Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Thiết kế một số giáo án dạy trẻ mẫu giáo lớn kểchuyện cổ tích ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nuôi dạy trẻ thơ đang là những mối quan tâm hàng đầu của cả nhân
loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm phải trồng người”. Nói đến trẻ thơ, xã hội giai đoạn trước có nhiều
người thường chỉ quan tâm đến lứa tuổi nhi đồng và thiếu nhi mà ít chú ý tới trẻ ở
lứa tuổi mầm non. Trong những năm gần đây xã hội đặc biệt quan tâm đến giáo
dục mầm non và đời sống tâm lý của các em ở tuổi mẫu giáo. Bởi vì mầm non là
bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển
về thể chất, trí tuệ của trẻ em.
Ở trường mầm non, văn học giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ, dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ
quan trọng của người giáo viên. Đó là sự mở cửa cho trẻ bước những bước đi chập
chững đầu tiên vào thế giới diệu kì chứa đựng trong các tác phẩm văn học. Sự tiếp
xúc đầu tiên của trẻ mẫu giáo với tác phẩm văn học được chọn lọc nhất là các câu
chuyện cổ tích sẽ kích thích ở trẻ sự nhạy cảm thẩm mỹ, phát triển ngôn ngữ, trí
tuệ. Mỗi độ tuổi, khi tiếp xúc với tác phẩm văn học có những đặc điểm tiếp nhận
riêng. Quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học phải gắn liền với việc hình
thành, củng cố các biểu tượng và khái niệm. Trẻ được tiếp xúc với truyện cổ tích
dành cho thiếu nhi của Việt Nam và nước ngoài sẽ góp phần mở rộng nhận thức
cho trẻ.
Trẻ mẫu giáo lớn có sự nhận thức và những tình cảm mãnh liệt khi tiếp xúc
với truyện cổ tích. Giữa các em và những câu chuyện cổ tích, các nhân vật trong
truyện có sự đồng điệu về tính cách và tâm hồn, các em thích nghe kể chuyện và
thích tự mình kể chuyện cổ tích. Trẻ mẫu giáo lớn đến với truyện cổ tích bằng tình
cảm, những rung động ngọt ngào nhất, say mê nhất, đồng cảm nhất. Chính vì thế
những câu chuyện cổ tích có vai trò rất lớn trong hình thành và phát triển nhân


cách của trẻ. Những câu chuyện cổ tích là một phần trong cuộc sống, gợi lên cho
trẻ bao cảm xúc lành mạnh, giúp trẻ nhận biết thế giới xung quanh, mối quan hệ


giữa con người với con người, góp phần giáo dục trẻ và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ. Nhờ đó, trẻ nảy sinh năng lực tự hoạt động nghệ thuật khi tiếp xúc với truyện
cổ tích.
Dạy trẻ kể lại chuyện là một dạng tiết học tổ chức cho trẻ hoạt động văn học
nghệ thuật. Tổ chức cho trẻ hoạt động kể chuyện tốt sẽ giúp trẻ hiểu sâu hơn tác
phẩm văn học, phát huy tính tích cực cá nhân. Truyện cổ tích chiếm số lượng lớn
trong nội dung cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Vì thế số tiết dạy trẻ kể
chuyện cổ tích tương đối nhiều trong mạng nội dung cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học. Tuy nhiên trên thực tế, việc dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích
ở các trường mầm non chưa thực sự đạt hiệu quả cao, các biện pháp đưa vào trong
tiết học dạy trẻ kể chuyện chưa thật hợp lí, chưa phát huy hết lợi ích của hoạt động
kể chuyện cổ tích và trẻ còn thụ động trong những giờ học này…Xuất phát từ
những lí do trên, cùng hy vọng những ý kiến nhỏ của mình sẽ góp phần nâng cao
chất lượng cho hoạt động dạy trẻ mẫu giáo lớn kể lại chuyện cổ tích. Tôi xin lựa
chọn nghiên cứu đề tài: “ Thiết kế một số giáo án dạy trẻ mẫu giáo lớn kể
chuyện cổ tích ở trường mầm non”.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay, vấn đề dạy trẻ kể chuyện ở trường mầm non được các nhà nghiên
cứu nhiều nước quan tâm. Trong quá trình tìm hiểu cơ sở lí luận cho đề tài, tôi đã
tiếp xúc với một số công trình nghiên cứu như:
Hà Nguyễn Kim Giang trong cuốn “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học”, năm 2002 và thông báo khoa học “Phương pháp cơ bản cho trẻ tiếp xúc với
tác phẩm văn học”,(1-1994). Tác giả đã nhấn mạnh đến việc phát huy tính tích
cực của chủ thể tiếp nhận và đặc biệt chú ý đến phương pháp đọc và kể chuyện có
nghệ thuật, coi đó là phương pháp rất cơ bản và chủ đạo trong quá trình cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học. Khi nói đến nội dung của phương pháp kể chuyện


tác giả đã đưa ra quan niệm về việc kể chuyện cho trẻ một cách rất dễ dàng, cụ thể
và có tính chất quyết định cho việc dạy trẻ kể chuyện.

Nguyễn Thu Thủy trong cuốn “Giáo dục trẻ mẫu giáo qua thơ và truyện”,
năm 1976. Sách có 3 chương, trong chương 2: “Kể và đọc truyện cho trẻ mẫu
giáo” tác giả đã đề cập tới một số vấn đề:
- Tìm hiểu tác phẩm văn học là các tác phẩm văn xuôi:
+ Tác phẩm văn học dân gian Việt Nam.
+ Truyện do các nhà văn trong và ngoài nước viết cho trẻ, truyện dân gian
các nước.
- Kể và đọc truyện cho trẻ nghe: chú ý đến cường độ, âm vang của giọng,
ngắt giọng, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…
- Dạy trẻ kể chuyện được tiến hành qua các bước: giáo viên giới thiệu tác
phẩm, giúp trẻ hiểu tác phẩm, đàm thoại về tác phẩm, trẻ kể lại tác phẩm. Các
phương pháp thể hiện khi kể chuyện cho trẻ là trực quan (ảnh, tranh vẽ, mô hình,
rối, và những khung cảnh gần gũi xung quanh trẻ) và đàm thoại giới thiệu tác
phẩm, đàm thoại để hiểu tác phẩm. Ở đây tác giả đã đưa ra một số phương pháp
chung nhưng hoạt động của trẻ thì nhắc tới rất ít.
Các tác giả Cao Đức Tiến, Nguyễn Thị Diệu Lam, Lê Thị Ánh Tuyết trong
cuốn “Văn học và phương pháp cho trẻ làm quen với văn học”, Hà Nội, 1993. Ở
phần thứ VI: Phương pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học tác giả đã đề
cập đến:
- Các thủ thuật đọc và kể diễn cảm.
- Các phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
- Các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Các tác giả đã nêu ra một số vấn đề:


+ Các thủ thuật kể diễn cảm bao gồm: Xác định và sử dụng đúng giọng cơ
bản, ngắt giọng, nhịp điệu, cường độ giọng, cử chỉ…
+ Dạy trẻ kể chuyện: Trong tiết học việc dạy trẻ kể chuyện được tiến hành
theo trình tự (Gây hứng thú cho trẻ bằng con rối, tranh ảnh, hội thoại ngắn để dẫn
dắt đến câu chuyện, giới thiệu tên câu chuyện, tiếp đó cô kể câu chuyện 2-3 lần, tóm

tắt nội dung tắt nội dung câu chuyện, sau đó đặt hệ thống câu hỏi theo nội dung câu
chuyện).
+ Kết thúc giờ học có thể cho trẻ vẽ tranh nhân vật trong truyện.
Trong cuốn sách này, dạng tiết dạy trẻ kể lại chuyện và các biện pháp hữu hiệu
cho dạng tiết học này thì ít được nhắc đến.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Phạm Thị Việt trong cuốn “Phương pháp cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học”. Đã nghiên cứu và đưa ra các biện pháp dùng lời
nói, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan dạy học, phương pháp thực hành để
tổ chức giờ dạy học tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo. Tác giả có trình bày ý
nghĩa và phương pháp tổ chức cho trẻ kể chuyện. Tuy nhiên các biện pháp cụ thể
thì tài liệu chưa đề cập đến.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến vị trí, vai trò của truyện cổ tích
trong giáo dục trẻ mẫu giáo và hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học,
đưa ra các phương pháp, thủ thuật, biện pháp dạy trẻ kể chuyện nhưng việc dạy trẻ
kể chuyện cổ tích chưa có công trình nghiên cứu cụ thể, chưa có các biện pháp cụ
thể tiến hành trong khi tổ chức cho trẻ kể chuyện cổ tích. Trên cơ sở tiếp thu
những thành tựu, ý kiến của những công trình trên và thực trạng dạy trẻ mẫu giáo
lớn kể lại chuyện cổ tích, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu: “ Thiết kế một số
giáo án dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường mầm non” và đưa ra
một số ý kiến đề xuất.
3. Mục đích nghiên cứu


- Tìm hiểu thực trạng dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường mầm
non và đưa ra một số biện pháp, giáo án được kiểm chứng qua thực nghiệm nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động dạy trẻ kể chuyện cổ tích.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng việc tổ chức dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở
trường mầm non

- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi của một số giáo án dạy trẻ
mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích đã đề xuất.
5. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường mầm non Quang
Trung và trường mầm non 19-5.
- Ứng dụng các giáo án đề xuất để thực nghiệm trên hai nhóm trẻ: Nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Thực trạng tổ chức hoạt động dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường
mầm non Quang Trung, trường mầm non 19-5
- Hai nhóm trẻ lớp mẫu giáo lớn: Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
7. Phương pháp nguyên cứu
- Phương pháp lí thuyết: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu để giải quyết những
vấn đề làm cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra: Tiến hành điều tra, quan sát một số tiết dạy trẻ mẫu
giáo lớn kể lại chuyện cổ tích, trò chuyện và phát phiếu điều tra cho các giáo viên
trực tiếp giảng dạy các lớp mẫu giáo lớn ở trường để lấy tài liệu phục vụ cho đề
tài.
- Phương pháp thực nghiệm : Điều tra thực trạng, thực nghiệm đối chứng.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Đặc điểm tâm- sinh lý của trẻ mẫu giáo lớn
1.1.1. Đặc điểm sinh lý học
Ở trẻ mẫu giáo lớn hệ thần kinh phát triển tương đối hoàn thiện, bộ não của
trẻ không khác người trưởng thành là bao nhiêu. Với trên một tỷ rưỡi tế bào thần
kinh và hàng vạn tế bào phụ trợ khác trong bán cầu đại não. Trẻ đã thể hiện năng
lực qua hoạt động tổng hượp lời nói, quan sát, chú ý, ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy.

Trẻ ở lứa tuổi này đã nắm vững ngôn ngữ và sử dụng như một hệ thống tín hiệu.
Điều này giúp cho trẻ hình thành nhiều hình thức thích nghi phong phú với môi
trường, làm giàu vốn kinh nghiệm sống và làm cho trí tuệ trẻ phát triển hơn.
Khi có kích thích tác động vào cơ thể (những cảm xúc vui, buồn, giận dữ...)
thì có quá trình thần kinh tương ứng xuất hiện ở não và tái tạo nên những biến đổi
tương ứng trong toàn bộ cơ thể đặc biệt là sự thay đổi của nhịp tim. Nhịp tim của trẻ
mẫu giáo lớn là 120 lần/ 1 phút.
Đặc điểm hệ thần kinh của trẻ mẫu giáo lớn là:
+ Các sợi dậy thần kinh chưa myelin hóa xong, tốc độ dẫn truyền xung động
thần kinh còn chậm.
+ Sự dẫn truyền xung thần kinh trong hệ thần kinh còn chậm và chưa chính
xác. Vì vậy các vận động của trẻ giai đoạn đầu mang tính toàn cục, hoặc từng mảng.
+ Mối liên hệ của vỏ não và dưới vỏ chưa chặt chẽ.
+ Trẻ nhỏ hành động bằng tình cảm là chính.
Các loại hình thần kinh gồm: Loại mạnh và cân bằng, loại mạnh và không
cân bằng, loại cân bằng và linh hoạt, loại yếu đã có những ảnh hưởng tới việc cho
trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích.
Các phản xạ có điều kiện đã được hình thành và dần củng cố, bền vững cùng
với các kĩ năng, kĩ xảo. Hệ thống tín hiệu 1 và 2 đã được củng cố, nhờ ưu thế của hệ


thống tín hiệu 2 nên trẻ mẫu giáo lớn có thể tham ra vào hoạt động kể chuyện cổ
tích ở trường mầm non.
Các cơ quan và các hệ cơ quan đang dần hoàn thiện là điều kiện thận lợi về
thể chất và sinh lý cho trẻ mẫu giáo lớn để trẻ có thể tham gia các hoạt động ở
trường mầm non. Đặc biệt là cơ quan phát âm cũng đã hoàn thiện, khả năng thính
giác phát triển mạnh, trẻ nghe rất tinh đó chính là tiền đề dạy trẻ nghe và nói. Sự
trưởng thành của hệ thần kinh và sự hoàn thiện của các cơ quan trong cơ thể (tuần
hoàn, hô hấp, vận động...). Cả về lượng lẫn chất là điều kiện thuận lợi cho sự tổ
chức hoạt động dạy kể chuyện cổ tích cho trẻ.

