Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

KHAI THÁC DU LỊCH MÙA NƯỚC NỔI Ở TỈNH AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.11 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói mùa nước nổi là đặc trưng riêng của miền sông nước miền Tây Nam
Bộ, một đặc trưng được thiên nhiên trao tặng, qua thời gian dần trở thành một nét văn
hóa, vẻ đẹp của sông nước miền Tây mà chẳng nơi nào có được. Nếu như trước kia, mùa
nước nổi là nỗi ám ảnh hàng ngàn người dân vùng An Giang, thì nay đã trở thành mùa
“hái ra tiền”của bà con và các công ty du lịch. Mùa nước nổi ở An Giang ngày nay đang
thu hút được nhiều khách du lịch.
Có lẽ ba từ “mùa nước nổi” là cách gọi nên thơ của những người làm du lịch
nhưng đối với người dân miền Tây Nam Bộ thì đây chính là mùa lũ.
Hàng năm, bắt đầu từ khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch, nước lũ từ thượng
nguồn sông Mêkông ào ạt đổ về hạ lưu. Hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp ở đầu nguồn, là
nơi đón lũ về sớm nhất. Mùa nước nổ đem phù sa về cho ruộng đồng, không những thế
còn đem lại những cảnh sắc tuyệt vời làm ngơ ngẩn lòng du khách mà đặc biệt là đem về
tôm cá, làm nên những món ngon đậm chất Nam Bộ.
An Giang là vùng đất giàu tiềm năng, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều loại thực
vật và thủy sản nước ngọt vô cùng phong phú, có bốn dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer
cùng sinh sống với nền văn hóa đa dạng. Vì thế, những món ngon của An Giang đều
mang đậm bản sắc riêng, đặc biệt là ẩm thực mùa nước nổi có thể khai thác du lịch.
Các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An là những tỉnh đón đầu cơn lũ từ thượng
nguồn sông Mê Kông đổ xuống và cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Mùa lũ mang đến
những tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế. Trong đó khai thác dịch vụ du lịch mùa nước
nổi vốn là thế mạnh và An Giang là một trong số các tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu
Long chiếm nhiều ưu thế và có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch
này. Tuy nhiên, để phát triển lâu dài và bền vững loại hình di lịch này chúng ta cần phải
có những nghiên cứu và vạch ra một kế hoạch cụ thể. Bên cạnh đó, phải định hướng phát
triển loại hình du lịch mùa nước nổi một cách đúng đắn sao cho không ảnh hưởng nhiều
đến môi trường tự nhiên, không ảnh hưởng đến môi trường sống của các loài sinh vật và
phải bảo vệ tuyệt đối các loài động vật, thực vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Để góp phần làm cho cuộc sống người dân ở vùng lũ An Giang thoát khỏi tình
trạng khó khăn, có việc làm và thu nhập ổn định thì chúng ta phải tận dụng tối đa nguồn


lợi mùa lũ mang đến, phát triển và đầu tư dịch vụ du lịch mùa nước nổi là giải pháp thích
1


hợp và tối ưu nhất, điều đó góp phần thúc đẩy nền du lịch An Giang ngày càng phát triển.
Du lịch mùa nước nổi cũng tạo điều kiện cho du khách có sự kết nối, trải nghiệm và tìm
hiểu sâu hơn về cuộc sống khó khăn của người dân vùng lũ như thế nào. Vì thế, tôi chọn
đề tài “ Khai thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang” làm niên luận để có
những nghiên cứu nhằm khai thác tối đa những tiềm năng du lịch mùa nước lũ ở tỉnh An
Giang và tạo ra một loại hình du lịch mới “ Du lịch mùa nước nổi” mà An Giang là địa
phương phát triển mạnh nhất loại hình du lịch này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Lê Huy Bá (2006), Du lịch sinh thái, NXB Khoa học và Kỹ thuật. Trong cuốn
sách “Du lịch sinh thái” của tác giả Lê Huy Bá đã nghiên cứu và đi sâu vào tìm hiểu về du
lịch sinh thái, tác giả còn đưa ra những định hướng khai thác và phát triển du lịch sinh
thái ở một số nơi trên khắp đất nước Việt Nam phân tích những điểm mạnh điểm yếu và
đưa ra các giải pháp khắc phục. Cuốn sách này của Lê Huy Bá khá toàn diện nhưng
không đề cập nhiều về vấn đề du lịch mùa nước nổi mà An Giang là tỉnh đứng đầu về loại
hình du lịch này. Vì thế, đề tài sẽ tập trung vào vấn đề khai thác những tiềm năng du lịch
mùa nước nổi ở tỉnh An Giang.
Tăng Tấn Lộc (2008), Xuồng ba lá – Nét đặc trưng trên sông nước đồng bằng
(Văn hóa sông nước Cần Thơ), NXB Văn nghệ Tp.HCM. Trong đề tài này của Tác giả
Tăng Tấn Lộc đã nghiên cứu và tìm hiểu một cách đầy đủ về xuồng ba lá và nét đặc trưng
của nó trên sông nước đồng bằng. Vấn đề mà đề tài nghiên cứu ở đây là thuộc về du lịch
mùa nước nổi tỉnh An Giang, sông nước mênh mông nên phương tiện di chuyển chủ yếu
ở đây là ghe, xuồng ba lá…Vì thế, đề tài sẽ khai thác xuồng ba lá vào du lịch mùa nước
nổi ở tỉnh An Giang.
Phạm Trung Lương, (1999), Tiềm năng, hiện trạng và định hướng phát triển du
lịch sinh thái tại Việt Nam. Tuyển tập báo cáo Hội thảo Xây dựng chiến lược quốc gia
phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam. Tác giả Phạm Trung Lương đã

có hướng đi vào nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng và định hướng phát triển du lịch sinh
thái tại Việt Nam, nhưng vì phạm vi nghiên cứu của tác giả rất rộng nên không thể đi sâu
vào nghiên cứu loại hình du lịch mùa nước nổi. Vì thế, đề tài sẽ đi sâu vào nghiên cứu và
khai thác những tiềm năng du lịch mùa nước nổi mà An Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng
nhất.
Đào Công Tiến (Chủ biên), (2002), "Kinh tế -xã hội và môi trường vùng ngập lũ
đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Và (2001) "Vùng ngập lũ
2


đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp", Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh. Đây là đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước tiến hành điều tra nghiên cứu về
vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trên các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên, tài nguyên
và đa dạng sinh học; cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ; hệ thống canh tác nông -lâm -ngư kết
hợp; nước sạch và vệ sinh môi trường; giáo dục và dạy nghề...
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với đề tài “ Khai thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang”. Nhằm
hướng tới việc biến những khó khăn của mùa lũ ở tỉnh An Giang trở thành tiềm năng to
lớn để phát triển du lịch vào mùa nước nổi chúng ta sẽ nghiên cứu về thực trạng và tìm ra
những giải pháp chiến lược để khai thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang,
phân tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với loại hình du lịch này. Từ đó,
sẽ đề xuất ra một kế hoạch cụ thể để phát triển loại hình du lịch này trong tương lai.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được nghiên cứu là khai thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An
Giang. Với mục đích biến mùa nước nổi trở thành một loại hình du lịch mới và mang đặc
trưng, nét văn hóa riêng của vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Chính vì thế khai thác
thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi là rất cần thiết cho việc hình thành và phát triển loại
hình du lịch mới này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Vào mùa lũ, một số nơi ở tỉnh An Giang bị nhấn chìm trong nước, để khai thác và
phát triển loại hình du lịch mùa nước nổi thì phải tìm ra những địa điểm thuận lợi có thể
khai thác du lịch. Trong đó các địa điểm thuộc tỉnh An Giang như: rừng tràm Trà Sư,
Búng Bình Thiên, kênh Vĩnh Tế hay chợ nổi Long Xuyên là những điểm có tiềm năng để
có thể nghiên cứu và khai thác du lịch vào mùa nước nổi. Vì thế trong đề tài nghiên cứu
này đề tài sẽ tập trung khai thác vào những địa điểm này.
5. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm tổng hợp
Các yếu tố tự nhiên như: khí hậu, đất đai, vị trí địa lí, sông ngòi…và yếu tố như:
kinh tế - xã hội, văn hóa, con người… Đó là những yếu tố chủ yếu và quan trọng hình
3


