Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Phòng chống bệnh truyền nhiễm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.28 KB, 33 trang )

Chương 4
PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. Các phương pháp phòng bệnh truyền nhiễm
1. Nguyên tắc chung của công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm
Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến
thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh
dịch vào công tác thực tiễn.
Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn
bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữa ba khâu
đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâu đó thì dịch
không xảy ra được.
Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và chủ yếu, là xuất phát điểm của quá trình sinh
dịch. Nhân tố trung gian truyền bệnh nối liền nguồn bệnh với cơ thể cảm thụ làm cho quá
trình sinh dịch thực hiện thuận lợi. Động vật cảm thụ là yếu tố làm cho dịch biểu hiện ra,
đồng thời nó lại biến thành nguồn bệnh làm cho quá trình sinh dịch được nhân lên, được
thúc đẩy mạnh hơn.
Trên cơ sở phân tích vai trò và sự liên hệ giữa các khâu trên, công tác phòng
chống bệnh truyền nhiễm phải nhằm thực hiện cho được việc xóa bỏ một hoặc nhiều
khâu, hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa các khâu với nhau trong quá trình sinh dịch. Chỉ cần
cắt đứt một khâu hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa những hai khâu, cũng đủ làm cho quá trình
sinh dịch không thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản của mọi biện pháp phòng chống
bệnh. Đương nhiên, chỉ giải quyết được một cách căn bản việc đó khi nhận thức của con
người được nâng cao.
Khi chưa có dịch các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm đều nhằm đề phòng
dịch xuất hiện. Chủ chăn nuôi, chủ động vật chuyên chở phải chấp hành các yêu cầu thực
hiện các biện pháp phòng dịch được quy định trong Pháp lệnh thú y, các Nghị định thi
hành Pháp lệnh và Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho động vật, trong đó việc xây dựng
vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan quản
lý nhà nước liên quan ngành chăn nuôi. Các cá nhân và tổ chức chăn nuôi động vật phải
đăng ký xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật và phải chấp hành các quy định
của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Các tổ chức, cá


nhân có hoạt động liên quan vùng an toàn dịch bệnh động vật phải chấp hành các quy
định của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Chính phủ có
chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của
động vật, nhằm bảo đảm hiệu quả khống chế và thanh toán các dịch bệnh nguy hiểm của
động vật và những bệnh từ động vật lây sang người, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu động vật
và sản phẩm động vật, bảo đảm giảm dần số ổ dịch, số động vật mắc bệnh, tiến tới thanh
toán dịch bệnh. Trong việc xây dựng chương trình này Chính phủ có chỉ đạo các các bộ,
ngành có liên quan phối hợp Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản trong việc xây
dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật. Bộ Nông
nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản xây dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh
toán dịch bệnh động vật trình Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện chương trình.
Các cơ quan quản lý nhà nước về thú y ở trung ương (Cục Thú y đối với dịch bệnh động
vật trên cạn và Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đối với dịch
bệnh động vật dưới nước và lưỡng cư), UBND các cấp, Chi cục Thú y và Chi cục Quản
lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, các tổ chức và cá nhân chăn nuôi động
vật tùy theo quyền hạn và trách nhiệm của mình có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện,
thanh tra, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện, tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến
hướng dẫn và thực hiện các biện pháp khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật.
Khi dịch đã xuất hiện, muốn phòng bệnh lây lan rộng thì cần thực hiện các biện
pháp chống dịch nhằm dập tắt dịch, bao gồm, một mặt, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị
bệnh cho các động vật bệnh hoặc giết hủy hay giết mổ bắt buộc động vật bệnh) và, mặt
khác, phòng bệnh cho các động vật chưa mắc bệnh. Các biện pháp phòng dịch và biện
pháp chống dịch liên quan mật thiết với nhau. Các biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh một
mặt là để thanh toán dịch nhưng đồng thời cũng bảo đảm cho động vật khỏe không bị lây
bệnh nên phòng ngừa dịch lan rộng. Các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm ở nước ta
đã được quy định trong Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho gia súc và gia cầm trước đây
và Pháp lệnh thú y hiện nay, cũng như các văn bản liên quan do Nhà nước ban hành.
Để thực hiện các biện pháp phòng dịch cần thực hiện những biện pháp tổng hợp
tác động đến nhiều khâu của quá trình phát sinh dịch: đối với nguồn bệnh (vật mang
trùng khi chưa có dịch, cũng như vật mang trùng và vật bệnh khi có dịch), đối với đường

truyền lây và đối với động vật mẫn cảm.
2. Đối sách đối với nguồn bệnh
2.1. Với vật mang trùng
Đối với nguồn bệnh phải tiêu diệt hoặc hạn chế nguồn bệnh gieo rắc mầm bệnh ra
ngoài. Khi chưa có dịch phát ra, nguồn bệnh chỉ có thể là những vật mang trùng. Khi đó,
đối với vật mang trùng cần phải thực hiện các biện pháp dưới đây.
Phát hiện sớm, chủ động và tích cực. Phải có kế hoạch định kỳ phát hiện vật
mang trùng. Phát hiện động vật mang trùng rất khó. Có thể dùng phương pháp vi sinh vật
học để xét nghiệm các chất bài tiết, bài xuất,... nhưng kết quả thường không chắc chắn vì
con vật mang trùng chỉ bài xuất mầm bệnh một cách định kỳ. Có thể dùng phương pháp
huyết thanh học phát hiện kháng thể và kháng nguyên đặc hiệu trong một khoảng thời
gian nhất định. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các phản ứng huyết thanh học phát hiện kháng
thể tuy dễ thực hiện nhưng kết quả thường khó giải thích. Phát hiện kháng nguyên đặc
hiệu thường dễ giải thích hơn nhưng việc thực hiện thường khó hơn do phản ứng thường
có độ nhạy thấp hơn và sự bài xuất mầm bệnh (kháng nguyên) từ vật sống mang trùng
không phải khi nào cũng xảy ra. Mầm bệnh có thể phát hiện một cách tương đối chắc
chắn hơn nhờ phương pháp chẩn đoán dị ứng đối với những bệnh có phản ứng dị ứng như
lao, tỵ thư, sẩy thai truyền nhiễm,... Phương pháp cho kết quả nhanh và nhạy hơn cả là
các phương pháp phân tích axit nucleic đặc hiệu mầm bệnh (PCR, RT-PCR, PCR-
RFLP,...) nhưng cũng còn nhiều trở ngại do sự bài xuất mầm bệnh từ vật mang trùng
không ổn định, xét nghiệm lại đòi hỏi tuyệt đối không được bị ô nhiễm từ những xét
nghiệm cũ trước đó và, vì vậy, thường đắt tiền. Vì vậy, phát hiện kháng nguyên bằng các
phản ứng huyết thanh học trực tiếp từ bệnh phẩm hoặc từ lứa cấy vi sinh vật mầm bệnh
đã được phân lập còn tiếp tục có thể là biện pháp được lựa chọn trong điều kiện hiện nay.
Cách ly triệt để những con vật đã phát hiện có mang trùng. Ở nhiều nước, những
con vật có phản ứng dương với bệnh lao, sẩy thai truyền nhiễm, tỵ thư được tập trung
thành đàn và nuôi riêng trong những trang trại cách ly. Nếu số lượng động vật mang
trùng ít thì có thể giết thịt. Việc cách ly con vật mang trùng với con khỏe ở nước ta còn
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các cơ sở chăn nuôi tập trung bắt buộc phải có khu
chuồng nuôi cách ly. Nông hộ có thể vận dụng biện pháp cách ly gián tiếp như khi mua