1.1.2. Đặc điểm tâm lý học
1.1.2.1. Tư duy
Bước sang tuổi mẫu giáo lớn trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là quá
trình chuyển từ tư duy bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong, tức là chuyển
từ tư duy trực quan hành động sang tư duy trực quan hình tượng. Kiểu tư duy này
tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối quan hệ tồn tại khách quan,
không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản thân đứa trẻ. Sự
phản ánh mối quan hệ khách quan là điều kiện cần thiết để trẻ vượt qua khỏi
khuôn khổ của việc tìm hiểu từng sự việc riêng lẻ với những thuộc tính sinh động
của chúng để đạt tới tri thức khái quát. Tư duy trực quan sơ đồ vẫn giữ tính chất
hình tượng song bản thân hình tượng cũng trở nên khác trước: Hình tượng đã bị
mất đi những chi tiết rườm rà mà chỉ còn giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ
phản ánh một cách khách quan sự vật chứ không phải từng vật riêng lẻ.
Tư duy trực quan sơ đồ giúp trẻ một cách cố hiệu lực để lĩnh hội những tri
thức ở trình độ khái quát cao, từ đó mà hiểu được bản chất của sự vật. Nhưng kiểu
tư duy này vẫn nằm trong phạm vi kiểu tư duy trực quan- hình tượng nói chung và
do đó còn nhiều hạn chế. Song kiểu tư duy này cũng biểu hiện một bước phát triển
đáng kể trong tư duy của trẻ mẫu giáo. Đó là kiểu trung gian, quá độ để chuyển từ
kiểu tư duy hình tượng lên một kiểu tư duy mới, khác về chất- tư duy logic, kiểu
tư duy này sẽ tiếp tục được phát triển ở giai đoạn sau.


Trẻ mẫu giáo lớn bắt đầu có khả năng phân tích, tổng hợp. Trẻ bắt đầu tư
duy và suy diễn trừu tượng, thích bắt chước và mô phỏng hành vi, lời nói của nhân
vật mà trẻ vừa được nghe kể và được xem. Trẻ thích nghe và kể lại những câu
chuyện cổ tích, từ đó trẻ vận dụng những hành vi được xem là tốt của các nhân vật
trong tác phẩm vào cuộc sống hành ngày ở hoàn cảnh cụ thể và hợp lý.
1.1.2. 2. Tưởng tượng
Trí tưởng tượng là một trong những thuộc tính của trí tuệ, gắn liền với năng
lực hiểu biết của trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo lớn tưởng tượng có chủ định phát triển.

Tưởng tượng của trẻ chuyển từ bình diện bên ngoài sang bình diện bên trong. Trí
tưởng tượng của trẻ vô cùng phong phú, chúng tiếp nhận văn chương không chỉ
bằng sự phối hợp hình dạng bên ngoài mà còn huy động cả cảm hứng bên trong
tâm hồn. Trẻ mẫu giáo lớn có phạm vi tiếp xúc mở rộng hơn các lứa tuổi trước,
vốn kinh nghiệm, tri thức trẻ tích lũy khá phong phú. Vì thế phạm vi và mức độ
tưởng tượng của trẻ rộng hơn. Trẻ không chỉ tưởng tượng ra hoàn cảnh cụ thể mà
còn có sự chuyển tiếp giữa các hoạt động. Với trí tưởng tượng phong phú, trẻ dễ
hòa mình vào các nhân vật trong câu chuyện.
Tưởng tượng của trẻ mẫu giáo lớn ít phụ thuộc hơn vào cái đang tri giác và
mang đậm tính chất sáng tạo. Biểu hiện cụ thể trong việc chọn chủ đề chơi, trong
hoạt động tạo hình, trong kể chuyện...cùng một trò chơi nhưng với mỗi lần chơi trẻ
lại tưởng tượng ra hành động chơi khác nhau và nó thể hiện rất rõ khả năng sáng
tạo để tìm ra cái mới của trẻ. Đây là yếu tố quan trọng giúp việc kể chuyện cổ tích
đạt hiệu quả cao.
1.1.2.3. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo phát triển và hoàn thiện hơn so với độ tuổi nhà
trẻ. Trẻ có thể sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong hoạt động nhận thức thế giới
xung quanh, trong giao tiếp với mọi người, trong điều chỉnh bản thân về mặt nhận
thức, tình cảm, hành vi.


Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng,
âm vị được rèn luyện thường xuyên để tiếp cận ngữ âm khi nghe người khác nói.
Mặt khác, các cơ quan phát âm đã trưởng thành nên trẻ có thể phát âm tương đối
chuẩn, kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ. Trẻ nắm vững ngữ âm, ngữ điệu khi
sử dụng tiếng mẹ đẻ. Trẻ mẫu giáo lớn đã biết sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp
với nội dung giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường dùng ngữ
điệu êm ái để biểu thị tình cảm trìu mến. Ngược lại, khi giận dữ trẻ lại dùng ngữ
điệu thô và mạnh. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi trẻ kể lại câu chuyện mà
mình thích cho người khác nghe.

