Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô ứng dụng chính sách tiền tệ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.57 KB, 38 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ ỨNG DỤNG

Giảng viên hướng dẫn: Ts. Nguyễn Phúc Hải
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Hương Lan

Lớp

: CH24S

Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2016


2
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến
động, các giao dịch kinh tế, tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp hơn. Trong khi đó, chính
sách tiền tệ ở Việt Nam còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ
trong thời gian qua (giai đoạn trước năm 2012) tỏ ra không hiệu quả trong việc kiểm soát
lạm phát. Từ năm 2004 đến năm 2011, lạm phát cao và diễn biến phức tạp. Kinh tế vĩ mô
bất ổn. Từ năm 2012 đến nay, chính sách tiền tệ đã có những thành công nhất định trong
việc kiềm chế lạm phát ở mức một con số, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Để việc điều


hành chính sách tiền tệ đạt được hiệu quả cao thì nền kinh tế phải có những nền tảng
vững chắc trên bình diện kinh tế vĩ mô cũng như sự ủng hộ của công chúng và thể chế.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, các thể chế tài chính, tài khóa, tiền tệ chưa thật vững mạnh, thể
hiện ở thực trạng hệ thống ngân hàng, tình hình thu chi ngân sách cũng như tính độc lập
của Ngân hàng Trung ương. Vì vậy, việc Việt Nam tiếp tục cải tổ các thể chế này là rất
cần thiết.
Qua quá trình học tập môn học Kinh tế Vĩ mô ứng dụng, được sự hướng dẫn của
thầy Nguyễn Phúc Hải, em xin trình bày Tiểu luận: “Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện
nay”.
Tiểu luận gồm 02 phần:
Phần 1: Tổng quan về Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ.
Phần 2: Chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Trong phạm vi kiến thức còn hạn chế, bài Tiểu luận còn nhiều thiếu sót, em mong
nhận được những ý kiến nhận xét và góp ý của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!


3

PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1. Ngân hàng trung ương (NHTW).

1.1. Khái niệm NHTW.
NHTW có thể ra đời từ sự phát triển và phân hoá hệ thống Ngân hàng thương mại
(NHTM) kéo dài nhiều thế kỷ theo mô hình Ngân hàng Anh và các nước Châu Âu, hoặc
bằng cách thành lập hoàn toàn mới vào nửa đầu thế kỷ XX. Dù hình thành bằng con
đường nào, thì các NHTW đều có chung một bản chất: là một chế định công cộng, có thể
độc lập hoặc trực thuộc chính phủ; thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, là ngân

hàng của các ngân hàng, ngân hàng của chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý
Nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu và ổn định của cộng đồng.

1.2. Chức năng của NHTW.
Ngày nay, tất cả các quốc gia lớn nhỏ trên thế giới đều có một NHTW với những
vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu được. Một mặt, NHTW đóng vai trò chủ ngân
hàng đối với các NHTM, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động không trục trặc.
Mặt khác, NHTW còn đóng vai trò chủ ngân hàng đối với chính phủ, gánh trách nhiệm
kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách Nhà nước của
chính phủ, là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền.

1.2.1. Phát hành tiền và điều tiết mức cung tiền.
NHTW là ngân hàng độc quyền phát hành tiền và là ngân hàng đóng vai trò quan
trọng nhất trong điều tiết mức cung tiền có nghĩa là NHTW là người duy nhất được phép


4
phát hành tiền theo các quyết định trong luật hoặc được chính phủ phê duyệt nhằm đảm
bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia, mọi hoạt động
cung ứng tiền của NHTW sẽ ảnh hưởng đến tổng phương tiện thanh toán trong xã hội và
do đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Trách nhiệm của NHTW ở chức năng này đó là
việc xây dựng số lượng tiền cần phát hành và thời điểm phát hành cũng như phương thức
phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.
Ba công cụ quan trọng nhất mà NHTW có thể sử dụng để tác động vào lượng cung
ứng tiền tệ đó là: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ suất triết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.