thịt chợ đưa về nhà trong mọi trường hợp loại bỏ một cách triệt để lá hoặc giấy bao gói
hoặc thực phẩm nguồn gốc động vật khác mua từ chợ,... khỏi sự tiếp xúc với gia súc, gia
cầm của mình. Cần nghi ngờ rằng thịt có thể được lấy từ động vật không sạch bệnh.
Điều trị dự phòng những con vật mang trùng, nhất là những động vật quý đắt tiền.
Một số con vật mang trùng có khi có thể tự nhiên lành bệnh (bệnh sẩy thai truyền nhiễm),
một số có thể phát hiện triệu chứng và phải xử lý. Với những bệnh thường có hiện tượng
mang trùng, nếu không có phương pháp tốt để phát hiện mầm bệnh khi động vật còn sống
thì cần có biện pháp giải quyết ngay những con mắc bệnh khi xảy ra dịch (giết mổ bắt
buộc). Đối với những con mang trùng là dã thú hoặc côn trùng, ve bét,... thì phải dùng
mọi biện pháp tiêu diệt và có biện pháp ngăn ngừa chúng tiếp xúc với gia súc, gia cầm.
Với động vật mang trùng một số bệnh truyền nhiễm có tính lây thấp, ẩn tính và có
thể tái phát bất thường do genom virut tái tổ hợp vào nhiễm sắc thể ký chủ (như bệnh
bạch huyết bò,...) và những biện pháp điều trị không đưa lại kết quả mà chỉ làm duy trì
mầm bệnh (hay nguồn bệnh) trong tập đoàn thì cần thực hiện biện pháp giết mổ dần (giết
hủy chậm) và không sử dụng động vật vào mục đích lấy giống.
2.2. Các biện pháp đối với ổ dịch
Các biện pháp chống dịch truyền nhiễm được thực hiện ở ổ dịch thường nhằm
mục đích tiêu diệt nguồn bệnh, đồng thời phòng ngừa mầm bệnh lây lan sang những động
vật khỏe, không cho ổ dịch lan rộng hoặc khởi nguồn ổ dịch khác.
Các biện pháp chống dịch bao gồm phát hiện bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị
hoặc giết hủy động vật bệnh, hoặc áp dụng song song cả hai biện pháp), làm suy yếu hoặc
tiêu diệt các nhân tố trung gian truyền bệnh và làm tăng sức đề kháng của cơ thể động
vật. Các biện pháp đó cần được thực hiện khẩn trương, cùng một lúc thì mới đạt mục đích
dập tắt dịch.
a. Đối với động vật bệnh
Phải phát hiện sớm, khai báo nhanh, cách ly kịp thời và điều trị triệt để hoặc giết
hủy hay giết mổ bắt buộc theo hướng dẫn của chuyên môn thú y.
Phát hiện bệnh sớm: Phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán để phát hiện bệnh đúng
và sớm. Nếu chẩn đoán còn nghi ngờ, chưa có điều kiện xác định bệnh chắc chắn thì
cũng phải có kết luận sơ bộ chẩn đoán và có biện pháp đề phòng bệnh lây lan. Nguyên

tắc cần tuân thủ đối với dịch bệnh truyền nhiễm là một khi có con vật sốt chưa rõ nguyên
nhân phải nghi là nguồn bệnh truyền nhiễm và phải cách ly. Thà chẩn đoán nhầm một
bệnh không truyền nhiễm là bệnh truyền nhiễm còn hơn là nhầm một bệnh truyền nhiễm
là bệnh không truyền nhiễm. Tuy nhiên, phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán đúng bệnh
thì mới đề ra biện pháp chống dịch có hiệu quả, đặc biệt là tránh gây hoang mang không
đáng có và trở ngại sinh hoạt bình thường đối với xã hội liên quan vấn đề xử lý dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm. Phải sử dụng nhiều phương pháp chẩn đoán: lâm sàng, dịch tễ
học và chẩn đoán xét nghiệm.
- Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào triệu chứng lâm sàng điển hình của các bệnh động
vật đã được mô tả trước đây để đối chiếu và quy thuộc mà xác định nguyên nhân của
trường hợp bệnh lý đang tiếp cận. Phương pháp chẩn đoán này dễ nhầm lẫn vì nhiều bệnh
khác nhau có thể có triệu chứng lâm sàng giống nhau hoặc khi ở đầu vụ dịch triệu chứng
bệnh thường không điển hình.
- Chẩn đoán dịch tễ học: Tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện xuất hiện dịch. Cần
phải điều tra kỹ để tìm nguồn bệnh, nguồn lây lan, hoàn cảnh động vật mắc bệnh, lịch sử
cảm nhiễm (trước đó con bệnh đã tiếp xúc với những loại súc vật nào, chăn dắt ở đâu, đã
đi qua những địa phương nào có dịch), điều kiện vệ sinh động vật ra sao, đã tiêm phòng
chưa, tiêm vacxin gì. Ngoài ra, phải tìm hiểu những con vật có tiếp xúc với con bệnh.
Điều tra dịch tễ học kết hợp với những triệu chứng lâm sàng có thể giúp chẩn
đoán bệnh nhưng có khi chưa chắc chắn nên còn phải dùng phương pháp chẩn đoán xét
nghiệm.
- Chẩn đoán xét nghiệm: Nên tiến hành bằng việc phối hợp nhiều phương pháp
khác nhau (vi sinh vật học, huyết thanh học, di truyền học phân tử, sinh vật học,...).
Bệnh phẩm lấy từ động vật bệnh, nghi bệnh hoặc động vật chết phải phù hợp với
yêu cầu xác định bệnh. Cách lấy bệnh phẩm, cách bao gói và gửi bệnh phẩm phải theo
đúng yêu cầu kỹ thuật để bảo đảm không gieo rắc mầm bệnh ra ngoài, bảo đảm an toàn
cho người lấy và bảo đảm chẩn đoán chính xác. Bệnh phẩm phải được gửi đến cơ quan
xét nghiệm càng nhanh càng tốt.
Để xác định một số bệnh truyền nhiễm, cần tiến hành kết hợp các phương pháp
chẩn đoán nói trên.

