
một nốt trầm trong bản hòa ca đẻ làm tăng ý nghĩa cuộc đời. (4) Nhà thơ đã
dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim,một mùa xuân
nho nhỏ… để nói lên ước nguyện của mình. Những hình ảnh ấy được lặp lại,
trở lại mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến có
ích cho đời. Cũng trong thời gian này, nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Một
khúc xuân” những suy ngẫm tưng tự:
Trang 11


Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là ở chỗ nó đề cập đến một
vấn đề lớn nhân sinh quan – vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối quan
hệ với cộng đồng – một cách thiết tha, nhỏ nhẹ, khiêm nhường được thể hiện
qua những hình tượng đơn sơ mà chưa đựng nhiều xúc cảm.
(4’) Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, nhà thơ xưng tôi “Tôi đưa tay tôi hứng”
thì giờ đây, tác giả đã chuyển sang ta. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Với

chữ ta vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cá thể,
đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. (5) Cách sử dụng điệp ngữ “ta
làm” láy đi láy lại thật tha thiết, chân thành. (6) Nhà thơ có một ước nguyện nhỏ
bé, một phương châm sống thật cao đẹp được hòa nhập và cống hiến cho đời.
Từ đoạn văn trên, học sinh sẽ nhận thấy như quy trình trên :
Câu (1) nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
Câu (2) dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
Câu (3) giảng giải, cắt nghĩa.
Câu (4), (4’) là liên hệ, mở rộng, so sánh.
Câu (5) là nhận xét cách sử dụng nghệ thuật.
Câu (6) là nhận xét, đánh giá về nội dung.
Đối với học sinh yếu thì không thể thực hiện những câu (4), (4’) mà dành
cho học sinh khá, giỏi. Khi học sinh đã quen thì hướng dẫn cho đối tượng trung
bình, yếu thực hiện những câu (4), (4’).
Ví dụ 2: Phân tích các câu thơ sau:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
(Y Phương – Nói với con)
- Viết đoạn : Những câu thơ mở đầu đã thể hiện tình yêu thương của cha mẹ đối
với con :
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Trang 12


Hai bước tới tiếng cười.
Những hình ảnh cụ thể về một em bé đang tập đi, tập nói. Lúc thì bước tới

níu lấy tay cha, lúc thì sà vào lòng mẹ. Điệp ngữ “bước tới” gợi bước chân chập
chững của đưa con, sự mong chờ, vui mừng đón nhận của đôi vợ chồng trẻ. Nhà
thơ đã tạo một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc.
Ví dụ 3 : Phân tích khổ thơ :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
(Nguyễn Duy – Ánh trăng)
Viết đoạn: Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều
sâu tư tưởng triết lí:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, tròn đầy, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng
phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng
lẽ “kể chi người vo tình”. “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá
khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, cho sự bao dung độ lượng, của
nghĩa tình thủy chung trọn vẹn. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh nhân
hóa, chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở
nhà thơ (và cả mỗi chúng ta). Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng
thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn luôn tròn đầy, bất diệt.
7.7.3 .Cách viết phần kết bài:
Theo sách giáo khoa phần kết bài ở mỗi kiểu bài như sau:
Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích): Nhận định đánh giá chung
của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ bài
thơ. Phần này giáo viên cần cụ thể hơn để học sinh hiểu:
a. Đối với kiểu bài : Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích):

+ Nêu những nhận định đánh giá chung về: bút pháp xây dựng nhân vật, ảnh
hưởng của nhân vật đối với người đọc.
+ Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật.