Ngoài việc phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp, ngôn ngữ mạch lạc cũng
được phát triển nhanh ở giai đoạn này. Ngôn ngữ của trẻ dần trở nên rõ ràng, khúc
chiết làm cho trẻ ít phụ thuộc vào tình huống cụ thể. Trẻ có khả năng mô tả lại cho
người khác hiểu những điều mà mình đã nhìn thấy và đã nghe. Đây là những điều
kiện thuận lợi hình thành kỹ năng kể chuyện cổ tích ở trẻ mẫu giáo lớn.
1.1.2.4. Trí nhớ
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, năng lực ghi nhớ và nhớ lại của trẻ phát triển
mạnh. Nhờ vào mức độ phát triển tâm lý đã đạt được và ảnh hưởng của những yêu
cầu do người lớn đặt ra cho trẻ trong quá trình tham gia vào các hoạt động mới của
trẻ được phong phú và bền vững hơn. Trẻ thường ghi nhớ những điều làm cho trẻ
thích thú. Vì vậy, những câu chuyện cổ tích hay những câu chuyện dân gian được
trẻ ghi nhớ rất nhanh. Trẻ có khả năng tập trung, chú ý lâu hơn và ít bị phân tán
bởi các tác động bên ngoài so với lứa tuổi trước. Trong điều kiện cuộc sống của trẻ
ngày càng được mở rộng, phong phú, phức tạp hơn khiến cho các yêu cầu của
người lớn đối với trẻ ngày càng cao hơn. Bởi vậy, bên cạnh trí nhớ không chủ định
ở trẻ mẫu giáo lớn trí nhớ chủ định cũng phát triển mạnh. Điều này đã giúp thực
hiện các công việc đòi hỏi trẻ phải sử dụng ghi nhớ có chủ định, ví dụ như trẻ kể
lại câu chuyện cổ tích trẻ đã được nghe. Trẻ mẫu giáo lớn có khả năng ghi nhớ
nhanh và lâu bền khi được luyện, củng cố thường xuyên. Khi kể chuyện cổ tích
nhằm mục đích dạy trẻ kể chuyện, để trẻ nhớ câu chuyện và kể lại thì trẻ cần được


nghe câu chuyện đó nhiều lần với giọng kể truyền cảm, có vần điệu, rõ ràng, nhấn
mạnh tình tiết, lời thoại của các nhân vật.
Trẻ ở lứa tuổi này bắt đầu hình thành trí nhớ logic, thể hiện ở khả năng ghi
nhớ và nhớ lại. Trẻ có thể kể lại câu chuyện theo một trình tự logic, tuần tự theo
đúng diễn biến của câu chuyện. Đây là điều kiện thuận lợi để trẻ kể chuyện cổ tích
đầy đủ, sinh động.
1.1.2.5. Tri giác
Trẻ mẫu giáo lớn có tri giác nghe và nhìn đã phát triển đáng kể. Tùy từng

hoàn cảnh mà trẻ sẽ tự biểu hiện những điều đã tri giác theo nhiệm vụ mà giáo
viên đặt ra. Cơ quan thị giác thực hiện tốt chức năng : Thu nhận hình ảnh, sự điều
tiết của mắt, thu nhận ánh sáng. Điểm mới trong tri giác của trẻ là xuất hiện các
hình tượng nghệ thuật. Việc tri giác các tác phẩm nghệ thuật của trẻ mẫu giáo lớn
có những đặc điểm riêng, nó có mối quan hệ chặt chẽ với xúc cảm thẩm mỹ. Sự
phát triển của tri giác thẩm mỹ khi cho trẻ kể chuyện cổ tích được thể hiện ở chỗ
nghe, cảm thụ và kể lại chuyện, không chỉ ở nội dung mà còn ở cả hình thức nghệ
thuật của tác phẩm. Phát triển tri giác nghệ thuật cho trẻ mẫu giáo lớn có ý nghĩa
to lớn, đặc biệt đối với quá trình phát triển tâm lý, làm quen và tiếp nhận tác phẩm
văn học và kể chuyện cổ tích.
1.1.2.6. Tình cảm, xúc cảm
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn quan hệ của trẻ với người xung quanh được mở
rộng do đó tình cảm của trẻ được phát triển về nhiều phía với những người xung
quanh trong xã hội. Có thể coi đây là nguồn cảm xúc mạnh mẽ nhất, quan trọng
nhất trong đời sống tình cảm của trẻ mẫu giáo lớn.
Nhu cầu yêu thương của trẻ được thể hiện rõ ràng và nồng thắm: Trẻ thèm
khát sự yêu thương, lo sợ trước thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của những người xung
quanh mình...tình cảm đó được trẻ chuyển vào những nhân vật trong các câu
chuyện cổ tích. Đứa trẻ thông cảm với những nỗi bất hạnh của các nhân vật chẳng


khác gì nỗi bất hạnh của mình. Tình cảm này được trẻ bộc lộ rõ ràng nhất khi trẻ
nghe truyện cổ tích. Trẻ có thể nghe đi nghe lại nhiều lần một câu chuyện nào đó
mà tình cảm của trẻ với các nhân vật trong truyện không giảm mà còn tăng lên.
Tình cảm xuất hiện khi trẻ nghe truyện cổ tích đã khiến trẻ tích cực, chú ý,
hứng thú bởi câu chuyện. Trẻ tỏ ra biết xót xa, đồng cảm với những nhân vật tốt bị
hãm hại, rơi vào hoàn cảnh éo le, đồng thời tỏ ra căm giận, khinh ghét thực sự đối
với các nhân vật tiêu cực. Tình cảm đó được thể hiện ngay trong quá trình kể lại
chuyện, đóng kịch. Sự phát trển tình cảm tạo điều kiện cho trẻ có khả năng nhạy
cảm với những tác phẩm văn học nghệ thuật.

Những cơ sở tâm lý trên sẽ là căn cứ khoa học để tôi tiến hành nghiên cứu
thực trạng và thiết kế giáo án dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường
mầm non.
1.2. Thể loại truyện cổ tích
1.2.1. Khái niệm
Là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy, nhưng chủ
yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lý
giải các vấn đề về xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống
muôn màu muôn vẻ, khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là
gia đình phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt.
Khái niệm truyện cổ tích có nội dung rất rộng bao gồn nhiều loại để tài,
nhiều đặc điểm nghệ thuật...Có thể chia truyện cổ tích thành 3 loại chính: truyện
cổ tích thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt, truyện cổ tích loài vật. (Theo từ điển Mỹ
thuật học)
1.2.2. Đặc trưng
a) Truyện cổ tích thần ky
* Khái niệm
Cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã
hội của con người. Đó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia


đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những quan hệ xã hội (truyện Tấm
Cám, Cây khế, Sự tích con khỉ...). Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ,
nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc
cho con người (truyện Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằn). Nhóm truyện về
các nhân vật bất hạnh: về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi, về
mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng bất hạnh, nhân vật
xấu xí mà có tài (truyện Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc,...)
* Nhân vật
Nhân vật chính trong truyện cổ tích thần kì là “Người”