Cách ly kịp thời: Sau khi phát hiện có con vật bị bệnh hoặc con nghi mắc bệnh
phải cách ly ngay. Những con nghi mang mầm bệnh phải nhốt riêng để tránh lây lan.
Động vật được cách ly ở nơi chữa bệnh hoặc nhà cách ly riêng.
Các cơ sở chăn nuôi động vật tập trung phải có hàng rào bao quanh bảo đảm ngăn
chặn được người và động vật xâm nhập, bảo đảm các điều kiện vệ sinh thú y và phải có
nhà cách ly. Nhà cách ly phải có cống rãnh tiêu độc và xa chuồng nuôi động vật và nhà ở
ít nhất 50 mét. Phải cử người chăm sóc riêng động vật cách ly. Họ phải có quần áo riêng
và những phương tiện bảo hộ cần thiết, có tinh thần trách nhiệm và ý thức vệ sinh phòng
bệnh cao. Khi cho động vật cách ly ăn uống hoặc quét dọn, tiêu độc chuồng,... phải giữ
gìn cẩn thận tránh để bệnh lây từ động vật sang người. Phải cấm người ra vào chuồng
cách ly trừ những người chăm sóc và chữa bệnh. Trước cửa ra vào khu vực phải có hố
vôi tiêu độc, trước cửa ra vào chuồng cần có xô (chậu) chứa dung dịch tiêu độc để người
vào hoặc ra khỏi khu cách ly mỗi khi cần phải nhúng ủng bảo hộ, có không gian đệm để
thay quần áo bảo hộ riêng cho từng khu vực: khu cách ly và khu bình thường. Ở không
gian đệm này cần bố trí dung dịch khử trùng (cồn ethylic 70°,...) và đèn tử ngoại (nếu có
điều kiện) để khử trùng tay, quần áo và bao gói dụng cụ điều trị và lấy mẫu bệnh phẩm,
bao bì thức ăn động vật,... mỗi khi cần đưa vào hoặc ra khỏi khu vực cách ly. Những
người có trách nhiệm chăm sóc, lấy mẫu bệnh phẩm và điều trị bệnh cho động vật ở nhà
cách ly hay khu cách ly cần tránh đi lại nhiều không cần thiết giữa khu cách ly với khu
bình thường. Nếu có nhu cầu đi lại giữa hai khu vực phải áp dụng biện pháp tiêu độc
(nhúng ủng vào dung dịch tiêu độc, thay quần áo bảo hộ khi ở không gian đệm, phun dịch
sát trùng hoặc chiếu tia cực tím lên dụng cụ mang theo để lấy mẫu bệnh phẩm, tiêm
thuốc,...) tránh đưa những vật có thể mang mầm bệnh từ khu vực cách ly ra khu vực an
toàn.
Điều trị triệt để: Phải điều trị triệt để những con bệnh tiên lượng tốt ở trong ổ dịch
cho đến khi lành bệnh và không để chúng trở thành vật mang trùng. Nếu thấy khả năng
điều trị không khỏi (tiên lượng xấu) thì phải xử lý ngay. Cách xử lý tùy theo loại bệnh: có
thể giết chết đem chôn hoặc đốt (giết hủy), hoặc giết thịt luộc rán làm thực phẩm hoặc
chế biến thành công nghệ phẩm và thức ăn gia súc (giết thịt tận dụng). Khi xử lý cần phải
chú ý tránh lây lan bệnh.

b. Đối với động vật nghi lây bệnh
Phải điều tra để phát hiện những con tiếp xúc với con bệnh do nuôi chung, chăn
dắt chung hoặc tiếp xúc với sinh vật môi giới và ngoại cảnh chứa mầm bệnh. Trên
nguyên tắc, mọi súc vật có thể nhiễm bệnh (súc vật mẫn cảm) ở trong một ổ dịch đều
phải được coi là con nghi đã bị lây, vì chúng nếu không tiếp xúc với con bệnh thì cũng
tiếp xúc với ngoại cảnh chứa mầm bệnh. Những loại súc vật trên phải được cách ly với
thời gian nung bệnh dài nhất có thể vận dụng. Phải khám nghiệm lâm sàng, xét nghiệm,
tiêm phòng khẩn cấp hoặc điều trị dự phòng và tiến hành tiêu độc thích hợp.
c. Xử lý tình huống dịch bệnh động vật
Khai báo dịch khẩn cấp: Mọi người, trước hết là chủ vật nuôi, tổ chức và cá nhân
chăn nuôi động vật, người áp tải động vật trên đường vận chuyển, đều có nhiệm vụ và có
quyền khai báo dịch bằng mọi phương tiện nhanh chóng nhất với nhân viên thú y, cơ
quan thú y hoặc cơ quan chính quyền gần nhất. Nhân viên thú y và cơ quan thú y khi
được thông báo về tình hình động vật phát bệnh, chết bệnh hoặc có dấu hiệu bệnh thì phải
nhanh chóng chẩn đoán xác định bệnh, nếu xác định bệnh truyền nhiễm thuộc danh mục
bệnh phải công bố dịch thì phải hướng dẫn chủ vật nuôi, chủ sản phẩm động vật thực
hiện các biện pháp xử lý dịch bệnh như không bán, không giết mổ và không vứt động vật,
xác và sản phẩm động vật ra môi trường mà phải cách ly động vật mắc bệnh, bố trí người
chăm sóc động vật, hạn chế lưu thông động vật và sản phẩm động vật, chôn hoặc đốt xác
động vật và chất thải của động vật bệnh, vệ sinh khử trùng cơ sở (chăn nuôi, giết mổ,
phương tiện vận chuyển,...). Nhân viên thú y, cơ quan thú y tùy theo tính chất và mức độ
bệnh dịch mà báo cáo Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp để thực hiện biện pháp phòng
chống dịch bệnh đối với khu vực đó, đồng thời báo cáo cơ quan thú y cấp trên trực tiếp.
Khi được tin ở địa phương có dịch hoặc nghi có dịch thuộc danh mục bệnh phải công bố
dịch, UBND cấp xã phải báo cáo ngay cho UBND cấp huyện biết. UBND cấp huyện phải
cử ngay cán bộ thú y về tận nơi kiểm tra xác minh. Kết quả kiểm tra phải báo cáo lại cho
UBND huyện và Chi cục thú y (hoặc Chi cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú
y thủy sản, nếu bệnh dịch xảy ra ở động vật dưới nước và lưỡng cư) biết để kiểm tra xác
nhận dịch, nếu có dịch thì các cơ quan này quyết định các biện pháp cần thiết để bao vây
và dập tắt dịch, đồng thời phải báo cáo cho sở Nông nghiệp và PTNT và UBND tỉnh hay

thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) biết.
Khi gặp trường hợp có dịch hoặc nghi là dịch nguy hiểm tuy chưa biết chính xác
là bệnh gì, chính quyền địa phương vẫn phải áp dụng ngay những biện pháp đầu tiên như
tạm thời cách ly con vật bệnh, cấm vận chuyển, cấm bán chạy, cấm mổ thịt, tiêu độc để
hạn chế lây lan.
Khi dịch bệnh của động vật trên cạn xảy ra mà Chi cục thú y chẩn đoán là bệnh
thuộc danh mục phải công bố dịch, hoặc nghi ngờ bệnh thuộc danh mục phải công bố
dịch thì Chi cục thú y báo cáo để UBND cấp tỉnh thông báo khu vực hạn chế lưu thông
động vật và sản phẩm động vật, đồng thời báo ngay Cục thú y. Trong trường hợp Chi cục
thú y còn nghi ngờ nguyên nhân gây bệnh thì gửi bệnh phẩm để Cục thú y tiến hành xác
định bệnh. Nghiêm cấm việc đưa vào hoặc mang ra khỏi khu vực hạn chế lưu thông loài
động vật dễ nhiễm và sản phẩm động vật mang mầm bệnh.
Công bố dịch: Khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật xảy ra ở vùng biên giới
giáp Việt nam thì Cục thú y phải báo cáo để UBND cấp tỉnh vùng biên giới đó quyết định
công bố vùng bị dịch uy hiếp và tại đó phải thực hiện các biện pháp như: quy định cửa
khẩu, số và loài động vật được phép thông quan, cấm đưa vào lãnh thổ Việt Nam những
động vật bệnh và dễ nhiễm bệnh (động vật mẫn cảm) và sản phẩm động vật mang mầm
bệnh đó, chỉ đạo thực hiện vệ sinh tiêu độc, khử trùng cho người và các loại phương tiện
vận chuyển qua cửa khẩu, xác định vùng bị dịch uy hiếp hay vùng đệm (để thành lập
vành đai bảo vệ) trong phạm vi 5 km tính từ biên giới và thực hiện các biện pháp như
vùng bị dịch uy hiếp.
Khi có báo cáo bằng văn bản của UBND cấp huyện về tình hình diễn biến dịch
bệnh và văn bản kết luận của Chi cục hoặc Cục thú y (hoặc tương đương đối với động vật
dưới nước và lưỡng cư) đã xác định dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm phải công bố
dịch, UBND cấp tỉnh ra lệnh công bố dịch. Lệnh công bố dịch phải ghi rõ tên bệnh và
những vùng (địa phương) có dịch.
Tùy theo tính chất bệnh, tình hình địa lý, tình hình diễn biến ổ dịch mà quyết định
vùng có dịch và vùng nguy cơ dịch (vùng dịch uy hiếp), không công bố tràn lan, chỉ
khoanh vùng cần thiết để bao vây dập tắt dịch. Có thể công bố dịch ở một trại chăn nuôi,
một thôn, một xã hoặc nhiều xã, một huyện hoặc nhiều huyện trong tỉnh.

Khi ra quyết định công bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh phải báo cáo với Bộ
trưởng Nông nghiệp và PTNT, đồng thời báo cáo lên Chính phủ. Khi có quyết định công
bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi có dịch có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các ngành
các cấp phối hợp với các tổ chức xã hội trong địa phương và huy động nhân lực, vật lực
theo pháp luật để thực hiện các biện pháp chống dịch. Việc xác định giới hạn vùng có
dịch và lập vành đai bảo vệ quanh vùng có dịch cũng do UBND cấp tỉnh quyết định và
thông báo cho cấp dưới và các cơ quan hữu quan.
Tùy tính chất và quy mô của dịch mà thành lập Ban chỉ đạo chống dịch cấp xã,
huyện và tỉnh, đồng thời thành lập Ban chống dịch các cấp với thành phần gồm lãnh đạo
chính quyền (phó chủ tịch tỉnh, huyện phụ trách nông nghiệp), lãnh đạo ngành nông
nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc Sở, trưởng hoặc phó phòng phụ trách nông nghiệp
huyện), đại diện ngành thú y (chi cục trưởng, trạm trưởng, nhân viên thú y xã), đại diện
công an (ủy viên), đại diện quản lý thị trường (ủy viên), có thể có thêm chủ cơ sở chăn
nuôi tập trung, chủ nhiệm hợp tác xã, đại diện ngành y tế và đại diện thông tin tuyên
truyền (các ủy viên). Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công, Chi cục thú y
chỉ đạo lực lượng thú y địa phương tham gia chống dịch, chịu trách nhiệm về chuyên
môn kỹ thuật thú y trong công tác chống dịch, đồng thời phải báo cáo diễn biến dịch và
kết quả chống dịch 10 ngày một lần cho UBND cấp tỉnh và Cục thú y cho đến khi hết
dịch.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thủy sản công bố dịch, chỉ đạo và tổ
chức chống dịch trong trường hợp dịch bệnh động vật thuộc danh mục phải công bố dịch
xảy ra ở hai tỉnh trở lên. Thủ tướng Chính phủ công bố dịch, chỉ đạo và tổ chức chống
dịch khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật có khả năng lây sang người theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT hoặc Bộ Thủy sản.
Pháp lệnh Thú y quy định phòng chống dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cấp,
mọi ngành và toàn dân. Ở vùng có dịch trong quyết định công bố dịch phải đặt trạm gác
có lực lượng công an và thú y hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc vận chuyển động vật;
cơ quan nhà nước về quản lý thú y phải đặt biển báo nơi có dịch; trong khu vực có dịch
phải hạn chế việc lưu thông động vật và sản phẩm động vật, vệ sinh tiêu độc khử trùng
chuồng nuôi, vật dùng cho chăn nuôi, chất thải động vật bệnh và môi trường bị ô nhiễm.

Đồng thời cơ quan thú y tiến hành kiểm tra phân loại động vật dễ nhiễm với bệnh đã công
bố để thực hiện việc cách ly động vật và áp dụng các biện pháp vệ sinh thú y khác. Trong
vùng dịch tất cả các động vật mắc bệnh, cảm nhiễm mầm bệnh và nghi nhiễm phải nuôi
riêng trong suốt thời gian chữa bệnh, không được thả trên bãi chăn chung, đồng thời bố
trí người chăm sóc và dụng cụ nuôi riêng cho động vật bệnh, chôn hoặc đốt xác, xử lý súc
vật chết, tiêu độc chuồng trại, tiêu hủy thức ăn thừa của động vật bệnh hoặc chết, không
đưa (và cấm đưa) gia súc, gia cầm dễ nhiễm bệnh ra và vào hoặc đi qua ổ dịch, đình chỉ
vận chuyển mua bán, cấm mổ thịt (trừ trường hợp có thể giết thịt tận dụng theo quy định
dưới sự hướng dẫn của ngành thú y), canh gác cổng ra vào ổ dịch, cấm người không phận
sự ra vào ổ dịch, vùng có dịch. Phải chữa bệnh và tiêm chống dịch ở ổ dịch và tiêm
phòng dịch ở vùng nguy cơ dịch. Dụng cụ vật liệu dùng cho động vật bệnh phải qua xử lý
tiêu độc cho đến khi hết dịch. Trong trường hợp bắt buộc phải vận chuyển động vật dễ
nhiễm, thức ăn, chất thải qua vùng có dịch phải đi theo tuyến đường quy định và không
được dừng lại.
Trong vùng dịch uy hiếp trong phạm vi 30 km tùy theo từng bệnh tính từ chu vi
vùng có dịch phải thực hiện hạn chế việc lưu thông, vận chuyển, mua bán, trao đổi động
vật và sản phẩm động vật dễ nhiễm với dịch bệnh đã công bố. Tại vùng này cơ quan thú y
phải tăng cường kiểm soát việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật và kiểm tra phát
hiện kịp thời động vật mắc bệnh. Khẩn cấp tổ chức tiêm phòng bắt buộc hoặc áp dụng
các phương pháp phòng bắt buộc khác cho động vật mẫn cảm với bệnh dịch đã công bố.
Nhiều trường hợp phải giết mổ bắt buộc ở một nơi quy định xa chuồng trại chăn nuôi để
hạn chế sự lây lan dịch bệnh theo quyết định của UBND cấp tỉnh do Chi cục thú y đề
nghị. Khi đó sản phẩm giết mổ không được sử dụng dưới dạng tươi sống mà phải dưới
dạng chế biến chín hoặc qua xử lý nhiệt để thu sản phẩm tận dụng làm thức ăn gia súc,
đồng thời phải xử lý tiêu độc, đốt và chôn phân rác, chất bài xuất, sản phẩm động vật
không sử dụng được và tiêu độc cơ sở giết mổ cũng như phương tiện vận chuyển động
vật giết mổ bắt buộc tránh mầm bệnh lây lan. Phương tiện vận chuyển phải có sàn kín
tránh làm rơi vãi các chất thải dọc đường đi.
UBND cấp tỉnh công bố hết dịch theo đề nghị của Chi cục thú y (hoặc tương
đương đối với thủy sản) sau khi Chi cục đã kiểm tra điều kiện công bố hết dịch, báo cáo