thành nên mùa nước nổi mang đặc trưng và nền văn hóa riêng của miền sông nước An
Giang. Mùa nước nổi dần trở thành một nét sống của người dân nơi đây và được gắn bó
qua nhiều thế hệ.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Quan điểm lãnh thổ còn được gọi là quan điểm vùng miền, do những đặc điểm về
vị trí địa lí, xã hội và con người nên đã hình thành một mùa nước nổi mang những đặc
trưng riêng của tỉnh An Giang, chính vì những yếu tố đó đã ảnh hưởng đến nền văn hóa
sông nước và cách sống của con người nơi đây, từ đó hình thành nên nét văn hóa riêng
của tỉnh An Giang mà chẳng nơi nào có được và qua nhiều thế hệ nó vẫn được giữ gìn và
ngày càng mang đậm nét văn hóa đặc trưng riêng của người dân miền sông nước An
Giang.
5.1.3. Quan điểm lịch sử
Mọi sự vật hiện tượng của mùa nước nổi ở tỉnh An Giang đều có quá trình vận
động, quá trình ấy có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại và vẫn được tiếp diễn và kéo
dài cho đến tương lai. Quan điểm này được vận dụng khi phân tích các thực trạng chủ yếu
của quá trình phát triển du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang và dự báo hướng phát triển

hệ thống lãnh thổ của du lịch tỉnh An Giang.
5.1.4. Quan điểm viễn cảnh
Để duy trì và phát triển lâu dài và bền vững du lịch mùa nước nổi thì chúng ta cần
phải có một chiến lược, một kế hoạch cụ thể và có những định hướng khai thác và phát
triển những tiềm năng to lớn từ mùa nước nổi, song song với đó thì chúng ta cần có biện
pháp bảo tồn những giá trị văn hóa mang đặc trưng riêng của miền sông nước Cửu Long,
bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên và các loài động thực vật quý hiếm. Biết kế thừa và phát huy
những truyền thống mà ông cha ta ngày xưa đã để lại qua đó cho ta thấy những thế hệ
trước đã biết tận dụng những gì mà thiên nhiên trao tặng cho con người mà điển hình là
những giá trị to lớn từ mùa nước nổi mang đến.
Dựa vào nghiên cứu khoa học, thu thập những thông tin, kiến thức về những giá
trị to lớn từ mùa nước nổi nên tôi đã tiến hành nghiên cứu và làm đề tài này nhằm mở ra
một định hướng để khai thác những tiềm năng du lịch mùa nước nổi và vạch ra một chiến
lược để phát triển lâu dài loại hình du lịch này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thống kê và nghiên cứu tài liệu
4


Đề tài đã thu thập những tài liệu có liên quan đến du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An
Giang như: điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hộ và đặc biệt là nét đặc trưng riêng của mùa
nước nổi ở tỉnh An Giang. Đề tài thu thập những tài liệu qua sách báo, internet…đáng tin
cậy sắp xếp và xử lý tài liệu một cách có hệ thống, phân tích từng nội dung và đưa ra
những kết luận chính xác.
5.2.2. Phương pháp tổng hợp so sánh
Những thông tin sau khi được đề tài thu thập được tại các điểm du lịch mùa nước
nổi ở tỉnh An Giang sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp với nội dung của
từng phần, bên cạnh quá trình thu thập và tổng hợp phải có cái nhìn bao quát về du lịch
mùa nước nổi ở tỉnh An Giang.
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, sử dụng các phương pháp nghiên
cứu thực địa, phương pháp lấy mẫu, phương pháp sử dụng nhật kí ghi chép, và phương
pháp thu thập số liệu từ những địa điểm du lịch vào mùa nước nổi ở tỉnh An Giang… trên
cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Vận dụng các phương pháp vào đề tài nghiên cứu để góp phần vào việc nhận thức
vai trò, tác dụng to lớn và lâu dài của những giá trị trong du lịch mùa nước nổi của tỉnh
An Giang, qua đó góp phần vào việc khai thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi một cách
tốt và hiệu quả nhất.
5.2.4. Phương pháp khảo sát thực tế.
Trong đề tài này có sử dụng phương khảo sát thực tế. Qua khảo sát thực tế, đề tài
đã thu thập được những số liệu, tài liệu và những thông tin cần thiết từ các điểm du lịch
và những người dân ở tỉnh An Giang. Khảo sát thực tế sẽ giúp cho đề tài có cái nhìn toàn
diện, bao quát và có sự trải nghiệm thực tế hơn về những tiềm năng, thực trạng của mùa
nước nổi, qua đó đề tài sẽ tìm ra những giải pháp để khai thác tiềm năng du lịch mùa nước
nổi và tìm ra những biện pháp để khắc phục những khó khăn và hạn chế trong vấn đề khai
thác du lịch mùa nước nổi.
6. CẤU TRÚC CỦA BÀI NIÊN LUẬN
Cấu trúc của niên luận gồm có phần mở đầu, kết luận, phụ lục và phần nội dung.
Phần nội dung của đề tài có cấu trúc như sau:
Chương 1: Tìm hiểu chung về du lịch mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long
5


Chương 2: Khai thác tiềm năng du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang.
Chương 3: Những định hướng khai thác và giải pháp phát triển du lịch mùa nước
nổi ở tỉnh An Giang.

6



NỘI DUNG
Chương 1 – TÌM HIỂU CHUNG VỀ DU LỊCH MÙA NƯỚC NỔI Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.1. DU LỊCH
1.1.1. Quan niệm về du lịch
Thuật ngữ “Tourism” (Du lịch) hiện nay trở nên thông dụng. Thuật ngữ này bắt
nguồn từ Hy Lạp và trở thành một từ trong tiếng Pháp: “Tour” có nghĩa là đi vòng quanh,
đi dạo chơi… trong tiếng Việt, “ Du lịch” là một từ Hán - Việt , trong đó “Du” cũng có
nghĩa tương tự như chữ “Tour” (du khảo, du ngoạn, du xuân…).
Theo liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức( International Union of
Official Travel Oragnization: IUOTO): du lịch được hiểu là hành động du hành đến một
nơi khác với điạ điểm cư trú thường xuyên cuả mình nhằm mục đích không phải để làm
ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống...
Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma- Italia ( 21/8 – 5/9/1963), các chuyên
gia đưa ra định nghiã về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các
hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú cuả cá nhân hay tập thể ở
bên ngoài nơi ở thường xuyên cuả họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ
đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.
Theo (WTO,1994): “Du lịch là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên
quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ
nhằm mục đích giải trí, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức,… và nhìn chung là vì những lí do
không phải để kiếm sống”
Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì: họat động du lịch là tổng hoà hàng loạt quan
hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ
thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện.
Theo I.I Pirôgionic, 1985 thì; Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời
gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên
nhằm nghĩ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức
văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá
Theo nhà kinh tế học người Áo Josep Stander nhìn từ góc độ du khách thì: khách


7


du lịch là laọi khách đi theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn sinh họat
cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.
Tuyên bố La Hay (Hà Lan) về du lịch đã nêu: “Du lịch là một hoạt động cốt yếu
của con người và xã hội hiện đại. Bởi một lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan
trọng trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao
lưu trong các mối quan hệ giữa con người với con người”.
Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch tại Canađa (1991) đã đưa ra định nghĩa: “Du
lịch là các hoạt động của con người đi tới một nơi ở thường xuyên của mình trong một
khoảng thời gian ít hơn thời gian được tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới
thăm”.
Nhìn từ góc độ thay đổi về không gian của du khách: du lịch là một trong những
hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang
một nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc.
Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ
cho nhu cầu tham quan giải trí nghĩ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa
bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Nhu cầu du lịch một mặt phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên, chính tri, kinh tế
xã hội,…mặt khác các điều kiện trên lại luôn bị “khúc xạ” trong mỗi con người cụ thể
thông qua kinh nghiệm và những đòi hỏi bên trong của mỗi con người.
Như vậy, trước hết du lịch được hiểu là hoạt động của cá nhân hay một nhóm dân
cư. Du lịch là hiện tựợng những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngoại trừ mục đích kiếm tiền; đồng thời
những người này phải tiêu tiền họ kiếm được ở nơi khác. Ngày nay, người ta đã thống
nhất rằng về cơ bản tất cả các dạng hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài
nước, ngoại trừ việc đi cư trú chính trị, đi tìm việc làm và đi xâm lược, đều mang ý nghĩa

du lịch.
Du lịch còn được hiểu là một hoạt động kinh tế hay một ngành kinh doanh. Theo
định nghĩa này, du lịch là toàn bộ các hoạt động phối hợp nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu
của khách du lịch. Đứng trên góc độ kinh tế có thể khẳng định: “Du lịch là một ngành
kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động: tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao
đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”.
8