1.2.2. NHTW là ngân hàng của các ngân hàng.
Khi thực hiện chức năng này, NHTW cung ứng đầy đủ các dịch vụ của một ngân
hàng cho các Ngân hàng trung gian (NHTG). Bao gồm:
+ Mở tài khoản tiền gửi và quản lý tiền dự trữ của hệ thống NHTM.

+ Cấp tín dụng cho NHTM.

1.2.3. NHTW là ngân hàng chính phủ.
Các dịch vụ ngân hàng mà NHTW cung cấp cho chính phủ bao gồm:
+ NHTW là đại diện ngân hàng của Nhà nước:Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nước,
chính phủ có thể uỷ quyền cho bộ tài chính hoặc kho bạc đứng lên làm chủ tài khoản tại
NHTW. Tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào
NHTW. NHTW các tài trợ hay bù đắp thiếu hụt ngân sách của Nhà nước.
+ NHTW là đại lý của Nhà nước: NHTW thay mặt cho Nhà nước trong các thoả thuận tài
chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng, thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra, trong tư
cách đại lý, nó phát hành trái phiếu, cổ phiếu, các loại phiếu vay nợ cho Nhà nước kể cả
trong nước và ngoài nước. Bằng việc thay mặt Nhà nước phát hành hoặc mua trái phiếu,
NHTW trực tiếp làm tăng (hoặc giảm) lượng cung ứng tiền.
+ NHTW quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng: NHTW là người xây dựng
và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT). Cụ thể: NHTW là người chủ trì thiết kế
và thực thi CSTT quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng
năm, điều hành các công cụ thực hiện CSTT, thực hiện việc đưa tiền ra lưu thông, rút tiền
từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường làm tác động đến điều kiện tín dụng và do đó
tác động đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.


5

2. Chính sách tiền tệ (CSTT).
2.1. Khái niệm và cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ.
2.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ.
CSTT là một hệ thống những quan điểm, giải pháp, những cách thức mà NHTW
thực hiện nhằm tác động tới cung ứng tiền trong nền kinh tế và ảnh hưởng đến các mục
tiêu kinh tế vĩ mô. CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó
NHTW, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng

tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu về sản lượng, giá cả và công ăn việc làm.

2.1.2. Cơ chế thực hiện CSTT.
Quá trình thực hiện CSTT bao giờ cũng được diễn ra theo một cơ chế nhất định.
Trong cơ chế này, NHTW sẽ là người thiết kế và điều hành CSTT. Một CSTT của một
quốc gia có thể được thực hiện theo hai hướng:
+ CSTT “nới lỏng” là chính sách nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền
kinh tế làm cho tiền trở nên dồi dào, lãi suất hạ xuống từ đó kích thích tiêu dùng và đầu
tư. Kết quả của CSTT “nới lỏng” là sản lượng tăng, nền kinh tế tăng trưởng cao với tỉ lệ
thất nghiệp thấp.
+ CSTT “thắt chặt” là chính sách nhằm giảm khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế
làm cho tiền tệ trở nên khan hiếm về số lượng, lãi suất bị đẩy lên cao, tổng cầu giảm và
do đó giá cả trên thị trường giảm sút, lạm phát bị đẩy lùi.

2.2. Mục tiêu của CSTT.
Hệ thống chính sách kinh tế (CSKT) vĩ mô là một hệ thống rất đa dạng gồm nhiều
CSKT khác nhau tạo thành. Mỗi chính sách có đặc điểm, nội dung và công cụ điều tiết
khác nhau nhưng chúng đều có chung một mục đích là tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô
lành mạnh, có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Trong hệ thống các chính
sách đó, CSTT giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nhờ có những ưu điểm mà các CSKT vĩ mô
khác không có được cho nên CSTT được coi là công cụ hữu hiệu để điều tiết kinh tế vĩ
mô của Nhà nước. Tuy nhiên là một bộ phận nằm trong hệ thống CSKT vĩ mô, CSTT
cũng như các CSKT vĩ mô khác chỉ có thể phát huy tác dụng một cách đầy đủ khi chúng
được kết hợp chặt chẽ với nhau, được thống nhất với nhau cả về mục tiêu cũng như