Cục thú y (hoặc tương đương đối với thủy sản) và Sở Nông nghiệp và PTNT (hoặc Sở
Thủy sản) và đã được Cục Thú y (hoặc tương đương đối với thủy sản) đồng ý. Chỉ được
công bố hết dịch động vật trên cạn khi có đủ ba điều kiện sau: 1) sau con chết, giết mổ
bắt buộc hoặc con lành bệnh cuối cùng từ 15 đến 30 ngày (dài ngắn tùy loại bệnh, theo
quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT) mà không thấy con nào bị mắc bệnh và chết với
dịch đã công bố nữa, 2) toàn bộ đàn gia súc mẫn cảm ở trong ổ dịch và vành đai bảo vệ
đã được tiêm phòng hoặc áp dụng các biện pháp phòng khác và đủ thời gian miễn dịch
đối với bệnh đó và 3) đã tổng vệ sinh tiêu độc toàn bộ ổ dịch đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú
y.
Đối với dịch trong phạm vi từ hai tỉnh trở lên, Cục Thú y (hoặc tương đương đối
với thủy sản) sau khi kiểm tra đủ điều kiện công bố hết dịch thì đề nghị Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và PTNT (hoặc Bộ Thủy sản) công bố hết dịch, hoặc đối với dịch bệnh
nguy hiểm của động vật có khả năng lây sang người thì báo cáo Bộ Nông nghiệp và
PTNT (hoặc Bộ Thủy sản) để Bộ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công bố hết dịch.
3. Đối sách với đường truyền lây
3.1. Khi chưa có dịch
Mầm bệnh lây từ con vật bệnh hoặc mang trùng sang con khỏe bằng nhiều đường
thông qua các tác nhân trung gian truyền bệnh hình thành các con đường truyền lây khác
nhau. Các nhân tố trung gian truyền bệnh có vai trò quyết định trong việc làm bệnh lây
lan. Chúng có thể làm cho dịch lẻ tẻ biến thành dịch lưu hành. Các biện pháp đối với
nhân tố trung gian là giống nhau khi chưa có dịch cũng như khi có dịch và đều nhằm làm
cho chúng không mang mầm bệnh hoặc làm cho mầm bệnh bị tiêu diệt bằng cách tiêu
độc thường xuyên. Đối với những nhân tố trung gian truyền bệnh là sinh vật như động
vật chân đốt và chuột cần thực hiện các biện pháp tiêu diệt chúng hoặc ngăn cản chúng
tiếp xúc với gia súc, gia cầm.
Đối với những bệnh lây qua đường tiêu hóa, cần chú ý đến vệ sinh thức ăn, nước
uống, cấm chăn thả ở các vùng nhiễm mầm bệnh (như nhiễm nha bào nhiệt thán), ở các
bãi chăn hoặc nguồn nước bị nhiễm các chất bài tiết, bài xuất của động vật bệnh, các chất
thải của các xí nghiệp chế biến thú sản, lò giết mổ động vật. Phải giải quyết tốt nguồn
nước uống và nguồn nước tắm rửa. Phải bảo quản tốt các loại thức ăn, thực hiện tốt tiêu

độc, tiêu diệt côn trùng, ve bét và chuột, xử lý tốt phân, rác và nước tiểu của động vật
bệnh, bảo đảm vệ sinh chuồng trại.
Đối với những bệnh lây qua đường hô hấp, nhân tố trung gian truyền bệnh duy
nhất là không khí, nhưng việc cắt đường truyền lây này là việc rất khó khăn. Cần giữ
chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát, tránh nhốt gia súc, gia cầm chật chội. Cần thường xuyên
tiêu độc chuồng trại. Thỉnh thoảng cần chăn thả gia súc ngoài trời. Tránh để phân, ổ lót
bẩn lưu cửu trong chuồng. Tránh làm bụi bay nhiều khi quét dọn chuồng.
Đối với những bệnh lây qua đường máu, nhân tố trung gian truyền bệnh duy nhất
là sinh vật môi giới hút máu, cần phải tiêu diệt hoặc ngăn cản chúng tiếp xúc với gia súc,
gia cầm.
Đối với những bệnh lây qua da và niêm mạc, vì có nhiều loại nhân tố trung gian,
nên cần có nhiều biện pháp như tránh cho động vật khỏe tiếp xúc trực tiếp với động vật
bệnh và các nhân tố trung gian, cần giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh vết thương, thường
xuyên tiêu độc ngoại cảnh, chuồng trại và dụng cụ chăm sóc nuôi dưỡng động vật,...
Tóm lại, biện pháp cắt đứt đường truyền bệnh là xóa bỏ các nhân tố trung gian.
Cho nên cần có nhiều biện pháp như tránh cho động vật khỏe tiếp xúc trực tiếp với động
vật bệnh, vệ sinh thức ăn nước uống, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể, thực hiện tiêu
độc, tiêu diệt côn trùng, ve bét và chuột.
2.2. Khi có dịch xảy ra
Biện pháp đối với nhân tố trung gian cần phải thực hiện các biện pháp bổ sung,
tiến hành khẩn trương và huy động mọi nguồn lực có thể được trong xã hội vào công tác
ngăn chặn dịch lây lan rộng. Các biện pháp quan trọng đối với nhân tố trung gian truyền
bệnh là tiêu độc, tiêu diệt động vật chân đốt và các biện pháp ngăn cản các nhân tố đó lan
rộng.
Gia súc, gia cầm dễ nhiễm với bệnh đã công bố dịch thì nhất thiết không được thu
mua, không đem bán, không đưa vào đưa ra ổ dịch hoặc đi qua ổ dịch. Xe cộ, người, gia
súc khi cần thiết phải đi xuyên qua ổ dịch thì phải tiêu độc. Các loại động vật không
nhiễm bệnh khi đưa ra ngoài phải được tiêu độc. Chuồng trại phải được niêm yết, chỉ
được mở cửa khi cho ăn hoặc chữa bệnh. Cấm mổ thịt bên ngoài bừa bãi. Súc vật bệnh và
súc vật chết phải có biện pháp xử lý thích đáng. Trứng gia cầm trong khu vực nguy cơ