Như vậy, khái niệm du lịch thể hiện mối quan hệ tác động tổng hợp của các yếu tố
liên quan đến hoạt động du lịch: “Du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối
quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du
lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu
giữ khách du lịch”.
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Từ những góc độ nêu trên, đề tài có phần đồng thuận với định nghĩa về du lịch như
sau của (WTO,1994): “Du lịch là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên
quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ
nhằm mục đích giải trí, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức,… và nhìn chung là vì những lí do
không phải để kiếm sống”.
1.1.2. Phân loại du lịch
Du lịch là lĩnh vực hoạt động rất đa dạng và phức tạp nên có nhiều cách phân loại
du lịch khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại du lịch thông dụng nhất.
Căn cứ vào mục đích đi du lịch:
Du lịch tham quan: Nhằm thoả mãn nhu cầu đi xem phong cảnh đẹp, hưởng niềm
vui được hiểu biết về đất nước, con người, sản vật tại nơi tham quan. Tham quan thường
đi đôi với giải trí, làm cho đầu óc thêm sản khoái, yêu đời...
Du lịch nghĩ ngơi (giải trí): nhằm thay đổi môi trường, thoát khỏi công việc hằng

ngày để giải phóng thân thể, đầu óc thảnh thơi. Nghĩ ngơi có thể kèm theo tham quan
nhưng không di chuyển nhiều. Nghĩ ngơi cũng kèm theo các hoạt động giải trí để thoải
mái đầu óc...
Du lịch chữa bệnh: Đi du lịch nhằm chữa bệnh gắn với các cơ sở chữa bệnh hoặc
có điều kiện phục hồi sức khoẻ ( nguồn nước khoáng, khí hậu, khung cảnh thiên nhiên...)
Du lịch thể thao: Có nhiều loại hình thể thao trong hoạt động du lịch như săn bắt,
leo núi, bơi thuyền, lướt ván, chơi golf. Người ta chia thành 2 loại là du lịch thể thao chủ
động: du lịch để tham gia các hoạt động thể thao (leo núi, săn bắn, câu cá, bóng đá, bơi
lặn, trượt tuyết...); du lịch thể thao bị động : du lịch để xem thi đấu, trình diễn thể thao
(thế vận hội, thi đấu bóng đá...).

9


Du lịch công vụ: Loại hình du lịch này ngày càng phổ biến. Đây là sự kết hợp du
lịch với công việc như đàm phán, giao dịch, tìm hiểu thị trường, nghiên cứu cơ hội đầu tư,
đối tác, dự hội nghị.... Đây là loại hình du lịch có nhu cầu cao về phương tiện vật chất
nhưng khả năng thanh toán cao, các yếu tố ngẫu nhiên ít...
Du lịch tôn giáo: là loại hình du lịch tìm hiểu văn hoá lịch sử, các hoạt động tham
quan, thăm viếng các nơi thờ tự, có hệ thống chặt chẽ, thống nhất, có hệ thống kinh sách
ghi chép bài, nhằm nâng cao được giá trị tâm hồn, chân lý sống chân thực của cuộc sống
để hướng đến cái tốt đẹp.
Du lịch thăm hỏi: Du lịch để thăm người thân, bạn bè, dự lễ cưới, lễ tang...Hiện
nay loại hình du lịch này khá phát triển. ví dụ hằng năm ở nước ta dòng khách việt kiều
về nước rất đông.
Du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang được đề tài nghiên cứu thuộc loại hình du
lịch tham quan, trong đó du lịch mùa nước nồi thuộc loại hình du lịch sinh thái nhằm thỏa
mãn nhu cầu giải trí tham quan, tìm hiểu và khám phá thiên nhiên hoang dã... Không chỉ
trên thế giới mà cả Việt Nam có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch sinh thái, đề tài
sẽ đưa ra một số khái niệm về du lịch sinh thái.

1.1.3. Đặc trưng của du lịch
Ngành di lịch được xem là ngành “công nghiệp không khói”
Cụm từ “công nghiệp không khói” được dùng để chỉ ngành du lịch nhằm nhấn
mạnh một số tính chất đáng lưu ý của hoạt động du lịch. Trước hết, đó là tính chất sinh lợi
của hoạt động du lịch. Thứ đến, đó là một hoạt động sinh lợi mà không bị hệ lụy do ô
nhiễm môi trường từ chất thải công nghiệp. Thêm nữa, hoạt động du lịch xem ra có vẻ dễ
làm, đơn giản hơn công nghiệp, sinh lợi như công nghiệp mà lại không cần phải nhà máy,
ống khói. Từ nhận thức này, xã hội đã quan tâm nhiều đến du lịch, nhà nhà làm du lịch,
người người làm du lịch.
Tính đa ngành: Thể hiện ở đối tượng được khai thác để phục vụ du lịch. Ví dụ
như: sự hấp dẫn về cảnh quan thiên nhiên, các giá trị lịch sử, văn hóa…
Tính đa thành phần: Biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch,
người phục vụ du lịch, cộng đồng địa phương, các tổ chức tham gia hoạt động du lịch.
Tính đa mục tiêu: Biểu hiện ở lợi ích đa dạng về bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan
lịch sử văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, mở rộng giao lưu kinh tế,
văn hóa.
10


Tính liên vùng: Biểu hiện thông qua các tuyến du lịch, với một quần thể các điểm
du lịch trong một khu vực, một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau.
Tính mùa vụ: Biểu hiện thời gian diễn ra hoạt động du lịch tập trung với cường độ
cao trong năm.
Tính chi phí: Biểu hiện ở chổ mục đích đi du lịch là để hưởng thụ các sản phẩm du
lịch chứ không phải mục đích kiếm tiền.
Tính xã hội hóa: Thu hút toàn bộ mọi thành phần trong xã hội tham gia vào hoạt
động du lịch.
1.2. DU LỊCH SINH THÁI
1.2.1. Quan niệm du lịch sinh thái
Hector Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái,

định nghĩa Du lịch sinh thái lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh thái là du
lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những mục tiêu đặc
biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới động-thực vật hoang dã,
cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những
khu vực này" trích trong bài giảng Du lịch sinh thái của Nguyễn Thị Sơn.
Theo Hiệp hội Du lịch Sinh Thái (The Internatonal Ecotourism society) thì “Du
lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường
và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”.
Năm 1994 nước Úc đã đưa ra khái niệm “Du lịch sinh thái là Du lịch dựa vào thiên
nhiên, có liên quan đến sự giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên được quản lý
bền vững về mặt sinh thái”.
Theo Hiệp hội Du lịch sinh thái Hoa Kỳ, năm 1998 “Du lịch sinh thái là du lịch có
mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi
trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển
kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa
phương”.
Một định nghĩa khác của Honey (1999) “Du lịch sinh thái là du lịch hướng tới
những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra
ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi
trường, nó trực tiêp đem lại nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương
và nó khuyên kích tôn trọng các giá trị về văn hóa và quyền con người”.
11


Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia
về phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch sinh thái là hình thức
du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích
cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho
cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”.
Năm 2000, Lê Huy Bá cũng đưa ra khái niệm về du lịch sinh thái “Du lịch sinh

thái là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục
vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay
nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát
triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng như giáo dục
tuyên truyền và bảo vệ, phát triền môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền
vững”.
Trong luật du lịch năm 2005, có một định nghĩa khá ngắn gọn “Du lịch sinh thái là
hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham
gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. Theo quy chế quản lý các hoạt động du
lịch sinh thái tại các Vường quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ban hành năm 2007, thì Du lịch Sinh thái được hiểu là “Du lịch sinh thái:
Là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham
gia của cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm phát triển bền vững”.
1.2.2. Phân loại du lịch sinh thái
Các loại hình du lịch sinh thái :
Dã ngoại: là hình thức du lịch đưa con người về với thiên nhiên, sản phẫm du lịch
chủ yếu là tham quan thắng cảnh, hình thức này khá phổ biến ở Việt Nam.
Leo núi: đây là loại hình du lịch theo mục đích thể thao, chinh phục các đỉnh cao
như Fansipan, Bidoup, Bạch Mã... Ngoài ra còn có một số tour du lịch hành hương lễ hội
đến các điểm di tích lịch sử văn hoá nằm trên núi ở các khu bảo tồn thiên nhiên như Chùa
Hương, Yên Tử.
Đi bộ trong rừng: là hình thức du lịch sinh thái được ưa chuộng ở nhiều nước trên
thế giới. Ở Việt Nam đi bộ trong rừng là hình thức du lịch kết hợp tham quan các cảnh
quan tự nhiên ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phát triển.