Trang 13


+ Cần nói đến vai trò, vị trí của nhân vật trong tác phẩm, và tùy trường hợp, có
thể nói rõ tác giả đã đóng góp được những gì về tư tưởng, về nghệ thuật trong
quá trình phát triển của văn học một thời kì. (ý này dành cho học sinh khá, giỏi).
Ví dụ 1: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện “Những ngôi sao
xa xôi” của Lê Minh Khuê.
-Truyện Những ngôi sao xa xôi đã thành công về cách kể chuyện, đặc biệt
là nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Truyện đã làm sống lại trong lòng ta hình
ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến
công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Những “ngôi
sao” ấy luôn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ, biết ơn.
Vẫn đề bài trên học sinh có thể viết theo cách sau :
- Tác phẩm đã làm hiện lên vẻ đẹp của con người trong chiến tranh. Chiến
tranh đã làm cho Phương Định dày dạn và cứng cỏi hơn nhưng không làm mất
đi sự nhạy bén,nét hồn nhiên và mơ mộng của tuổi trẻ. Nhân vật Phương Định
cùng với hai cô gái trong tổ trinh sát mặt đường là tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt
Nam thời chống Mĩ- một thế hẹ đã làm nên những kì tích anh hùng :
” Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phới phới dậy tương lai .’’( Tố Hữu )
Ví dụ 2 : Cảm nhận của em về tình cha con trong truyện ngắn: ”Chiếc lược ngà
” ( Nguyễn Quang Sáng ).
-Truyện là bài ca ca ngợi tình cảm thắm thiết ,sâu nặng của cha con ông
Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Cuộc chiến tranh dù có tàn khốc bao
nhiêu thì cũng không thể hủy diệt được tình phụ tử. Tình cảm ấy lại càng trở nên

thiêng liêng,sáng ngời nó được gắn bó với tình yêu Tổ Quốc.
Ví dụ 3: Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng
lẽ Sa pa :
- Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã gợi lên
trong lòng người đọc về vẻ đẹp và ý nghĩa của những công việc thầm lặng, cống
hiến sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước
b. Đối với kiểu bài : Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
+ Khái quát giá trị, ý nghĩa: có thể về nghệ thuật, nội dung hoặc vị trí của đoạn
thơ, bài thơ trong dòng văn học ấy.
+ Hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
Ví dụ 1: Phân tích bài thơ “Nói với con” cuả Y Phương.
Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm gia
đình đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và
dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một
dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương và ý chí
vươn lên trong cuộc sống.
Trang 14


* Những nội dung trong phần kết bài chỉ là định hướng, không bắt buộc
phải trình bày đầy đủ khi viết bài. Giáo viên lưu ý cho học sinh, khi hết giờ làm
bài có thể trình bày ngắn gọn về cảm nhận của mình về nhân vật (đoạn thơ, bài
thơ) cũng được.
Ví dụ 2 :

Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu ( Hữu Thỉnh )

- Thơ ca Việt Nam có những câu thơ, bài thơ hay viết về mùa thu. Đến
lượt mình, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có một hương sắc mới.
Ví dụ 3 : Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ( Thanh Hải)

-Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh ,song bài
thơ vẫn tràn đầy lòng yêu đời ,yêu cuộc sống,thể hiện sự gắn bó sâu nặng với
cuộc đời. Đặc biệt là tinh thần, ý thức trách nhiêm của ông đối với dân tộc .Bài
thơ là lời tâm tình nhỏ nhẹ mà tha thiết,thấm thía một cách sâu sắc ý nghĩa cuộc
sống với mỗi đời người: Sống là cống hiến,khiêm tốn và thầm lặng. Bài thơ lắng
lại trong tâm hồn người đọc một lẽ sống mới .Hôm nay và cả ngày mailex sống
ấy vẫn còn vẫy gọi mỗi người hãy sống xứng đáng là ’’ mùa xuân nho nhỏ ’’
cho cuộc đời.
7.8. Một số điểm cần lưu ý đối với giáo viên ở một số tiết dạy học cụ thể :
- Đối với tiết luyện tập: Để chuẩn bị cho tiết dạy này giáo viên phải giao việc
chuẩn bị ở nhà cho học sinh theo yêu cầu của SGK, chuẩn bị dàn ý chi tiết cho
phần luyện tập trên lớp. Giáo viên đánh giá, nhận xét bài luyện tập của học
sinh, vừa rèn luyện kĩ năng viết bài đúng yêu cầu, vừa rèn luyện kĩ năng viết bài
nghị luận là phải thể hiện những suy nghĩ, ảm thụ cá nhân .
- Đối với tiết luyện nói : Nhằm rèn luyện kĩ năng² 耀 rình bày miệng một cách
mạch lạc, hướng dẫn những cảm nhận, đánh giá của mình, rèn luyện cách dẫn
dắt vấn đề nghị luận .
- Đối với tiết trả bài viết: Giáo viên cần thực hiện theo các bước sau:
• Yêu cầu học sinh nhắc lại đề bài đã cho, sau đó giáo viên ghi lại
đề bài lên bảng .
• Phân tích đề ( Xác định thể loại, vấn đề nghị luận )
• Xây dựng dàn bài hoàn chỉnh.
• Nhận xét ưu nhược điểm của học sinh qua việc chấm bài.
• Sửa lỗi diễn đạt .
• Củng cố về nội dung ,phương pháp làm bài .
• Đọc đoạn văn hay, bài văn hay (nhằm động viên khuyến khích
các em ).
• Tái kiểm tra (yêu cầu học sinh về nhà làm lại bài kiểm tra vào
vở bài tập) .
8. Những thông tin cần được bảo mật :