dịch vẫn có thể sử dụng vào mục đích thực phẩm nhưng không được bán ra ngoài ở dạng
chưa chế biến, trong những cơ sở chăn nuôi đó có thể thu hoạch trứng, ngâm khử trùng
khoảng 1 - 2 phút trong dung dịch iốt (iodine) 0,1% rồi chế biến tại chỗ thành trứng
muối. Ở các trại chăn nuôi tập trung nên có nơi chế biến xác chết (trừ bệnh nhiệt thán,
bệnh bò điên và các bệnh nguy hiểm khác có nguy cơ lây sang người) thành mỡ công
nghiệp, bột xương, bột thịt dùng cho công nghiệp hoặc làm phân bón. Biện pháp này giúp
làm giảm lượng chất phế thải phải chôn hoặc đốt một khi có dịch do nông trại không bán
được sản phẩm động vật nên thiếu tiền đầu tư thức ăn để duy trì quy mô đàn. Nếu không
có điều kiện chế biến thì phải chôn sâu giữa hai lớp vôi, chôn xa nguồn nước, bãi chăn,
mạch nước ngầm, chuồng gia súc và nhà ở. Làm tương tự đối với chất bài xuất từ động
vật bệnh và sản phẩm phụ giết mổ tận dụng. Trong trường hợp bệnh nhiệt thán không
được mổ xác dù là với mục đích lấy bệnh phẩm nghiên cứu để tránh sự hình thành nha
bào khi vi khuẩn tiếp xúc với không khí, nhất thiết phải đốt xác, nếu không có nhiên liệu
để đốt thì phải chôn sâu 2 mét, trước khi chôn trên và dưới xác cần đổ vôi chưa tôi, mả
súc vật phải rào lại, đổ bê tông, cắm biển ghi tên bệnh. Khi chuyển xác chết đến nơi chôn
cần tránh làm rơi phân và các chất bài tiết của con vật. Dụng cụ vận chuyển, người vận
chuyển phải được tiêu độc sau khi chôn xác.
Chuồng trại phải quét vôi, nền chuồng cần chèm lửa hoặc rãi vôi bột, phân rác
phải thực hiện dọn tập trung và tiêu độc. Thức ăn thừa phải đốt hoặc chôn, cống rãnh
phải khơi thông và tiêu độc. Nguồn nước rửa, giếng nước nhiễm bẩn phải tiêu độc. Tóm
lại, phải tiêu độc toàn bộ trong ổ dịch.
2.3. Một số biện pháp kỹ thuật cụ thể đối với yếu tố trung gian truyền bệnh
Dưới đây trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm cắt đứt yếu tố trung gian truyền
bệnh: tiêu độc và chăn nuôi khép kín.
a. Tiêu độc (tẩy uế)
Tiêu độc nhằm mục đích tiêu diệt mầm bệnh trên các yếu tố trung gian truyền
bệnh (do bị nhiễm từ các chất bài tiết của súc vật bệnh, từ xác súc vật chết bệnh, từ súc
vật mang trùng) và tiêu diệt mầm bệnh ngay trên thân thể súc vật (nhưng không được áp
dụng với vết thương và nội quan động vật). Tiêu độc chỉ có ý nghĩa thực sự khi cùng tiến
hành các biện pháp phòng chống bệnh tổng hợp, vì tiêu diệt mầm bệnh ở ngoại cảnh vẫn

không loại trừ được mầm bệnh (khi nguồn bệnh là vật mang trùng mà ta không nhận biết
được). Có tiêu độc khi chưa có dịch, tiêu độc khi có dịch và tiêu độc khi đã hết dịch. Đó
là biện pháp cần thực hiện thường xuyên (khi chưa có dịch) và khẩn trương, triệt để (khi
có dịch).
Đối tượng tiêu độc rất rộng rãi: chuồng trại, sân phơi, bãi chăn, dụng cụ chăn nuôi
và dụng cụ đã tiếp xúc với động vật, phương tiện vận chuyển động vật, nguyên liệu động
vật (da, lông,...), các nơi chế biến và lưu trữ nguyên liệu động vật, thức ăn nước uống,
thân thể động vật, tay chân và quần áo của người,...
Có nhiều phương pháp tiêu độc: tiêu diệt mầm bệnh bằng cách trực tiếp tiêu diệt
chúng (tiêu độc vật lý, hóa học) hoặc tạo ra những điều kiện sống không thích hợp đối
với chúng để chúng bị tiêu diệt (tiêu độc cơ giới).
Tiêu độc cơ giới làm giảm số lượng mầm bệnh hoặc làm giảm những chất thích
hợp cho sự tồn tại của mầm bệnh cũng như các chất tác động xấu đến chất lượng tiêu độc
hóa học và vật lý, nhờ vậy làm tăng hiệu lực tác dụng của các phương pháp tiêu độc khác.
Tiêu độc cơ giới bao gồm việc thực hiện thu dọn phân rác, rơm rạ độn chuồng và thức ăn
thừa để đem ủ hoặc đốt hủy; cọ rửa hoặc cạo lớp ngoài của dụng cụ, nạo vét mặt tường,
nền nhà, sân chơi, bãi chăn, cống rãnh,...
Tiêu độc cơ giới cần phải thực hiện trước và sau các biện pháp tiêu độc khác.
Tiêu độc vật lý gồm nhiều phương pháp như dùng ánh sáng mặt trời, nhiệt độ cao
(lửa, đun sôi, hơi nước), dùng tia tử ngoại,...
Dùng ánh sáng mặt trời chiếu thẳng tiêu diệt được nhiều loại mầm bệnh. Có thể
lợi dụng ánh sáng mặt trời bằng cách mở rộng cửa chuồng trại, cho gia súc tắm nắng,
phơi nắng thường xuyên dụng cụ chăn nuôi, yên cương,...
Dùng lửa để đốt thức ăn thừa, phân rác và các dụng cụ rẻ tiền. Có thể dùng lửa
đốt hoặc hơ nóng để tiêu độc bề mặt các dụng cụ bằng tre, gỗ (cây khiêng xác chết,
gióng, cuốc xẻng,...). Những dụng cụ bằng kim loại có thể dùng ngọn lửa mạnh của đèn
xì để tiêu độc.
Dùng nước sôi là phương pháp thông thường, rẻ tiền, hiệu lực cao, được dùng
rộng rãi trong thực tiễn (đun sôi) đối với nhiều loại đối tượng cần tiêu độc. Nước đun sôi
60 - 80