12


Tham quan miệt vườn: chủ yếu phát triển ở nam bộ, hình thức du lịch sinh thái với
sản phẩm chủ yếu là tham quan nghiên cứu hệ sinh thái nông nghiệp. Tuy mới phát triển

trong thời gian gần đây, song đã thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước
Quan sát chim: các sân chim ở nước ta, đặc biệ là ở Đồng bằng sông Cửu Long có
số lượng chim khá lớn, thành phần loài phong phú, với nhiều loài đặc hữu, quý hiếm cần
được bảo vệ, là nơi thu hút nhiều nhà khoa học và du khách tới nghiên cứu, tham quan ...
hình thức du lịch quan sát chim ở các sân chim, các Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên chỉ mới phát triển, chưa phổ biến ở Việt Nam, tuy nhiên trong tương lai, nó sẽ là
hình thức phát triển thu hút nhiều du khách
Thăm bản làng dân tộc: đến thăm các bản làng dân tộc trong các vườn quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên thường được kết hợp tổ chức trong các tuyến du lịch mang sắc
thái du lịch sinh thái hiện nay ở Việt Nam. Khách du lịch có cơ hội để tìm hiểu các giá trị
văn hoá bản địa như tập tục sinh hoạt, sản xuất, hoạt động lễ hội, văn hoá dân gian, các
sản phẩm thủ công truyền thống, các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, các đặc sản ẩm
thực được hình thành và phát triển gắn liền với đặc điểm tự nhiên của khu vực.
Du thuyền: Việt Nam có hệ thống sông ngòi chằng chịt cùng với đường bờ biển
dài 3260km. Đây là tiền đề thuận lợi để tổ chức loại hình du lịch tham quan thắng cảnh
trên du thuyền đầy hấp dẫn. Hiện nay các tour du lịch trên sông nước ở đồng bằng sông
cừu long kết hợp tham quan các miệt vườn trên các cù lao hoặc ở hai bên bờ sông, du lịch
trên sông Hương, sông Hồng, hồ Hoà Bình, hồ Thác Bà ngày càng thu hút sự quan tâm
của khách du lịch.
Mạo hiểm: một số hình thức du lịch mạo hiểm đã bắt đầu được hình thành ở Việt
Nam như du lịch lặn biển, du lịch xuyên Việt bằng xe Zeep và mô tô vượt các loại hình
hiểm trở của đồi núi. Ngoài ra tour tham quan các hang động du lịch thám hiểm cũng đã
được tổ chức du lịch nhiều.
Săn bắt, câu cá: các hoạt động săn bắn thường được thực hiện tại các khu vực
khoanh vùng dành riêng cho hoạt động du lịch, đối tượng tham gia thường là khách có độ
tuổi trung niên. Còn hình thức câu cá thì khá phổ biến, phục vụ một số lượng khách đông
đảo.
Đề tài nghiên cứu về du lịch sinh thái mùa nước nổi ở An Giang, thuộc loại du lịch
tham quan về môi trường, tham quan rừng, ao hồ, quan sát sân chim, dã ngoại. Vì khi đến
du lịch sinh mùa nước nổi ở An Giang du khách sẽ được hòa mình với thiên nhiên, được

trải nghiệm những điều mới mẽ, du khách có thể hoá thân thành nông dân đi câu cá, giăng
13


lưới, và đặc biệt là thưởng thức những món ăn đặc sản, bên cạnh tham gia du lịch thì
chúng ta phải có ý thức về bảo vệ môi trường có như thế thì mới phát triển chúng bền
vững được.
1.2.3. Đặc trưng của du lịch sinh thái
Bên cạnh những đặc trưng của ngành du lịch, du lịch sinh thái cũng có những đặc
trưng riêng, đó là:
Tính giáo dục cao về môi trường: Du lịch sinh thái hướng cho con người tiếp cận
gần với những nơi có giá trị cao về đa dạng sinh học và rất nhạy cảm về mặt môi trường.
Để khắc phục tính gây áp lực đối với môi trường do hoạt động du lịch gây nên, du lịch
sinh thái được xem như là chiếc chìa khóa nhằm cân bằng giữa mục tiêu phát triển du lịch
với việc bảo vệ môi trường.
Góp phần bảo tồn các nguồn tài nguyên và duy trì tính đa dạng sinh học: Bên
cạnh việc có tác dụng giáo dục con người có ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi
trường, hoạt động du lịch sinh thái còn góp phần thúc đẩy các hoạt động bảo tồn, đảm bảo
yêu cầu phát triển bền vững.
Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Phát triển du lịch sinh thái hướng
con người đến các vùng tự nhiên hoang sơ, có giá trị cao về đa dạng sinh học, điều này
đặt ra một yêu cầu cấp bách là cần phải có sự tham gia của cộng đồng địa phương tại khu
vực đó, bởi vì hơn ai hết chính những người dân địa phương tại đây hiểu rõ nhất về nguồn
tài nguyên của mình. Sự tham gia của cộng đồng địa phương có tác dụng to lớn trong việc
giáo dục du khách bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường, đồng thời cũng góp phần
nâng cao hơn nữa nhận thức cho cộng đồng, tăng nguồn thu nhập cho cộng đồng.
1.3. MÙA NƯỚC NỔI
1.3.1. Quan niệm mùa nước nổi
Mùa nước nổi chính là mùa lũ, mùa nước nổi là tên gọi khác của mùa lũ. Theo Đại từ
điển tiếng Việt thì:

Lũ là "Hiện tượng nước dâng cao đầu nguồn, dồn vào dòng chảy, thường là rất
mạnh, trong thời gian tương đối ngắn".
Theo PGS.TS Trần Thanh Xuân thì: Thuật ngữ lũ chỉ hiện tượng nước sông dâng
cao trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó giảm dần. Trong mùa lũ, những trận
mưa liên tiếp trên lưu vực sông (vùng hứng nước mưa và sinh dòng chảy) làm cho nước
sông cũng từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra những trận lũ trong sông suối. Khi lũ
14


lớn, nước lũ tràn qua bờ sông (đê) chảy vào những chỗ trũng và gây ra ngập lụt trên một
diện rộng.
Các cách gọi như trên là đúng nhưng chưa đủ, để chỉ lũ ở đồng bằng sông Cửu
Long thì chúng ta phải dùng cả cụm từ là "mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long". Đây là
cách gọi đúng và đủ nhưng mang nặng tính bi quan, thiên về những tác hại do lũ gây ra
(lũ, lụt được ông cha ta từ xưa xếp vào một trong những thiên tai nguy hiểm nhất), bao
hàm những ý nghĩa tiêu cực của những thiệt hại về tài sản, tính mạng không bao hàm
được tính lạc quan trong chung sống với lũ. Vì thế, ta không thể dùng khái niệm lũ, lụt,
hay lũ lụt để gọi chung cho mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long.
Như vậy, cách gọi mùa nước nổi là cách gọi vừa ngắn, diễn tả một cách đầy đủ
nhất những đặc trưng riêng có của lũ ở đồng bằng sông Cửu Long vừa thể hiện tính lạc
quan trong quá trình chung sống và chinh phục vùng đất này của cư dân nơi đây.
1.3.2. Đặc trưng của mùa nước nổi
Mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long kéo dài khoảng 6 tháng, là hiện tượng
tự nhiên, có chu kỳ thường xuyên hàng năm, không xuất hiện đột ngột. Thường bắt đầu từ
tháng 7 và kết thúc vào tháng 10 hàng năm, lúc này cũng chính là mùa mưa ở châu thổ
sông Cửu Long. Ta có thể tạm chia mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thành ba giai
đoạn: giai đoạn đầu mùa lũ là lúc nước bắt đầu tràn từ thượng nguồn về các vùng trũng
thường tính từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8; giai đoạn cao điểm lũ là giai đoạn có đỉnh lũ
lớn nhất được tính từ đầu tháng 8 đến nửa đầu tháng 10; giai đoạn nước rút là giai đoạn lũ