6
phương pháp tiến hành. Là công cụ vĩ mô của Nhà nước, CSTT phải phục vụ cho việc
thực hiện những mục tiêu kinh tế vĩ mô sau:


2.2.1. Tăng trưởng kinh tế cao.
Bất kỳ CSTT của một quốc gia nào thì mục tiêu cao nhất của nó là sự tăng lên của
GDP thực tế. Đó là phần tăng trưởng có được sau khi lấy phần tăng trưởng danh nghĩa trừ
đi phần tăng giá trong tăng trưởng cùng thời kỳ. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ
tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ một CSKT vĩ mô nào. Bởi lẽ, nền kinh tế có
tăng trưởng cao là đồng nghĩa với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế khác của CSTT
như giảm thất nghiệp, tăng thu nhập quốc dân…

2.2.2.Ổn định giá cả.
Giá cả có tỷ lệ thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Khi giá cả lạm phát thấp mức
tăng thu nhập thực tế của nhân dân sẽ dương, do vậy đời sống người lao động tốt hơn.
Nhân dân tin tưởng vào chính quyền và chính sách của Nhà nước. Giá cả có tỷ lệ lạm
phát thấp sẽ đồng thời làm cho lãi suất thực tế dương và lãi suất danh nghĩa sẽ thấp hơn,
do đó sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ về mặt dài hạn và nền kinh tế sẽ có sức bật đầu tư
về lâu dài. Khi giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp, hiện tượng đầu cơ sẽ biến mất, giá trị tiền
nội địa sẽ được ổn định. Ngược lại, khi giá cả lạm phát cao, thu nhập người lao động sẽ
không tăng
kịp với phần tăng giá sẽ làm cho đời sống họ thêm khó khăn, nạn đầu cơ sẽ phát sinh làm
cho một số bộ phận giàu lên rất nhanh trong khi đại đa số nhân dân trở nên nghèo hơn.
Khoảng cách giàu và nghèo lớn dần và nhân dân mất niềm tin vào chính quyền. Ổn định
giá cả vì thế là một mục tiêu quan trọng nhất của CSTT .

2.2.3. Công ăn việc làm cao.
Việc làm cao cho người lao động là một mục tiêu kinh tế - xã hội của mọi quốc gia
hiện nay. Nếu xã hội có ít công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ dẫn đến hậu quả:
lãng phí các nguồn lực, làm giảm sản lượng quốc gia, làm giảm thu nhập trong dân chúng
gây khó khăn cho đời sống của họ thậm chí có thể làm tăng các tệ nạn xã hội. Vì vậy việc
làm cao là một yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như
đang phát triển. Một chính sách tiền tệ đúng thúc đẩy sản xuât, khuyến khích đầu tư sẽ
tạo

ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.


7

2.2.4. Ổn định thị trường tài chính.
Nền tảng tài chính ổn định là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngoài những mục tiêu
nói trên. NHTW phải ổn định hoạt động tài chính của hệ thống tài chính trong nước một
cách gián tiếp. Tăng cường hiệu quả cho nó, kể cả thu thập thông tin, hướng dẫn, ngăn
ngừa rủi ro cho các tổ chức tài chính trong chiều hướng quản lý hoạt động của nó phù
hợp vơí các mục tiêu của nền kinh tế. Bản thân hệ thống tài chính có những mục tiêu
riêng của nó và nhiều khi những mục tiêu này đối chọi với những mục tiêu chung của nền
kinh tế. Vậy vai trò của CSTT là phải hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu nói trên
để phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung mà không làm tổn hại hay hạn chế khả năng phát
triển của hệ thống tài chính.

2.3. Công cụ của CSTT.
Công cụ của CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó
mà đạt được các mục tiêu của CSTT .