o
C tiêu diệt được hầu hết các loại vi khuẩn không có nha bào trong nửa giờ, đun
sôi diệt được một số vi khuẩn có nha bào sau 15 phút.
Nước đun sôi cho thêm 1 - 2% xút (NaOH) dùng để tiêu độc dụng cụ kim khí, đồ
gỗ, đồ dùng bằng vải (như quần áo). Đun sôi 1 - 2 giờ có thể tiêu diệt được tất cả các loại
mầm bệnh. Trong phòng thí nghiệm người ta còn dùng không khí đun nóng trong các lò
hấp khô (tiêu độc dụng cụ thủy tinh, kim khí,...), dùng hơi nước dưới áp lực trong lò hấp
ướt (hấp cao áp tiệt trùng: tiêu độc môi trường nước, đồ vải, cao su,...), dùng tia tử ngoại
của đèn tử ngoại, dùng phương pháp hấp cách quãng (phương pháp tiệt trùng Pasteur),...
Tiêu độc hóa học là phương pháp được dùng rộng rãi nhất trong thú y. Các chất
hóa học dùng để tiêu độc có điểm chung là có tác dụng một cách toàn bộ, không chọn lọc
lên tế bào vi sinh vật hoặc virion của virut như làm biến chất protein (như formol,
phenol,...), làm kết tủa protein (như muối của kim loại nặng, ethanol,...), tác dụng làm tan
cấu trúc màng tế bào chất (ethanol, ether,...) hoặc tác dụng lên các chất cần thiết cho đời
sống vi khuẩn, biến các chất này thành chất trung gian có tính độc đối với chúng. Hiệu
lực tác dụng của hóa chất phụ thuộc vào tác dụng đặc trưng của chất đó và vào sức đề
kháng của từng loại mầm bệnh đối với chất đó. Hiệu lực tác dụng của hóa chất tiêu độc
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nồng độ, nhiệt độ của dung dịch đang dùng,
nhiệt độ của đối tượng tiêu độc, thời gian tác dụng của thuốc trên đối tượng đó, tính chất
vật lý và hóa học của đối tượng tiêu độc, mức độ ô nhiễm, cũng như bản chất của vi sinh
vật mầm bệnh. Vì vậy, khi dùng, phải chọn chất tiêu độc thích hợp và nắm vững phương
pháp tiêu độc thì hiệu lực tiêu độc mới cao. Các chất hóa học hoàn hảo để tiêu độc phải
đảm bảo các tính chất sau: 1) có khả năng diệt nhiều loại mầm bệnh, 2) ít độc đối với
động vật và người, 3) không làm hỏng dụng cụ, 4) dễ hòa tan trong nước, 5) dễ sử dụng
và 6) rẻ tiền. Tuy nhiên, nhiều tình huống phải lựa chọn những hóa chất tiêu độc không
đủ các tiêu chuẩn nêu trên nên phải chú ý để phòng tránh những tác động bất lợi do hóa
chất tiêu độc mang lại.
Các chất hóa học dùng dưới ba dạng: dạng dung dịch hay huyền dịch, dạng bột và
dạng khí. Dạng dung dịch là dạng dùng phổ biến để lau chùi, rửa, ngâm, phun hoặc tắm.
Những chất dùng dưới dạng này thường là các muối kim loại nặng, các chất kiềm, các

axit vô cơ hoặc hữu cơ, các hợp chất chlor,... Dạng khí dùng để xông chuồng, tủ ấp trứng,
phòng thí nghiệm vi sinh vật học. Những khí thường dùng là khí formaldehyd, khí chlor,
khí lưu huỳnh,... Các chất lỏng hay dung dịch cũng có thể phun dưới áp lực cao tạo thành
những giọt nhỏ lơ lửng trong không khí (khí dung nhân tạo). Dạng bột (bột vôi, bột
chlorur vôi,...) dùng để rắc nền chuồng, lối đi, sân chơi,... thường kém tác dụng hơn hai
dạng trên. Trước khi tiêu độc hóa học cần phải tiêu độc cơ giới để tăng khả năng sát trùng
của hóa chất tiêu độc. Dưới đây giới thiệu một số chất tiêu độc thường sử dụng.
- Xút ăn da (NaOH): là chất tiêu độc mạnh, thường dùng tiêu độc chống ô nhiễm
virut. Xút có tác dụng thủy phân protein, carbohydrat, dầu mỡ. Dung dịch 2 - 4% đun
nóng dùng tiêu độc chuồng trại, dụng cụ. Dung dịch 1% có thể dùng tắm gia súc mắc
bệnh lở mồm long móng đã khỏi bệnh và nhiều bệnh cảm nhiễm virut khác. Tác dụng
diệt trùng mạnh hơn khi cho thêm 5 - 10% NaCl (diệt được nha bào nhiệt thán). Khi dùng
có thể gây tích tụ nhiều ammoniac đầu độc động vật, nên khi tiêu độc xong phải giữ
chuồng cho thoáng.
- Vôi: là chất được dùng rộng rãi. Vôi sống hay vôi chưa tôi là oxid calci (CaO)
và là sản phẩm nung thiêu đá vôi (CaCO
3
) mà thành. Vôi sống hút nước thải nhiều nhiệt
nguy hiểm, tạo thành vôi tôi có bản chất hóa học là Ca(OH)
2
. Chất này có tác dụng diệt
trùng mạnh do làm thủy phân protein tế bào vi khuẩn, diệt được trứng ruồi nhặng, nhưng
không diệt được nha bào,... Dùng dưới dạng sữa vôi 10 - 20% để quét tường, trần nhà,
nền chuồng,... tiêu độc phân, nước tiểu và các chất thải,... Phải quét vôi ba lần, mỗi lần
cách nhau 3 giờ mới có tác dụng. Sữa vôi cho thêm NaOH 1% hoặc formol 3%, hoặc
dung dịch chlorur vôi 0,5 - 2% tăng cường tác dụng diệt trùng. Ngược lại, sữa vôi để lâu,
do tác dụng của CO
2
không khí biến thành calci carbonat (CaCO
3

) mất tác dụng diệt
trùng. Vôi có thể dùng dưới dạng bột nhưng tác dụng chậm và kém hơn dạng sữa vôi.
- Nước tro: Thành phần chủ yếu của nước tro nóng là kali carbonat (K
2
CO
3
).
Trong nước, K
2
CO
3
sẽ cho KOH: K
2
CO
3
+ H
2
O → KOH + CO
2
.
KOH có tác dụng tiêu độc như các chất kiềm khác. Thường dùng nước tro nóng
10% cho thêm 0,5% NaOH thì có tác dụng diệt trùng mạnh hơn. Nên dùng tro mới, tro để
quá 3 tháng mất tác dụng diệt trùng.
- Axit sulfuric (H
2
SO
4
): các chất axit là những chất tiêu độc mạnh vì có khả năng
cướp nước của nguyên sinh chất tế bào, làm hòa tan và làm biến tính protein, phân giải
protein tế bào thành albumoz, pepton và axit amin. Tuy nhiên, axit không được dùng phổ