giảm dần ở các tỉnh đầu nguồn và dồn về các tỉnh hạ lưu.
Hai là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long lên xuống với cường suất nhỏ, khoảng
5-7cm/ngày và kéo dài trong suốt mùa lũ. Mức độ biến động lũ giữa các năm không lớn,
nguyên nhân chính là do sự điều tiết tự nhiên của Biển Hồ ở Campuchia. Vì thế mà dạng
lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là tương đốiổn định và được điều hòa một cách tự nhiên,
không có hiện tượng cường suất lũ dâng cao nhanh như lũ ở miền Trung và miền Bắc.
Tuy nhiên, do địa hình đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng nên chỉ cần đỉnh
lũ tăng thêm vài chục cm là mức độ ngập lũ tăng một cách đáng kể. Đối với đồng bằng
sông Cửu Long, việc xác định lũ lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào cường độ lũ, lưu
lượng, tổng lượng mà yếu tố quan trọng là dựa vào mực nước. Theo phân cấp của Tổng
cục Khí tượng Thủy văn, mực nước trên sông Tiền tại Tân Châu thấp hơn 3,83 m là lũ
nhỏ, từ 3,83 m đến 4,83 m là lũ trung bình và trên 4,83 m là lũ lớn.
15


Ba là, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thường là lũ một đỉnh, đạt lớn nhất vào
khoảng từ cuối tháng 9 đến nửa đầu tháng 10. Tháng 8 thường xuất hiện một "đỉnh phụ"
bởi sau đỉnh này, vào đầu tháng 9, lũ hoặc bị hạ thấp đôi chút hoặc nằm ngang hay tăng
chậm hơn so với thời kỳ trước và sau đó. Đôi khi đỉnh lũ này lại cao hơn đỉnh lũ chính
tháng 10 (lũ năm 1978, 1991).
Bốn là, không chỉ chảy theo các nhánh sông chính, lũ còn tràn vào đồng bằng sông
Cửu Long bằng cách tràn qua và lấp đầy các khu trũng thấp dọc theo biên giới (nhất là ở
hai vùng ngập chính Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên). Diện tích ngập lũ khoảng
2 triệu ha, chiếm khoảng 2,5% diện tích lưu vực sông Mêkông nhưng phải gánh chịu tổng
lượng lũ khoảng 400 tỷ mét khối của toàn lưu vực đổ về. Trong đó, lượng theo các sông
chính khoảng 320 tỷ mét khối, còn lại thì tràn đồng và theo hệ thống kênh rạch đổ ra sông
chính. "Trong các trận lũ lớn, lượng nước lũ theo dòng chính chiếm khoảng 83,2 -90,86%
và tràn đồng khoảng 9,14 -16,8%. Nước lũ tràn đồng là tác nhân chính gây ngập lụt cho
vùng trũng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên”.
1.4. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH MÙA NƯỚC NỔI Ở ĐỒNG

BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.4.1. Cơ sở hạ tầng
Để du lịch Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng phát triển và phát huy tối đa tiềm
năng du lịch, Đồng bằng sông Cửu Long đang càng ngày chú trọng nhiều hơn đến việc
phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, xây dựng cở sở hệ thống lưu trú mới cả về số lượng và
chất lượng.
Bằng nhiều nguồn vốn, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cũng đầu tư thêm hàng
trăm tỷ đồng xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch, đồng thời khuyến khích nhiều
thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển du lịch vườn.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện có khoảng 900 cơ sở lưu trú du lịch, với 17.000
buồng/phòng, có khả năng đón tối đa 6,2 triệu lượt khách trong 365 ngày. Nhưng nói
chung, quy mô nhỏ (bình quân 20 phòng/cơ sở lưu trú), mới có 19 cơ sở lưu trú từ 3 đến 4
sao (1.248 phòng) và nhất là, vẫn còn 656 cơ sở với 11.334 phòng chưa được xếp hạng
(chiếm gần 70% tổng số phòng có thể đưa vào phục vụ toàn vùng). Hệ thống cơ sở ăn
uống Đồng bằng sông Cửu Long đa dạng, cả ở trong các cơ sở lưu trú và bên ngoài, từ
thực đơn Âu, Á đến ẩm thực truyền thống.
1.4.2. Nguồn nhân lực
16


Nhu cầu về nhân lực cho ngành du lịch của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long là
điều kiện cần khi các tỉnh miền Tây Nam Bộ muốn đa dạng hóa và đẩy mạnh tốc độ phát
triển ngành du lịch tại địa phương. Tuy nhiên, các tỉnh này hiện lại gặp khó khăn về
nguồn nhân lực. Theo dự báo, trong năm 2015 nhu cầu nhân lực để phát triển du lịch cần
128.000 người làm du lịch, đến năm 2020 cần 208.000 người. Song, thực tế trong năm
2012 - 2013 toàn vùng chỉ có 23.509 người làm nghề du lịch, chỉ chiếm khoảng 18% so
với nhu cầu năm 2015 và 11% đến 2020. Nhìn nhận từ thực tế nguồn nhân lực du lịch,
ông Lê Văn Hùng - Phó Vụ trưởng, Phó Giám đốc Cơ quan đại diện Bộ Văn hóa Thể thao
và Du lịch tại TP.Hồ Chí Minh khẳng định: "Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long đang cần
một lượng nhân lực lớn nhưng cung không đủ cầu. Cho nên muốn du lịch Đồng bằng

sông Cửu Long phát triển đòi hỏi có nguồn nhân lực lớn trong tương lai”.
Theo ông Lê Văn Hùng, nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long thiếu mà còn
yếu về chuyên môn nghiệp vụ. Được biết, toàn vùng hiện có hơn 85% lao động du lịch
chưa qua đào tạo. Và trong số những người đã được đào tạo, chưa tới 1% có chứng chỉ,
khoảng 1% có bằng nghề, hơn 2% có bằng trung cấp, gần 3% có bằng cao đẳng - đại học
và sau đại học. Hiện nay, lao động phục vụ ngành du lịch của Đồng bằng sông Cửu Long
chủ yếu là "tay ngang”, không có nghề, nếu có nghề cũng được đào tạo rất ít. Thậm chí,
rất nhiều địa chỉ du lịch đưa con em của họ vào làm nhân viên du lịch, chính vì lẽ đó mà
chất lượng phục vụ khách du lịch của vùng này không đảm bảo.
1.4.3. Lượng khách và doanh thu từ du lịch
Năm 2013, toàn vùng đón được 1.668.800 lượt khách du lịch quốc tế, chiếm 8,3%
tổng lượng khách quốc tế cả nước; 9,8 triệu lượt khách nội địa, chiếm 5,8% tổng lượt
khách nội địa cả nước; tổng thu nhập từ du lịch của vùng đạt 5.141 tỷ đồng, chiếm 2,7%
tổng thu nhập du lịch của cả nước. Thực trạng phát triển của du lịch Đồng bằng sông Cửu
Long không có gì thay đổi nhiều trong suốt thời gian từ năm 2006 đến nay.
Trong 5 tháng đầu năm 2014, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thu hút gần 11
triệu khách tham quan, du lịch, tăng gần 9% so với cùng kỳ năm 2013; riêng khách quốc
tế tăng 15,5% so với cùng kỳ, với hơn 800 nghìn lượt người. Tổng doanh thu từ du lịch
của khu vực đạt 2.566 tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tỉnh Kiên
Giang đạt doanh thu cao nhất với 647 tỷ đồng. Tỉnh An Giang thu hút khách đến tham
quan, du lịch nhiều nhất với hơn 4,1 triệu lượt khách, chủ yếu là khách tham quan lễ hội.
1.4.4. Thuận lợi và khó khăn du lịch mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu
Long
17