2.3.1. Công cụ gián tiếp.
Khi sử dụng những công cụ gián tiếp, NHTW đã làm thay đổi cơ số tiền và khả
năng tạo tiền của NHTM và do đó làm thay đổi lượng cung ứng tiền. Có các loại công cụ
gián tiếp chủ yếu sau:
+Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM): Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động của
NHTW trên thị trường mở thông qua việc mua bán chứng khoán. Các hoạt động này ảnh
hưởng trực tiếp đến dự trữ của các NHTM và ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất. Khi
NHTW đem chứng khoán ra thị trường mở để bán, nó thu tiền về cho nên: 1) nó làm
giảm lượng cung ứng tiền mặt trong lưu thông từ đó làm giảm khả năng cho vay của

NHTM; 2) Khi NHTM mua chứng khoán của NHTW, dù nó trả bằng séc hay tiền mặt dự
trữ của nó cũng giảm đi. Khi dự trữ của NHTM giảm, một lần nữa nó làm giảm khả năng
cấp phát tín dụng của các ngân hàng, và như thế cung ứng tiền trong nền kinh tế càng bị
thắt chặt hơn nữa. Bên cạnh đó, khi NHTW bán chứng khoán thu tiền về, lượng chứng
khoán tiêu thụ ra thị trường đột ngột trở nên rất lớn. Chứng khoán dư thừa làm giá của nó
hạ và do vậy, lãi suất của chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng sẽ buộc các
NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh tình trạng nhân dân và các nhà đầu
tư rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất lên làm khan hiếm
lượng cung ứng tiền và cung ứng tiền khan hiếm làm giảm tỷ giá và giá cả hàng hoá. Như


8
vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền tăng lãi suất, giảm
dự trữ, giảm tỷ giá và giảm phát giá cả. Khi NHTW đem tiền mặt hoặc séc ra thị trường
mở mua chứng khoán, ảnh hưởng hoàn toàn ngược lại. Lượng tiền mặt trong lưu thông
tăng lên, làm tăng dự trữ, tăng lượng tín dụng được cấp phát bởi hệ thống NHTM. Lượng
chứng khoán được NHTW mua làm khan hiếm chứng khoán và đẩy giá nó lên. Giá
chứng khoán tăng làm giảm lãi suất của nó và đến lượt giảm lãi suất của hệ thống
NHTM. Cung ứng tiền tăng làm tăng tỷ giá và giá cả leo thang. Như vậy, NHTW thực
hiện nghiệp vụ mua mở rộng cung ứng tiền, giảm lãi suất, tăng dự trữ, tăng tỷ giá và chỉ
số lạm phát gia tăng.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng để thực thi việc “nới lỏng” hay “thắt
chặt” cung tiền. Nó có nhiều ưu điểm như: linh hoạt, có thể tiến hành thường xuyên và
đặc biệt có thể dễ dàng đảo ngược lại.
+ Lãi suất cho vay chiết khấu: Lãi suất cho vay chiết khấu có hai tác dụng, một gián tiếp,
một trực tiếp. Tác dụng gián tiếp là nó làm tăng hay giảm lãi suất cho vay của NHTM và
do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm tăng hay giảm
dự trữ của NHTM và do vậy tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền
kinh tế. Khi NHTW quyết định tăng lãi suất triết khấu, đó là một biến cố quan trọng
giống như thay đổi CSTT. Lãi suất triết khấu tăng sẽ làm cho NHTM không thể vay của