- Nhân vật em: người em út trong gia đình (truyện Cây
khế, truyện Hố vàng, hố bạc…)
- Nhân vật con riêng : Người con riêng (Nhân vật Tấm
trong truyện Tấm Cám…)
- Nhân vật bất hạnh: Người mồ côi (Thạch sanh trong
truyện Thạch sanh...), người đi ở (nhân vật Khoai trong truyện
Cây tre trăm đốt, truyện Sự tích con khi…)
- Nhân vật có tài, dũng cảm : người giúp dân giúp nước
(truyện Thánh gióng, truyên Sọ dừa…) người dũng cảm (truyện
Thạch sanh…)
- Nhân vật kiểu tập thể: một nhóm các nhân vật truyện
Bốn anh em tài, truyện Anh em sinh năm…).
- Nhân vật thần kì, siêu nhiên: người, thế lực, con vật có
phép mầu (Rùa vàng trong truyện Sự tích hồ gươm, ông bụt trong
truyện Cây tre trăm đốt…).
* Tính cách
Đa số các nhân vật đều mang trong mình những quan niệm
đạo đức, lối sống tiêu biểu, quan niệm về con người của nhân dân
(hiền lành, tốt bụng, trung thực, đều có tài năng…) các nhân vật
trong truyện phải trải qua diễn biến giống nhau (sống khổ cực vì


bị áp bức, bóc lột- trải qua thử thách- sống hạnh phúc) chứa đựng
những ước mơ vươn lên của người lao động và những giá trị đạo
đức (Ở hiền gặp lành, Ác giả ác báo…).
* Kết cấu
Kết cấu truyện cổ tích thần kì khá giống nhau và thường
gặp các loại kết cấu:
- Kết cấu kiểu “Đại thể”: các nhân vật trong truyện đều là
người nghèo khổ, bất hạnh. Ở loại kết cấu này, chính những

người lao động nghèo khổ, bất hạnh đã sáng tạo nên truyện cổ
tích. Thế giới nhân vật là những con người ngoài thực tại chịu
những bất công, cực khổ. Họ cố gắng vươn lên và mong chờ các
thế lực siêu tự nhiên giúp đỡ, ban phép màu.
- Kết cấu theo kiểu tuyến nhân vật: thiện- ác, tốt- xấu.
Nhân vật tốt thì tốt đến mức lý tưởng, bất chấp mọi hoàn cảnh,
còn nhân vật xấu thì xấu đến mức cực điểm. Đây là những nhân
vật biểu tượng cho giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
- Kết cấu theo kiểu môtip: dời nhà đi xa (truyện Thạch sanh,
truyện Cây khế…) bước vào tình huống, hoàn cảnh khác thường
(truyện Tấm Cám, Sự tích con muỗi…) môtip thử thách (truyện
Lấy vợ cóc,Truyện Sọ dừa…), chiến thắng thử thách, lực lượng thù
địch (truyện Tấm cám, truyện Cây khế…)
* Không gian và thời gian
Không gian trong truyện cổ tích thần kỳ là: không gian
cuộc sống trần thế và không gian phi trần thế
+ Không gian cuộc sống trần thế trong truyện cổ tích Việt
Nam chủ yếu là không gian làng quê mang đậm màu sắc dân tộc,
dân sinh


+ Không gian phi trần thế là không gian ở thiên phủ, thủy
phủ, âm phủ mang quan niệm tín ngưỡng bản địa và tôn giáo
ngoại lai.
Thời gian trong truyện cổ tích thần kỳ luôn là thời gian
trong quá khứ, truyện thường được bắt đầu bằng cụm từ “Ngày
xửa ngày xưa”, “Ngày xưa đã lâu lắm”…Có hai loại thời gian
+ Thời gian hiện thực là thời gian các nhân vật sống và hoạt
động trong cộng đồng
+ Thời gian kì ảo là thời gian biến đổi không theo nhịp thông

thường mà biến đổi kì lạ.
* Thực tại và hư cấu
Ở truyện cổ tích thần kỳ, thực tế thực tại là các tư tưởng, hoàn cảnh có thật
trong cuộc sống, yếu tố hư cấu mang tính chất kì ảo bắt nguồn từ các thế lực siêu
tự nhiên. Sự hư cấu và kì ảo chiếm ưu thế và là đặc trưng của truyện cổ tích thần
kỳ.
b) Truyện cổ tích sinh hoạt
* Khái niệm
Truyện cổ tích sinh hoạt là những câu chuuyện kể lại những sự
việc khác thường, li kì rút ra từ đời sống sinh hoạt, không có hoặc
có rất ít nhân tố ảo tưởng. Đây là những truyện bịa nhưng rất
“gần đời thiết thực”, chúng giữ được khá nguyên vẹn sắc thái, âm
hưởng, và đôi khi cả những hình thức diễn biến chủ yếu của muôn
nghìn câu chuyện vẫn xảy ra trong cuộc sống đa dạng của xã hội
loài người (truyện ba cô gái, truyện hai anh em…)
* Nhân vật
Nhân vật chính trong truyện cổ tích sinh hoạt khá đa dạng:
- Nhân vật đức hạnh: Người mẹ hiền, người con thảo (truyện Mẹ hiền, con
thảo), người vợ, người chồng tình nghĩa ( truyện Nghĩa cũ tình nay)…


- Nhân vật xấu xa: Người chồng bất lương (truyện Đồng tiền vạn lịch), đứa
con bất hiếu (truyện Đứa con trời đánh..)
- Nhân vật mưu trí : TruyệnTrạng Quỳnh, Em bé thông minh…
- Nhân vật khờ khạo: Truyện Chàng ngốc được kiện, Thằng chồng khờ…
- Các nhân vật xuất hiện theo cặp đối nghịch: Cặp nhân vật đức hạnh và
nhân vật xấu xa, cặp nhân vật mưu trí và cặp nhân vật khờ khạo.
* Xung đột
Truyện cổ tích sinh hoạt tập trung khai thác hai đề tài lớn: Đề tài đạo đức
và đề tài trí khôn, cụ thể là:

- Những truyện cổ tích sinh hoạt về đề tài đạo đức thường chỉ đơn giản là
những câu chuyện kể mang tính chất minh họa về những tấm gương kiểu mẫu về
hạnh phẩm hoặc những phản diện cùng loại. Ở những câu chuyện đơn tuyến, hầu
như không có xung đột, vấn đề đạo đức được đặt ra một cách đơn giản, trực diện,
ý nghĩa truyện cụ thể.
- Những truyện cổ sinh hoạt về đề tài trí khôn, xung đột là xung đột xã hội.
Đó là những câu chuyện kể về cuộc tả xung hữu đột của nhân vật mưu trí với đám
cường hào, quan lại thậm chí với cả vua chúa, thánh thần. Ẩn chứa ước mơ của
người dân thường về một nền công lý sáng suốt, công bằng. Ở đây những mâu
thuẫn đã vượt ra ngoài mâu thuẫn gia đình- đó là mâu thuẫn xã hội.
* Kết cấu
Truyện cổ tích sinh hoạt không xây dựng theo kết cấu, sơ đồ chung nào.
Các câu chuyện kể thường sinh động vì những môtip xã hội và sinh hoạt được
dùng làm cơ sở không có tính bền vững. Một số kết cấu thường gặp:
- Kiểu kết cấu “kể sự việc”: những truyện này chỉ kể sự việc, không tả
người, kể sự việc để về ra tính cách của nhân vật. Truyện đơn giản, không có xung
đột trực diện (truyện Mài dao dạy vợ, Giết chó khuyên chồng…)
- Kết cấu “xâu chuỗi” là kiểu kết cấu tiêu biểu, truyện kể về những cuộc
phưu lưu của nhân vật mưu trí và nhân vật khờ khạo. Các phiêu lưu rất gần gũi với
thế giới thực tại quanh ta (truyện Trạng Quỳnh, Ông Ó…).


* Không gian, thời gian
Không gian và thời gian trong truyện cổ tích sinh hoạt rất gần gũi với người
kể, người nghe truyện. Bối cảnh sinh hoạt của câu chuyện kể quen thuộc với họ,
khung cảnh nông thôn và gia đình nông thôn, kẻ buôn bán và chuyên lừa đảo…
điều này cho phép họ đặt mình vào vị trí nhân vật. Câu chuyện như xảy ra không
xa, mà cũng chưa lâu, trong cuộc đời hàng ngày.
* Thực tại và hư cấu
Ở truyện cổ tích sinh hoạt, thực tế thực tại đã trở thành cái nền của câu

chuyện kể. Những môtip xã hội chiếm một vị trí lớn trong truyện cổ tích sinh hoạt.
Yếu tố hư cấu không mang tính chất kì ảo như cổ tích thần kì. Hư cấu trong truyện
cổ tích sinh hoạt thường xây dựng trên sự miêu tả phi lí. Câu chuyện kể cho đến
một lúc nào đó, hoàn toàn giống như thật, tính phi lí bộc lộ khi có sự miêu tả
phóng đại một vài nét tính cách nào đó của nhân vật hoặc một tình huống khác
thường. Tính chất gây cười của truyện cổ tích sinh hoạt bắt nguồn từ chỗ đó.
c) Truyện cổ tích loài vật
* Khái niệm
Truyện cổ tích loài vật là các câu chuyện mà nhân vật là các con vật, những
con vật nuôi trong nhà, khi miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn
gốc các đặc điểm đó: truyện Trâu và ngựa, Chó ba cẳng...; nhóm hoang dã là hệ
thống truyện về con vật thông minh, dùng mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn
nó: Cóc kiện Trời, truyện Công và Quạ…Truyện dân gian Nam Bộ về loài vật có:
Sự tích cù lao Ông Hổ...; Chuỗi Truyện Bác Ba Phi: Cọp xay lúa, Gác kèo ong
mật, Câu ếch…
* Nhân vật
Nhân vật trong truyện cổ tích loài vật là những con vật quen thuộc (con trâu,
con bò…) hay xa lạ (con hổ, con chó sói…)


- Nhân vật chính: Trong câu chuyện có con vật đóng vai trò chính, xuất hiện
nhiều và xuyên suốt trong truyện như: Cóc tía (truyện Cóc kiện trời), con quạ, con
công (truyện Quạ và công)…
- Nhân vật phụ: đó là những con vật giúp câu chuyện thêm sinh động, hấp dẫn
và làm nổi bật nhân vật chính như: Con cọp, con cua, đàn ong (truyện Cóc kiện
trời), đàn chim (truyện Quạ và công)…
- Nhân vật chính diện: Là các con vật đại diện cho cái thiện, cái tốt, những con
vật dũng cảm chống lại cái ác, cái xấu như: Con thỏ (truyện Thỏ lại gặp cọp), Cóc
tía (truyện Cóc kiện trời), con châu chấu (truyện Châu chấu và đàn khỉ)…
- Nhân vật phản diện: Là các con vật độc ác, đi lừa gạt, bắt nạt các con vật khác

như: Con cọp (truyện Thỏ con lại gặp cọp), con cáo (truyện Cáo, thỏ, gà trống)…

* Nội dung
- Nhóm đề tài nói về con vật nuôi trong nhà. Loại truyện này khi miêu tả đặc
điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó (truyện Trâu và ngựa,
truyện Chó ba cẳng ...).
- Nhóm đề tài nói về con vật hoang dã, thường là các con vật sống trong rừng
Nổi bật trong nhóm này là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng mẹo lừa để
thắng các con vật mạnh hơn nó (truyện Thỏ trắng, truyện Chú dê đen…). Nhóm
truyện này có ý nghĩa ca ngợi trí thông minh của người bình dân
Nhìn chung, truyện cổ tích loài vật nêu lên những nhận thức, hiểu biết của con
người về thế giới các con vật. Một bộ phận truyện cổ tích loài vật có nhân vật là con
người tham gia, một bộ phận khác nhân vật trong truyện hoàn toàn là các con vật.
Những nhân vật chính thường là các con vật gần gũi( trâu ,ngựa, bồ câu, sáo) các con
vật trong rừng tuy hoang dã nhưng lại quen thuộc( hổ, khỉ, thỏ ,rùa...) các con vật ở
vùng sông nước( sấu, cá...), Những con vật nầy ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống
con người.
Truyện dân gian về loài vật không chỉ có cổ tích mà còn có thần thoại và
ngụ ngôn. Với ba thể loại trên, con vật đều được nhân cách hóa. Nhưng nếu nhân


cách hóa trong thần thoại gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao
của người cổ đại thì trong truyện cổ tích sự kế thừa tư duy thần thoại đó còn nhằm
phản ánh xã hội loài vật. Ðối với truyện ngụ ngôn, tác giả dân gian đã có ý thức
dùng câu chuyện để diễn đạt ý niệm trừu tượng. Tuy nhiên , cũng cần lưu ý đến
hiện tượng 2-3 mảng của một số tác phẩm. Chẳng hạn, truyện Cóc kiện Trời vừa
là thần thoại vừa là cổ tích loài vật, truyện Công và quạ vừa là thần thoại, cổ tích
vừa là ngụ ngôn. Trong kho tàng truyện dân gian Nam Bộ về loài vật, có thể tìm
thấy thể loại truyền thuyết( Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch Mồ Thị
Cư, Sự tích cù lao Ông Hổ...).