1.4.4.1. Thuận lợi
Đồng bằng sông Cửu long được thiên nhiên ưu đãi có tiềm năng lợi thế về du lịch,
do có tiềm năng du lịch rất lớn. Ðó là vùng đồng bằng rộng lớn với những làng quê, miệt
vườn trù phú cùng những dòng sông, kênh rạch chằng chịt, bên các cù lao và rừng tràm

ngập nước, mang vẻ đẹp hoang sơ. Những năm gần đây, du lịch vùng đang từng bước
được khai thác và phát triển.
Tiêu biểu nhất là du lịch tín ngưỡng, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch nông
nghiệp, đặc biệt là du lịch mùa nước nổi có nhiều lợi thế lớn để phát triển du lịch, tạo nên
nhiều khu - địa chỉ du lịch đặc thù. Các địa điểm được kết nối liên hoàn, hình thành điểm
du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước hiện nay. Điều này được thể hiện rõ qua
việc so sánh số lượt khách du lịch đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long và tổng thu nhập
du lịch của vùng. Theo đó. Các điểm sinh thái ngập nước: Trong tuyến khảo sát vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, các điểm sinh thái ngập nước mang đặc trưng của vùng khá
hấp dẫn du khách, gồm Vườn quốc gia Tràm Chim Đồng Tháp, rừng tràm Trà Sư (An
Giang), U Minh Thượng (Kiên Giang), U Minh Hạ (Cà Mau). Tuy nhiên, trong các điểm
du lịch sinh thái này, các đơn vị lữ hành đánh giá cao rừng tràm Trà Sư (An Giang) do
khả năng liên kết với điểm du lịch tâm linh Miếu Bà Chúa Xứ và cụm tham quan Châu
Đốc.
Đồng bằng sông Cửu Long kêu gọi đầu tư và củng cố, nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ du lịch an toàn, hấp dẫn, gắn phát triển du lịch với văn hóa mùa nước nổi,
tạo ra phong phú sản phẩm phục vụ du khách, xác định tiêu chuẩn, định hướng cho ngành
du lịch mở rộng và duy trì liên kết vùng Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, An Giang,
Đồng Tháp, Kiên Giang...
1.4.4.2. Khó khăn
Mùa nước nổi thường diễn ra từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch vì thế thời gian để
khai thác du lịch mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ kéo dài khoảng từ 3 đến
4 tháng. Chính vì thế khai thác du lịch mùa nước nổi sẽ phụ thuộc vào thời gian của mùa
lũ đến.
Trong nhiều năm gần đây, mặc dù du lịch Đồng bằng sông Cửu Long đã từng bước
củng cố hoạt động du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng, nhưng thực tế vẫn chưa cải thiện được
những yếu kém.
Nhận thức xã hội về du lịch còn hạn chế
18



Chưa có điều tra, khảo sát và lập quy hoạch phát triển du lịch vùng Đồng bằng
sông Cửu Long và từng tỉnh, thiếu thông tin về nhiều điểm đến du lịch ở bằng sông Cửu
Long.
Nguồn nhân lực du lịch còn thiếu và yếu, bộ máy quản lý nhà nước về du lịch
chưa ổn định và thiếu sự quan tâm từ nhiều cấp.
Chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, thiếu tính độc đáo, thường trùng lắp giữa
các địa phương trong vùng, gây cảm giác nhàm chán từ du khách.
Các công ty lữ hành ở khu vực bằng sông Cửu Long còn nhỏ về quy mô, yếu về
nghiệp vụ, thường làm dịch vụ cho các Công ty du lịch ở Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội và
các trung tâm du lịch lớn trong nước, chưa đủ mạnh và đủ tầm.
Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu kém, chưa được đầu tư đúng mức và đồng
bộ, rất hạn chế. Nhiều điểm du lịch rất hấp dẫn nhưng cơ sở hạ tầng và dịch vụ quá sơ sài
và nghèo nàn.
Công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch vùng bằng sông Cửu Long chưa
được chú trọng đúng mức, còn bị động.
Thiếu sự liên kết, hợp tác trong quản lý và hoạt động du lịch giữa các tỉnh thành
trong khu vực và cả vùng với các tỉnh thành trong cả nước;
Kinh phí đầu tư cho du lịch bằng sông Cửu Long chưa được lãnh đạo các địa
phương và Trung ương quan tâm thích đáng.

19


Chương 2 – KHAI THÁC TIỀM NĂNG DU LỊCH MÙA NƯỚC NỔI Ở TỈNH AN
GIANG
2.1. KHÁI QUÁT TỈNH AN GIANG
2.1.1. Vị trí địa lý
An Giang là một tỉnh ở miền Tây Nam của tổ quốc, thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long, giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu, một phần nằm trong tứ giác Long Xuyên.

Tỉnh An Giang có diện tích khoảng 2.194 km 2 (năm 2013), đứng thứ 4 trong khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long về diện tích sau tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mau và tỉnh
Long An. Tỉnh An Giang có biên giới Việt Nam – Campuchia ở phía Bắc Tây Bắc, phía
Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang, phía Nam giáp tỉnh Cần Thơ, phía Đông giáp tỉnh Đồng
Tháp. Tạo độ địa lý từ 10 010’ đến 11037’ vĩ độ Bắc và 104047’ đến 105035’ kinh độ
Đông.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên
An Giang là tỉnh được thiên nhiên ưu đãi với giá trị địa lí thuận lợi, nguồn tài
nguyên phong phú, cảnh quan tươi đẹp và một điều kiện tự nhiên rất lí tưởng để phát triển
du lịch. Địa hình ở tỉnh An Giang có 2 dạng chính là đồng bằng và đồi núi. Đồng bằng ở
đây do phù sa sông Mê Kông trầm tích tạo nên, bao gồm đồng bằng phù sa khá bằng
phẳng, có độ nghiêng nhỏ và độ cao tương đối thấp và đồng bằng ven núi có nhiều bậc
thang ở những độ cao khác nhau.
Về khí hậu, An Giang nằm sâu trong đất liền nên ít chị ảnh hưởng của gió bão.
Nhiệt độ ở An Giang cao và ổn định. Nhiệt độ cao nhất trong năm thường xuất hiện vào
tháng 4, dao động trong khoảng 36 – 38 độ; nhiệt độ thấp nhất trong năm thường xuất
hiện vào tháng 10, khoảng dưới 18 độ.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 11. Tổng lượng mưa mùa mưa
chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí cao. Trong những tháng mùa mưa,
độ ẩm trung bình vào khoảng 84%, cá biệt có những tháng đạt xấp xỉ 90%. Các tháng
mùa khô, độ ẩm cũng đạt từ 72% -82%. Tài nguyên thiên nhiên, An Giang là một tỉnh đầu
nguồn sông Cửu Long và là một trong những tỉnh có diện tích đất canh tác lớn nhất trong
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tổng diện tích đất nông nghiệp là 246.821 ha, trong đó
đất trồng lúa chiếm hơn 82%. Đất An Giang hình thành qua quá trình tranh chấp giữa
biển và sông ngòi, nên rất đa dạng.