Không.
Trang 15


9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Phòng học,bảng,bàn ghế,học sinh…
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến :
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
-Số học sinh khá và giỏi tăng lên,số học sinh trung bình và yếu giảm đáng
kể,đặc biệt là tỉ lệ học sinh yếu -ở lớp khá hơn(9A) không còn.
-Nhờ có việc đổi mới phương pháp dạy và học nên chất lượng bài viết văn nghị
luận của học sinh được nâng cao:
-Đa số bài làm của các em đáp ứng yêu cầu của đề về nội dung và thể loại .
-Nắm vững hơn về phương pháp làm bài văn nghị luận (đặc biệt là nghị luận về
tác phẩm văn học).
-Biết xây dựng luận điểm,trình bày luận cứ rõ ràng,trình tự, thuyết phục.
-Học sinh yêu thích học văn hơn.
-Nhiều em tránh được lỗi diễn đạt rườm rà,không rõ ràng .
* KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH (TRƯỚC KHI
THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM )
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi

Trung
bình

Khá


Yếu

Khối lớp

Tổng số
học sinh

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

9B

26

1


3,84

6

23,1

15

57,6

4

15,3

9D

25

2

8

8

32

13

52


2

8

* KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH (SAU KHI
TRIỂN KHAI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM)
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi

Trung
bình

Khá

Yếu

Khối lớp

Tổng số
học sinh

TS

%

TS

%

TS


%

TS

%

9A

33

6

18,1

16

48,4

11

33,3

0

0

9D

28


3

10,7

10

35,7

13

46,4

2

7,1

Trang 16


10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
-Nhờ có việc đổi mới phương pháp dạy và học nên chất lượng bài viết văn nghị
luận của học sinh được nâng cao.
10.3.Kết luận
Trong giảng dạy, bên cạnh việc giúp học sinh nắm bắt kiến thức trọng tâm
của bài học thì việc rèn luyện kĩ năng sẽ giúp học sinh có định hướng trong việc
tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học và tạo lập văn bản khi thực hành. Cho nên
việc hướng dẫn học sinh cách làm văn nghị luận về tác phẩm văn học sẽ góp
phần nâng cáo chất lượng dạy và học, đáp ứng được chuẩn kiến thức và kĩ năng

trong phương pháp dạy học mới hiện nay.
Kinh nghiệm trên là rút từ thực tế khi hướng dẫn học sinh trong giảng dạy
và tiếp tục hướng dẫn học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận. Kinh nghiệm đã
giúp học sinh có kĩ năng làm bài, gỡ bí cho học sinh, đã từng bước nâng cao
chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn 9 .
Tuy nhiên, đó chỉ là kinh nghiệm mang tính chất chủ quan, rất mong sự
đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ sung của bạn đồng nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm
ơn!
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu:
Số Tên tổ chức/cá nhân
TT

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

1 Tạ Thu Hương

Trường THCS Lũng Hòa.

Viết văn nghị luận cho
HS lớp 9

2 Đinh Thị Thuận

Trường THCS Lũng Hòa.

Viết văn nghị luận cho

HS lớp 9

Lũng Hòa, ngày.....tháng01năm2016
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
(Ký tên, đóng dấu)

Bùi Quang Ba

Lũng Hòa, ngày 9 tháng01năm2016
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)

Đinh Thị Thuận

Trang 17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn – 9
2. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn – 9;
3. Phương pháp dạy học tích cực (NXB GD )
4. Tài liệu dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng;
5. Học tốt môn Ngữ văn 9.
6. Rèn luyện kĩ năng thực hành Ngữ văn 9 ( NXB GD ).
7. Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn 9.

Trang 18



Trang 19



×