1.2.3. Truyện cổ tích dạy trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non
- Truyện Ba cô gái
- Truyện Hai anh em
- Truyện Cây khế
- Truyện Thánh gióng
- Truyện Cây tre trăm đốt
- Truyện Thạch sanh
-Truyện Bánh chưng bánh dày
- Truyện Sự tích hồ gươm
- Truyện Đồng tiền vạn lich
- Truyện Sọ dừa
- Truyện Em bé thông minh
- Truyện chiếc rìu của thủy thần.
- Truyện Sự tích trầu cau
- Truyện Sơn tinh, thủy tinh
- Truyện Hòn ngọc ước
- Truyện chàng ngốc được kiện
- Truyện con thỏ, con gà và con hổ
- Truyện Trâu và ngựa
- Truyện Con chó đá


- Truyện Cáo và chó sói
- Truyện Phượng hoàng đất
- Truyện Cóc kiện trời
- Truyện Quạ và công
1.3. Phương pháp kể chuyện
1.3.1. Khái niệm
Kể chuyện là một hoạt động nghệ thuật nhằm truyền đạt hành động sự kiện
của một câu chuyện được chứng kiến với người khác. Kể chuyện có thể dùng văn

bản hoặc ngôn bản. Kể chuyện là một quá trình lao động và sáng tạo, nó mở ra cho
người kể sự sáng tạo nhiều hơn đọc truyện bởi người kể phụ thuộc hoàn toàn vào
văn bản. Có thể sử dụng ngôn ngữ văn tả tác phẩm và ngôn ngữ của mình. Khi kể
chuyện cần sự sáng tạo ở hình thức truyền đạt, cử chỉ, nét mặt điệu bộ mà không
làm thay đổi nội dung câu chuyện….kể chuyện phụ thuộc nhiều vào khả năng cảm
thụ, khả năng sáng tạo của người kể và người nghe.
Phương pháp kể chuyện là
1.3.2. Yêu cầu
Để sử dung hiệu quả phương pháp kể chuyện, giáo viên cần:
- Có khả năng kể chuyện diễn cảm.
- Hiểu tâm- sinh lý trẻ mẫu giáo lớn.
- Nắm rõ phương pháp và vận dụng hợp lý.
1.3.3. Hoạt động dạy trẻ kể chuyện cổ tích
Dạy trẻ kể truyện cổ tích là quá trình sư phạm, giáo viên kể tác phẩm cho trẻ
nghe, tạo môi trường cho trẻ bước vào hoạt động văn nghệ thuật vui vẻ, hứng thú.
Trẻ sẽ được nhắc lại tên truyện, các nhân vật và lời thoại của các nhân vật trong
truyện. Giáo viên trò chuyện với trẻ theo hệ thống câu hỏi và những điểm mấu
chốt của câu chuyện theo trình tự cốt truyện, nội dung, giá trị nghệ thuật và những
hành động chính của nhân vật, giúp trẻ nắm chắc những tình tiết chính và đánh giá
đúng đắn tính cách nhân vật, từ đó trẻ ghi nhớ và kể lại chuyện hiệu quả.


Phần quan trọng nhất của hoạt động chính là trẻ tự mình kể lại chuyện. giáo
viên cần giúp trẻ khi kể lại sẽ tái tạo được nội dung câu chuyện và lời nói, hình
ảnh nghệ thuật của riêng trẻ. Cô quyết định lựa chọn trẻ lên kể dựa vào mức độ
khó khăn của câu chuyện và nhiệm vụ đặt ra, đặc điểm của từng trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo lớn, trẻ truyền đạt lại lời thoại có biến đổi ngữ điệu
tương ứng với tình cảm của các nhân vật, sử dụng các phương tiện biểu cảm. Trẻ
có thể kể lại những câu chuyện cổ tích phức tạp như truyện Tám Cám, Sự tích hồ
gươm…



Chương 2
THỰC TRẠNG DẠY TRẺ MẪU GIÁO LỚN KỂ CHUYỆN CỔ TÍCH
Ở TRƯỜNG MẦM NON
2.1. Khái quát về trường mầm non
Trường Mầm non Quang Trung và trường Mầm non 19/5 là hai trường
mầm non lớn đạt trường chuẩn quốc gia, nằm trên địa phận thành phố Thái
Nguyên.
Trường Mầm non Quang Trung được xây dựng trên địa bàn phường Quang
Trung. Tiền thân là trường Mầm Non Đại Học Y Khoa thành lập năm 1986, đến
năm 2005 chuyển về địa bàn phường Quang Trung và đổi tên thành trường Mầm
Non Quang Trung. Tổng số cháu là 604 cháu với 13 lớp học, 47 giáo viên. Nhà trẻ
chiếm 3 lớp với 90 cháu, còn lại là mẫu giáo chia đều cho 10 lớp. Trường Mầm
non Quang Trung thực hiện chương trình giáo dục mới. Năm học 2012-2013
trường có 4 lớp mẫu giáo lớn với 8 giáo viên phụ trách.
Trường Mầm non 19/5 thành lập ngày 19/5/1980 trường nằm trên địa bàn
phường Hoàng Văn Thụ- TP Thái Nguyên. Trước năm 1980, trường 19/5 là một
nhà trẻ gồm 3 lớp có 70 trẻ và 10 cán bộ, giáo viên. Năm 1978, trường Mầm non
19/5 là một trong ba trường mầm non được UNICESS đầu tư xây dựng ở Thái
Nguyên. Trường đặt ở trung tâm thành phố với diện tích 12000m2. Với diện tích
rộng trường đã có điều kiện quy hoạch các khu vui chơi, học tập, cơ sở vật chất
đầy đủ để phục vụ tốt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ. Năm học 2012-2013
trường có 13 lớp mẫu giáo lớn với 27 giáo viên phụ trách chăm sóc giáo dục trẻ