20


Mỗi một vùng trầm tích trong môi trường khác nhau sẽ tạo nên một nhóm đất khác

nhau, với những thay đổi về chất đất, địa hình, hệ sinh thái và tập quán canh tác. Có thể
phân chia đất đai ở An Giang thành 3 nhóm chính: nhóm đất phèn, nhóm đất phù sa,
nhóm đất đồi núi. Tài nguyên khoáng sản: Tỉnh An Giang phong phú về khoáng
sản: vật liệu xây dựng (đá xây dựng, đá granit, đá phun trào, cát xây dựng, đất sét
gạch ngói), vật liệu trang trí (đá ốp lát, đá aplite), khoáng sản nhiên liệu (than bùn),
đá quý và ngọc, quặng kim loại (quặng molipden, mỏ mangan), nước khoáng thiên
nhiên.
2.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội
Dân số: 2,154 triệu người (01 tháng 7 năm 2012), An Giang là tỉnh có dân số đông
nhất và diện tích đứng thứ 4 ở miền Tây Nam Bộ, Việt Nam. Trong đó dân thành thị
chiếm 29% và nông thôn chiếm 61%, mật độ dân số 600 người/km 2. Tỉnh lị: thành phố
Long Xuyên. Mã điện thoại: 076. Biển số xe: 67.
Toàn tỉnh có 1.053.641 lao động đang làm việc trong các thành phần kinh tế.
Trong đó, lao động nông, lâm nghiệp chiếm 46,66%, lao động công nghiệp chiếm
14,07%; lao động thương mại – dịch vụ và các thành phần khác chiếm 39,27% (Theo
Thống kê Lao động Việc làm 2002 - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội).
An Giang hiện có 11 đơn vị hành chính (gồm: Thành phố Long Xuyên; Thị xã
Châu Đốc; các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Chợ
Mới, Châu Thành, Thoại Sơn) với 142 thị trấn, xã, phường (trong đó: 12 thị trấn, 118 xã
và 12 phường).
Nằm ở miền sông nước Cửu Long, An Giang có một số thắng cảnh tiêu biểu, khu
du lịch tâm linh: ở Núi Sam nơi có Miếu Bà Chúa Xứ thuộc thị xã Châu Đốc. Thất Sơn:
Lâm Viêm Núi Cấm, nơi có đường cho xe ô tô lên núi, có chùa Phật Lớn lâu đời, có
tượng Phật Di Lặc được sách kỷ lục Việt Nam công nhận lớn nhất cả nước và là tượng
Phật Di Lặc trên núi lớn nhất châu Á. Chợ Nổi Long Xuyên: là một chợ trên con sông với
hàng trăm ghe, thuyền tụ tập lại để buôn bán hàng hóa nông sản. Rừng tràm Trà Sư là
điểm du lịch sinh thái rộng trên 700 ha, nằm giữa lòng tứ giác Long Xuyên, thuộc xã Văn
Giáo, huyện Tịnh Biên. Hồ Thoại Sơn là một trong những hồ đẹp cách thành phố Long
Xuyên 29 km theo đường tỉnh lộ 943. An Giang là nơi có người Chăm sinh sống tập trung
nhiều nhất Nam bộ. Nơi đây, không gian “nghìn lẻ một đêm” huyền ảo với nền văn hóa

Chăm đặc sắc trong cộng đồng bốn dân tộc anh em (Kinh - Khmer - Hoa - Chăm), khiến
hương sắc châu thổ càng thêm quyến rũ thu hút khách du lịch.
21


Về cơ sở hạ tầng được đầu tư và phát triển mạnh mẽ:
Tỉnh An Giang có hệ thống đường giao thông bộ khá thuận tiện. Quốc lộ 91 dài
91,3 km, nối với quốc lộ 02 của Campuchia, Lào, Thái Lan thông qua hai cửa khẩu Tịnh
Biên và Vĩnh Xương. Tỉnh lộ có 14 tuyến, dài 404km được tráng nhựa 100%. Đường
thủy: Sông Tiền (chảy qua địa phận tỉnh 87km) và sông Hậu (qua địa phận tỉnh 100km),
là hai con sông quan trọng nối An Giang và Đồng bằng sông Cửu Long với các nước
Campuchia, Lào và Thái Lan. Ngoài ra, mạng lưới kênh cấp 2, cấp 3 đảm bảo các phương
tiện từ 50 - 100 tấn lưu thông trong tỉnh.
Ngoài ra, An Giang có cảng Mỹ Thới có khả năng tiếp nhận hàng hóa trên 0,5 triệu
tấn/năm. Đường hàng không cũng được phát triển: sân bay An Giang được Chính phủ đưa
vào Quy hoạch hệ thống cảng hàng không Việt Nam. Quy mô sân bay cho phép máy bay
ART72/F70 hạ cất cánh.
Thông tin liên lạc cũng khá phát triển. Các mạng điện thoại di động đã xây dựng
gần 800 trạm phủ sóng thông tin di động trên toàn tỉnh phụ vụ nhu cầu của khách hàng
24/24 về thông tin liên lạc.
An Giang đẩy mạnh phát triển kinh tế. Trong nhưng năm qua kinh tế của tỉnh An
Giang phát triển nhanh và ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức 2 con số. Thế mạnh
của An Giang là sản xuất lúa gạo, thủy sản, dịch vụ thương mại và du lịch.
2.2. TIỀM NĂNG DU LỊCH MÙA NƯỚC NỔI Ở TỈNH AN GIANG
2.2.1. Rừng tràm Trà Sư
2.2.1.1. Vị trí địa lý
Nằm trên địa bàn xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, rừng tràm Trà Sư
là khu rừng đặc trưng của loại rừng ngập nước tiêu biểu cho vùng Nam Bộ. Cách biên
giới Việt Nam - Campuchia khoảng 10km, rừng tràm Trà Sư nằm trong tuyến du lịch liên
hoàn: Núi Sam, núi Cấm, đồi Tức Dụp và Khu Thương mại Cửa khẩu Quốc tế đường bộ

Tịnh Biên với Quốc lộ 2 Campuchia đáp ứng nhu cầu du lịch và giao thương hàng hóa.
Với diện tích 845ha, nơi đây có hệ động thực vật vô cùng phong phú với rừng tràm xanh
ngắt cùng nhiều loài chim nước, động vật hoang dã.
2.2.1.2. Tài nguyên du lịch
Rừng tràm Trà Sư nằm trong khu vực Thất Sơn hùng vĩ, cách sông Mê Kông 15km
về phía đông bắc và cách Campuchia 10km về phía tây bắc. Nơi đây đang là điểm du lịch
22


hấp dẫn của nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan và nghiên cứu khoa
học…
Rừng tràm Trà Sư là khu rừng còn hoang sơ, thiên nhiên quyến rũ, là đặc trưng của
loại rừng ngập nước khi mùa nước nổi dâng cao. Từ rừng tràm Trà Sư nhìn về Thất Sơn
phong cảnh non xanh nước biếc hữu tình – vẻ đẹp quyến rũ và thơ mộng của thiên nhiên
ban tặng. Bên này rừng là ngọn Trà Sư, phía bên kia là Núi Két, núi Bà Đội Om, Núi
Cấm, xa xa thấp thoáng ngọn núi Cô Tô mây trắng chập chờn lúc ẩn lúc hiện, tạo cảm
giác êm đềm và trầm mặc của thiên nhiên.
Với diện tích 845ha, rừng tràm Trà Sư là nơi trú ngụ của 70 loài chim thuộc 13 bộ
và 31 họ, trong đó có 2 loài chim quý hiếm đã được ghi vào sách Đỏ Việt Nam là giang
sen (Mycteria leucocephala) và điêng điểng (Anhinga melanogaster). Đối với loài thú đã
thống kê được 11 loài thuộc 4 bộ và 6 họ. Các bộ có số loài nhiều nhất là dơi (15 loài) và
gặm nhấm (4 loài), trong đó có loài dơi chó tai ngắn quý hiếm cũng đã được ghi vào sách
Đỏ Việt Nam. Riêng bò sát, ếch, nhái cũng có tới 25 loài, 2 bộ, 10 họ, trong đó có cả rắn
hổ mang, cạp nong. Ngoài ra, rừng còn có 10 loài cá xuất hiện quanh năm và 13 loài chỉ
xuất hiện vào mùa lũ, trong đó có 2 loài cá có giá trị khoa học và đang đứng trước nguy
cơ bị tuyệt chủng là cá còm và cá trê trắng. Không chỉ phong phú về động vật, Trà Sư còn
là nơi tụ họp của 140 loài thực vật thuộc 52 họ và 102 chi, trong đó có 22 loài cây gỗ, 25
loài cây bụi, 10 loài dây leo, 70 loài cỏ, 13 loài thủy sinh, 11 loài sinh cảnh, 78 loài thuốc
và 22 loài cây cảnh.
Nơi đây còn nhiều sông, rạch, lung, bàu, trũng…dấu ấn của thời khai hoang vùng