NHTW nhiều và dễ dàng như trước. Do vậy nó phải giảm bớt cho vay để đảm bảo dự trữ
trở lại. Như vậy, tác động thứ nhất là nó trực tiếp làm tăng dự trữ, giảm cho vay và hiệu
quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Tác động thứ hai là nó làm cho NHTM ý thức
rằng trong trường hợp khẩn cấp cần vay nóng của NHTW, NHTM phải trả lãi suất cao,
do vậy các NHTM sẽ từ từ nâng lãi suất lên theo để khỏi thiệt hại nặng khi phải vay của
NHTW. Lãi suất tăng tiếp tục thắt chặt cung ứng tiền và tác động đến nền kinh tế. Khi
NHTW tuyên bố giảm lãi suất chiết khấu, nó khuyến khích các NHTM đến vay nhiều
hơn, điều này trước hết làm tăng cung ứng tiền, tăng dự trữ. Dự trữ tăng kích thích các
NHTM cho vay nhiều hơn, dễ dàng hơn và điều này làm tăng nhanh hơn nữa cung ứng
tiền. Bên cạnh đó, khi NHTM có thể vay tiền của NHTW với lãi suất hạ, nó sẽ sẵn sàng
hạ lãi suất khi cho sản xuất và tiêu dùng vay. Toàn bộ lãi suất, do vậy sẽ giảm theo, kích
thích đầu tư và mở rộng sản lượng.
+ Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc của NHTM bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc quy định bởi NHTW. Bằng việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW đã làm thay
đổi những khoản tiền ký gửi không kỳ hạn của NHTM, làm thay đổi số nhân tiền và do
đó


9
làm thay đổi lượng cung tiền. Cụ thể, khi NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các
NHTM, sẽ làm tăng số nhân tiền và từ đó làm tăng cung ứng tiền. Ngược lại, khi NHTW
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM sẽ làm giảm số nhân tiền và từ đó làm giảm
cung ứng tiền.

2.3.2. Công cụ trực tiếp.
Ngoài các công cụ truyền thống kể trên của CSTT , NHTW còn sử dụng một số
công cụ có tính chất can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ. Đó là công cụ hạn mức tín
dụng và lãi suất tiền gửi.
+Hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là việc NHTW ấn định một khối lượng tín dụng
phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm cách để đưa nó

vào nền kinh tế thông qua hoạt động cho vay của hệ thống NHTM. Nhờ việc ấn định tín
dụng này mà NHTW có thể kiểm soát và điều hành được khối lượng tiền tệ trong thời
gian đó. Khi NHTW mở rộng hạn mức tín dụng đối với các NHTM thì khối lượng, phạm
vi cho vay trong nền kinh tế tăng lên, nhờ vậy khối tiền cung ứng cũng tăng. Ngược lại,
để “thắt chặt” cung tiền, NHTW có thể hạn chế tín dụng đối với các NHTM nhằm giảm
khối lượng tiền cho vay trong nền kinh tế.
+ Lãi suất: Lãi suất là chi phí phải bỏ ra cho việc vay tiền hay là giá cả của quyền sử
dụng tiền tệ trong một thời gian nhất định. Lãi suất có tác dụng mạnh mẽ đến nhu cầu
tiền tệ dùng cho tiêu dùng và đầu tư, từ đó tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô khác.
Thông qua việc thay đổi mức lãi suất quy định (mức trần lãi suất cho vay tối đa và mức
sàn lãi suất huy động tối thiểu), NHTW buộc các NHTM phải thay đổi mức lãi suất cho
vay và lãi suất huy động của mình. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của các nhà
doanh nghiệp cũng như của dân chúng, tức là có ảnh hưởng tới đầu tư và tiêu dùng, từ đó
ảnh hưởng đến các biến số kinh tế vĩ mô khác.
Tuy nhiên, hai công cụ hạn mức tín dụng và lãi suất chỉ được sử dụng để điều tiết
CSTT ở một số nước đang phát triển. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao,
các công cụ truyền thống (công cụ gián tiếp) của CSTT đã hoàn thiện, thì NHTW không
sử dụng các công cụ trực tiếp để điều hanh CSTT. Như vậy là có nhiều công cụ để điều
hành CSTT. Mỗi công cụ tác động đến cung tiền ở mức độ, phạm vi khác nhau. Trong
quá trình sử dụng các công cụ này, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ các công cụ đó với
nhau, tạo thành hệ thống công cụ đồng bộ thì mới điều tiết kinh tế vĩ mô một cách có
hiệu quả.