biến. Axit sulfuric có tác dụng diệt trùng mạnh. Dùng dung dịch 2 - 3% tiêu độc đất,
phân, nền chuồng, và thường dùng tiêu độc da nghi nhiễm nha bào nhiệt thán. Nhược
điểm của chất này là ăn mòn kim loại mạnh (làm hỏng dụng cụ, chuồng trại,...). Có thể
dùng chung với axit phenic hoặc crezol.
- Axit phenic (phenol, C
6
H
5
OH): có tác dụng diệt trùng mạnh, vì có khả năng hòa
tan trong lipid nên dễ thấm sâu vào tế bào vi khuẩn. Chất này có tác dụng hủy diệt mạnh
vi khuẩn không có nha bào, ít có tác dụng đối với virut. Dùng dung dịch 3 - 5% như chất
tẩy uế nhưng cũng có thể pha loãng thêm khoảng 100 lần để rửa vết thương (dùng như
một chất khử khuẩn). Tuy nhiên, do rất đắt tiền nên phenol không được dùng rộng rãi
trong tẩy uế. Cũng không dùng phenol để tiêu độc chuồng bò sữa, vì sữa rất dễ hấp thụ
mùi phenol. Có thể dùng giẻ thấm ướt dung dịch phenol lau các dụng cụ bằng da để tiêu
độc. Khi tiếp xúc với phenol cần chú ý đây là chất ăn da mạnh nhưng không gây cảm
giác đau nên tổn thương trầm trọng có thể xảy ra mà không nhận biết được sớm. Ngoài ra
do tan trong lipid nên khi hít vào đường hô hấp phenol dễ được cơ thể hấp thu nên có thể
gây ngộ độc trầm trọng. Phenol có thể dùng chung với chlorur thủy ngân II hoặc axit
sulfuric với mục đích tiêu độc.
- Chlor (Cl
2
): dùng dưới dạng khí để tiêu độc chuồng có thể đóng kín được (dùng
1,55 g trong 1 m
3
không khí). Có thể dùng chlor dưới dạng tan trong nước (sục khí chlor
vào nước).
Cl
2
+ H

2
O → HCl + HClO (axit hypochlorid)
HClO → HCl + O
Trong nước, HClO và HCl còn tác dụng lẫn nhau để thải khí ClO. Khí ClO tác
dụng với protein vi khuẩn và tàn phá tế bào vi khuẩn, tạo nên proteinat.
Trong môi trường ẩm ướt, khí chlor có tác dụng diệt trùng cao, vì tạo thành axit
hypochlorid và axit chlorhydric. Axit hypochlorid là chất không bền, phân hủy nhanh
thành axit chlorhydric và ôxy nguyên tử có tác dụng ôxy hóa rất cao, làm phá các chất
hữu cơ.
Chlor dùng để tiêu độc chuồng trại, dụng cụ, nước bẩn. Khi dùng chlor phải có
các phương tiện bảo hộ lao động. Tiêu độc xong phải thông khí chuồng rồi mới cho động
vật vào.
- Clorur vôi (hypochlorid calci, Ca(ClO)
2
): là một dạng muối chlor được hình
thành khi sục khí chlor vào nước vôi. Thành phần thường gồm có hypochlorid calci
(Ca(ClO)
2
), chlorur calci (CaCl
2
) và vôi tôi Ca(OH)
2
, có tác dụng diệt nhiều loại vi
khuẩn, cả vi khuẩn có nha bào. Dung dịch 5% tiêu diệt nha bào nhiệt thán sau 3 giờ.
Dùng dung dịch 10 - 20% để tiêu độc chuồng trại, đất, phân, phương tiện vận chuyển
động vật. Dạng bột thường dùng tiêu độc nước tiểu, nước phân và chất bẩn dạng lỏng
khác. Có thể dùng dung dịch chlorur vôi trong.
Chlorur vôi phải chứa trên 25% chlor hoạt tính. Cần phải bảo quản tốt như đựng
trong bình kín, để nơi tối, khô ráo, xa nơi ở của người và chuồng động vật. Muốn dùng
phải xác định lượng chlor hoạt tính chứa trong chlorur vôi trước khi dùng.

Tác dụng diệt trùng của chlorur vôi kém nếu đối tượng tiêu độc chứa nhiều chất
hữu cơ, vì vậy trước khi dùng phải tiêu độc cơ giới, quét dọn chuồng trại cho sạch.
Chloramin chứa từ 26 - 29% chlor hoạt tính, là chất kết tinh màu trắng có mùi
chlor nhẹ hòa tan tốt trong nước nóng. Chất này khó mất chlor hơn chlorur vôi, có tác
dụng diệt trùng không kém bichlor thủy ngân và axit phenic. Dung dịch nóng (50 - 60
°C) là chất sát trùng tốt. Dung dịch 4 - 5% diệt được nha bào vi khuẩn. Tác dụng diệt
trùng của chloramin cao là do thải chlor và ôxy.
- Formol (HCHO): là dung dịch trong nước của khí formaldehyd, thường có dạng
thương phẩm là dung dịch 37 - 41% trong nước gọi là formalin. Có tác dụng diệt trùng
cao là do thấm sâu vào tế bào vi khuẩn, tác dụng với protein nên làm biến đổi cấu trúc
phân tử tế bào. Nồng độ cao làm biến tính protein.
Formol có tác dụng diệt trùng mạnh: dung dịch 1% diệt nha bào nhiệt thán sau 24
giờ. Dung dịch formol 2 - 5% dùng để rửa nền chuồng, để phun hoặc ngâm dụng cụ.
Formol còn dùng ở dạng khí (xông formol) bằng cách đun nóng hoặc bổ sung từ từ vào
formol một lượng vôi tôi hoặc thuốc tím (permanganat kali) cho formol bốc hơi. Lượng
dùng cho 1 m
3
không khí là 25 ml formalin. Dạng khí dùng để tiêu độc chuồng, tủ ấp
trứng, phòng thí nghiệm vi sinh vật.
- Bichlor thủy ngân (HgCl
2
): tác dụng diệt trùng cao do làm kết tủa các dung dịch
protein. Dung dịch không bền, dễ bị phân hủy khi tiếp xúc với một số chất hữu cơ và vô
cơ. Muốn tránh chất này bị phân hủy và làm tăng khả năng thấm sâu vào đối tượng tiêu
độc thì cho thêm HCl và NaCl.
Dung dịch bichlor thủy ngân 0,1 - 0,2% trong nước dùng tiêu độc tường, nền gỗ,
rửa tay, trong phòng thí nghiệm dùng ngâm các dụng cụ nhiễm trùng, lau mặt bàn ghế.
Tác dụng tiêu độc kém đối với các dụng cụ bằng kim loại, các chất chứa kiềm và protein.
Tuy nhiên, do thủy ngân là chất độc có thể tích tụ trong môi trường làm liều độc hình
thành sau một thời gian sử dụng liều nhỏ nên đây là hóa chất không nên áp dụng vào mục

đích tiêu độc nhà cửa, chuồng trại, phòng ốc,...
- Iôt (I, iodine): Tác dụng sát trùng rất mạnh, phổ tác dụng rất rộng, diệt được vi
khuẩn kháng cồn, kháng toan, nha bào nhiệt thán, virut, nấm men, mốc. Dung dịch 1 -

×