2.2. Thực trạng dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường mầm non
2.2.1. Mục đích điều tra
Nghiên cứu thực trạng hoạt động dạy trẻ kể chuyện cổ tích ở mẫu giáo lớn
trường mầm non

2.2.2. Cách thức điều tra
2.2.2.1 Địa bàn điều tra
Chúng tôi tiến hành phát phiếu tới giáo viên tại lớp mẫu giáo lớn Hoa Hồng
I, Hoa Hồng II , Hoa Hồng III, lớp Hoa Hồng IV ở trường Mầm non Quang Trung
và ở 4 lớp mẫu giáo lớn D1, D2, D3, D4 của trường Mầm non trường 19/5.
Lý do chúng tôi chọn trường Mầm non 19/5 và trường Mầm non Quang
Trung là:
- Hai trường mầm non nằm trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nên có đủ
các điều kiện thuận lợi để chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn cao và đồng đều, 100% giáo
viên có trình độ từ trung cấp trở lên, có kinh nghiệm lâu năm, yêu nghề, có tâm
huyết, yêu trẻ. Các giáo viên phụ trách các lớp mẫu giáo lớn có tuổi nghề tương
đối đồng đều, nhiệt tình trong công tác, luôn tìm tòi đổi mới phương pháp dạy và
học.
- Hai trường có cơ sở vật chất tốt, có các phòng học, khu nhà trang bị đầy
đủ các thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy của giáo viên và học tập, vui chơi
cho trẻ.
- Đa số trẻ ngoan, khoẻ mạnh, học tốt. Nhìn chung, các trẻ đều đạt sức khoẻ
tốt. Đặc điểm phát triển tâm lý đạt mức khá cao, trẻ phát triển trí tuệ mạnh, khả
năng xử lý tình huống nhanh hơn so với các lứa tuổi trước. Ngôn ngữ của trẻ phát
triển nhanh, khả năng giao tiếp và trình bày ý kiến của mình một cách mạch lạc, rõ
ràng, trẻ thể hiện tình cảm một cách mạnh mẽ.


2.2.2.2 Nội dung điều tra
- Nhận thức của giáo viên về việc dạy trẻ kể chuyện cổ tích.
- Các phương pháp, biện pháp và hình thức dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ
tích
- Hoạt động kể chuyện cổ tích của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non
2.2.2.3. Phương pháp điều tra

- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát giờ dạy trẻ kể chuyện cổ tích ở
lớp mẫu giáo lớn ở trường mầm non
- Phương pháp điều tra:
+ Phát phiếu điều tra dành cho giáo viên trực tiếp giảng dạy tại các lớp mẫu
giáo lớn của 2 trường mầm non
+ Điều tra nhận thức, khả năng kể chuyện cổ tích của trẻ mẫu giáo lớn.
2.2.3. Kết quả điều tra
Chúng tôi đã tiến hành điều tra dựa trên phiếu anket 16 giáo viên của hai trường
mầm non và thu được kết quả tại bảng 2.1 như sau:
a) Bảng số liệu
Bảng 2.1 Kết quả điều tra phiếu anket
Trả lời
ST

Nội dung câu hỏi

T

*Tác dụng của việc dạy trẻ mẫu
1

giáo lớn kể chuyện cổ tích ở trường
mầm non

Trường Mầm non
Quang Trung

Trường Mầm non
19/5


Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

giáo viên

(%)

giáo viên

(%)


- Phát triển ngôn ngữ

8

100

8

100

- Giúp trẻ phát triển tư duy, làm

8


100

8

100

- Rèn luyện khả năng diễn đạt

8

100

7

87,5

- Rèn luyện tính mạnh dạn, thể hiện

4

50

6

75

- Hoạt động học

8


100

8

100

- Hoạt động góc

3

37,5

4

50

- Hoạt động vui chơi

3

37,5

2

25

- Hoạt động nghệ thuật, ngày lễ hội

6


75

7

87,5

- Đàm thoại

8

100

8

100

- Đọc, kể diễn cảm

8

100

8

100

- Giảng giải, trích dẫn

6


75

5

62,5

- Thực hành

4

4

6

75

- Kể chuyện diễn cảm

8

100

8

100

- Kể chuyện theo tranh

8


100

7

87,5

- Kể chuyện bằng rối tay, mô hình

6

75

5

62,5

- Kể chuyện sử dụng ứng dụng tin

4

50

6

75

giàu vốn hiểu biết

bản thân

* Hình thức dạy trẻ mẫu giáo lớn
kể chuyện cổ tích
2

* Phương pháp dạy trẻ mẫu giáo
lớn kể chuyện cổ tích
3

* Biện pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn
4

kể chuyện cổ tích

học


* Những thuận lợi khi tổ chức dạy
trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích
5

ở trường mầm non
- Trẻ mẫu giáo lớn thích kể chuyện

8

100

8

100


7

87,5

6

75

8

100

8

100

3

37,5

2

25

2

25

2


25

6

75

5

62,5

2

25

4

50

cổ tích
- Nhận thức của trẻ khá đồng đều
- Đa số trẻ mẫu giáo lớn đã được
học kể chuyện cổ tích từ các lớp
dưới
* Những khó khăn khi tổ chức dạy
trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích
6

ở trường mầm non
- Trẻ chậm hiểu, chưa tích cực

- Giáo viên chưa lựa chọn hình
thức, phương pháp, biện pháp phù
hợp
- Thiếu thời gian và cơ sở vật chất
- Khả năng diễn đạt ngôn ngữ, vốn
từ của trẻ còn hạn chế

b) Nhận xét
* Thực trạng nhận thức của giáo viên về tác dụng của việc dạy trẻ mẫu giáo lớn kể
chuyện cổ tích ở trường mầm non
Tác dụng của việc dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện cổ tích được thể hiện trên
nhiều phương diện phát triển của trẻ. Về phương diện ngôn ngữ, khi kể chuyện cổ
tích, giáo viên đã giúp trẻ nắm vững ngữ âm, ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ,
biết sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung giao tiếp. Khi được tiếp xúc


×