2.4. Vị trí của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô.


10
Trong hệ thống các CSKT vĩ mô, CSTT giữ vị trí đặc biệt quan trọng và trung
tâm. Thể hiện:
+ CSTT được sử dụng một cách thường xuyên trước bất kỳ một biến đổi nào của tín hiệu

thị trường. CSTT có tác động nhanh chóng đến các biến số tiền tệ, có ảnh hưởng sâu rộng
đến tất cả các lĩnh vực hoạt động.
+ Chỉ khi có một CSTT đúng đắn thì các CSKT vĩ mô khác mới được sử dụng hiệu quả,
chi phối việc thực hiện các chính sách khác.
+ Khi có sự bất ổn bên trong nền kinh tế hay cú sốc từ bên ngoài thì CSTT bao giờ cũng
được sử dụng đầu tiên.

PHẦN 2
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 - 2000:
1.1 Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam (giai đoạn 1986-2000):
Sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những
bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa định
hướng chính sách tiền tệ. Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành
(pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng – Hợp tác xã tín dụng –


11
Công ty tài chính ), hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp,
phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh
doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng
của nền kinh tế thị trường. Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các
chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay
đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn,
thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến
động của lạm phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò quản lí thông
qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách ấy hoạt động có
hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng gọn nhẹ có khoa

học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng quan hệ quốc tế; xây
dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng đa thành
phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, có hiệu quả, góp
phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam. Đến tháng 10 /
1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng: Luật ngân hàng
Nhà nước và Luật các tổ chức Tín dụng. Hai luật này đã giúp hoạt động của hệ thống
ngân hàng được tự do hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với những thay đổi lớn lao trong
lĩnh vực ngân hàng.

1.2 Thực hiện chính sách tiền tệ qua các giai đoạn (từ 1986-2000):
Chính sách tiền tệ của NHNN là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền
và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế.
Thời kì 1986 đến 2000 có thể chia làm 4 giai đoạn:

1.2.1 Giai đoạn 1986 – 1988:
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn
vượt quá tổng cung. Tình trạng thiếu ngân sách xảy ra thường xuyên vì vậy Nhà nước
liên tục phát hành tiền để bù thiếu hụt khiến cho nền kinh tế luôn trong trạng thái bất ổn,
lạm phát đạt kỷ lục ba con số (siêu lạm phát). Xuất phát từ thực trạng đó, nhiệm vụ chống
lạm phát đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy đã có hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ:
- Đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường
- Thi hành chế độ lãi suất theo chỉ định


12
Điều này đã làm nên những thay đổi mạnh mẽ dảo ngược tình hình. Với mục tiêu trực
tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, những thay đổi trên đã góp phần đẩy
lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân đối với đồng nội tệ, các
quan hệ thị trường được hình thành, tạo ra những cơ sở vững chắc để biến tư tưởng đổi
mới trở thành xu hướng thực tiễn.


1.2.2 Giai đoạn 1989 – 1991:
Các chính sách tiền tệ mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao.
Nhưng lạm phát ở mức trên 66% năm 1990 –1991 là không thể tránh khỏi vì nguồn lực
cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi hướng theo hệ thống kinh tế
thị trường. NHNN áp dụng công cụ tỷ giá hối đoái chính thức do NHNN công bố cộng
biên độ dao động. Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và
giảm bội chi, việc tăng cường động viên tài chính và hoạt động của các ngân hàng nhằm
đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng.
Đặc biệt cải cách hệ thống thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các
thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác động tích cực trong mở rộng và tập trung kịp
thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

1.2.3 Giai đoạn 1992 – 1995:
Đây là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sự ổn định đã đi vào
chế độ dừng. Việc cung ứng tiền tệ cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, cải cách thuế đã
thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nước, các chính sách kinh tế đưa ra phú hợp vứi
nền kinh tế đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường làm cân bằng tổng cung và tổng cầu
hàng hoá. Việc điều hành quản lý kinh tế tuy vậy vẫn ở dạng thô. Do vậy nền kinh tế
không tránh khỏi những giao động về lạm phát. Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố
quyết định chiếu hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn
định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Các công
cụ CSTT được sử dụng:
- Hạn mức tín dụng
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
- Chính sách chiết khấu
- Thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, áp dụng khung lãi suất theo trần và sàn.