đất phương Nam. Theo kết quả khảo sát của BirdLiffe International và Viện Sinh thái
-Tài nguyên – Sinh vật, Trà Sư được đánh giá là nơi có tầm quan trọng quốc tế trong công
tác bảo tồn đất ngập nước tại Đồng bằng sông Cửu Long. Hai tổ chức này đề xuất chính
quyền địa phương xây dựng khu bảo vệ tại khu vực (1999). Ngày 27.5.2003, Chủ tịch
UBND tỉnh An Giang ra quyết định phê duyệt thành lập Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm
Trà Sư, sinh cảnh rừng với trên 600ha rừng thành thục và trung niên, cùng với các trảng
cỏ, lung đìa, là nơi cư trú và sinh sản lý tưởng cho các loài chim, cò và thủy sản, tạo cảnh
quan độc đáo cho vùng tây Sông Hậu…
Khi mùa nước nổi tràn đồng, bèo cám trải thảm nhung xanh dưới những tán rừng,
tôm càng xanh và các loại cá đồng từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về nhiều vô kể.
Nhiều loài cá đã vắng bóng từ lâu, nay xuất hiện trở lại, trong đó có loại cá nàng
hai (cá thác lác cườm), cá lóc, cá rô, cá sặc bổi và đặc biệt là cá dày đã mai một trên 20
23


năm nay cũng xuất hiện tại đây. Nhiều loài chim quý, có loài được ghi vào sách Đỏ Việt
Nam như: Cò lạo, nhạn điên điển cổ rắn, ròng rộc, vạc…cùng với hàng chục ngàn con dơi
quạ bay lượn rợp trời hoặc đeo lủng lẳng trên những nhánh tràm tơ. Anh Lương Văn
Luyến, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm An Giang, nói: Đất lành chim đậu, năm nay có
nhiều dơi mẹ mang theo những chú dơi con về đây định cư, làm cho khu rừng trở nên náo
động; lúc hoàng hôn buông xuống, đẹp nhất là những đàn nhạn sen (giống diệc mốc) bay
về rừng hàng nghìn con…
Sự giàu có và đa dạng sinh học của rừng tràm Trà Sư không thua kém Lung Ngọc
Hoàng ở Hậu Giang hoặc rừng U Minh Thượng ở Kiên Giang. Anh Nguyễn Văn Hoàng,
Phó trạm Kiểm lâm rừng tràm Trà Sư kể rằng: Nơi đây, xưa kia rất nhiều thú rừng, tôm cá
đầy đồng vào mùa nước nổi, nhưng đến mùa khô kiệt, các lung bàu phèn dậy lên, tôm cá
không sống nổi. Nhờ những năm gần đây chính quyền địa phương cho xây dựng đê bao
khép kín và công tác bảo vệ rừng nghiêm ngặt, nên rừng mới trải rộng thảm xanh như
nhung, thu hút chim muông thú rừng, tôm cá quần tụ về, làm cho sinh cảnh thực vật ngày
càng đa dạng và phong phú, tạo nên sức hấp dẫn, thu hút nhiều du khách trong và ngoài

nước về tham quan thưởng ngoạn, khám phá và nghiên cứu khoa học hệ sinh thái…
Không những thế, đây còn là nơi lý tưởng cho các loại hình thám hiểm, vui chơi giải trí,
dã ngoại…
Ngoài những giá trị phong phú về mặt tài nguyên thiên nhiên, rừng tràm Trà Sư
còn chứa đựng những yếu tố văn hóa độc đáo của cộng đồng dân cư sống ven rừng.
Quanh rừng Trà Sư có khá nhiều đồng bào Khơ-me và Kinh sinh sống với nhiều ngành
nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như dệt thổ cẩm, nấu đường thốt nốt, chưng cất tinh
dầu tràm, nuôi ong lấy mật…
2.1.2.3. Dịch vụ du lịch
Rừng tràm Trà Sư nằm trên tuyến liên hoàn các khu du lịch như: Núi Sam, Núi
Cấm… rất tiện lợi cho du khách tham quan. Du khách đến rừng tràm Trà Sư sẽ thích thú
với loại hình sinh hoạt giải trí như câu cá, ăn các món đặc sản dân dã thời khai hoang mở
đất và những đặc sản miền sơn cước như: chả bò, gà hầm măng điền trúc, cá nàng hai
chiên giòn, cá lóc nướng trui, gỏi sầu đâu trộn cá sặc bổi… và nghe tiếng chim gọi bầy
vang giữa núi rừng.
Đặc biệt khi đến với rừng tràm Trà Sư du khách sẽ được tham gia vào chương trình
“Một ngày làm nông dân” du khách sẽ hóa thân vào những người nông dân thực thụ đi
bắt cá, hái bông điên điển, chèo thuyền, nấu ăn, tham gia vào các trò chơi dân gian….
24


Dịch vụ du lịch mang đặc trưng riêng của mùa nước nổi đó chính là du khách sẽ
được tham quan khu rừng tràm bằng những chiếc xuồng ba lá, đây là phương tiện di
chuyển chủ yếu của người dân miền sông nước, du khách ngồi trên những chiếc thuyền
nhè nhẹ lướt qua những đám bèo xanh mượt và đắm mình dưới những tán xanh mát của
rứng tràm tạo cho du khách một cảm giác lâng lâng khó tả. Di chuyển bằng thuyền du
khách có thể quan sát các loại động vật trong rừng. Ở khu rừng tràm có tháp canh gác du
khách có thể lên đó để ngắm toàn bộ vẻ đẹp hoang sơ của rừng tràm.
2.2.2. Búng Bình Thiên
2.2.2.1. Vị trí địa lý

Búng Bình Thiên là tên một hồ nước ngọt mênh mông, trong xanh nằm cặp với
sông Bình Di - một nhánh của sông Hậu, nằm giữa 3 xã Khánh Bình, Khánh An và Nhơn
Hội của huyện An Phú, tỉnh An Giang.
Theo tương truyền, vào cuối thế kỷ 18, một viên tướng nhà Tây Sơn đã chọn Búng
Bình Thiên làm căn cứ để tích trữ lương thực, luyện tập binh sĩ. Thời điểm đó, khu vực
này khô cằn, viên tướng đó đã làm lễ tế cáo Trời - Đất xin ban nguồn nước cho binh sĩ.
Sau khi khấn xong, Ông đã rút kiếm đâm xuống lòng đất và một dòng nước ngọt trong vắt
trào dâng đọng lại thành hồ như ngày nay. Đây cũng là sự lý giải cho cái tên Búng Bình
Thiên: Búng nghĩa là hồ, đầm; Bình nghĩa là dòng nước sau khi dâng trào khá bình yên,
phẳng lặng; Thiên nghĩa là Trời. Búng Bình Thiên còn có tên gọi khác là Hồ Nước Trời.
2.2.2.2. Tài nguyên du lịch
Tại búng Bình Thiên, huyện An Phú ( An Giang) qua kết quả khảo sát của Nhóm
nghiên cứu thuộc Viện Sinh học nhiệt đới đã thu thập và xác định được 111 loài cá thuộc
27 họ, 10 bộ với khoảng 33 loài cá có giá trị kinh tế. Đặc biệt, tại đây có 6 loài cá trong
Sách đỏ Việt Nam, gồm: cá còm, cá hô, cá duồng, cá tra dầu, cá Chiên Nam và cá mang
rổ.
Búng Bình Thiên là thủy vực hồ lớn có diện tích 300 ha vào mùa khô và mở rộng
diện tích ngập nước lên 800 ha vào mùa lũ, có tổng chiều dài bao quanh búng là 4 km,
qua địa bàn 3 xã biên giới (giáp Vương quốc Campuchia) là Khánh Bình, Nhơn Hội và
Quốc Thái, nơi rộng nhất 2 km và độ sâu lớn nhất lên đến 10 mét. Đây là vùng đất ngập
nước được thiên nhiên ưu đãi cho sinh sản và phát triển thủy sản, tạo nên hệ sinh thái thủy
sinh phong phú.

25


×