13

Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng
đã qui định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngang hàng hai cấp. Bên cạnh đó Nhà nước
đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kĩ thuật của các tổ chức tài chính quốc
tế. cán cân thanh toán đã có chiều hướng thuận lợi. Bên cạnh những thành tựu đạt được
như kiềm chế lạm phát, quản lí ngoại hối, chính sách lãi suất... việc điều hành chính sách
tiền tệ cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Cụ thể:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế thị trường:
lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với yêu cầu đặt ra
của nền kinh tế; công cụ dự trữ bắt buộc chưa phát huy hết tác dụng; cán cân thanh toán
còn bị thâm hụt lớn; việc chi tiêu ngân sách còn gặp nhiều bất cập, đôi khi gây ra những
ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
- Trên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng phát hành để bù đắp chi tiêu gây ra hiện tượng lạm
phát ngoài dự kiến.
- Công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ là hoạt động thị trường mở trong khi thị
trường tín phiếu kho bạc hình thành chậm làm cho NHNN khó khăn trong việc điều hành
công cụ này.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính nhiều khi chưa ăn khớp nhịp
nhàng.

1.2.4 Giai đọan 1996 – 2000:
Trong giai đoạn này mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và
đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính
trong giai đoạn này, mục tiêu kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn so với mục tiêu kiểm
soát, ổn định kinh tế, tốc độ tăng trưởng đồng đều trong các năm, tỷ lệ lạm phát giao
động không quá mạnh. Cố gắng đạt cán cân thanh toán quốc tế từ thiếu hụt tới cân bằng
vá tiến tới thặng dư. Đảm bảo trạng thái cân bằng ngân sách, tăng thu giảm chi nhất là
các khoản chi điều hành để tập trung cho đáu tư công cộng.
Một số nội dung chính trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ trong
thời kì này:
- Hạn mức tín dụng (1994 – 1998) việc đưa ra hạn mức tín dụng sẽ tạo ra những nhân tố

khó khăn cho các NHTM. Mặc dù công cụ này đã được áp dụng từ năm 1994 và đã có


14
những tác đọng hiệu quả nhưng từ quý II năm 1998 NHNN đã không áp dụng công cụ
này như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
- Từ quý II/1998 – T3/2000: dỡ bỏ hạn mức tín dụng.
- Dự trữ bắt buộc: theo quy chế dự trữ bắt buộc được ban hành theo Quyết định số
1991/1999/QD-NHNN1 năm 1997, NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng chung
cho các tổ chức tín dụng (6%_đối với tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn;6% trung và dài
hạn). Đồng thời cũng qui định trả lãi cho dự trữ vượt quá, mức phạt nếu tổ chức tín dụng
thiếu khoản dự trữ bắt buộc. Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ
đọng trong điều hành nguồn vốn kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt buộc đúng như quy
định phù hợp mục tiêu hành chính sách tiền tệ.
- Tái cấp vốn: thông qua hình thức cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng
tiền gửi ngoại tệ của các NHTM, NHNN thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp
khó khăn tạm thời về thanh toán cho các NHTM. Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn được
điều chỉnh từ 1% tháng lên 1,1% tháng. Năm 1999, cùng với việc giảm trần lãi suất cho
vay lãi suát tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85% tháng.
- Lãi suất: duy trì lãi suất trần, xóa bỏ lãi suất sàn: thời kì này đánh dấu sự thay đổi căn
bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt nam. NHNN
điều hành chính sách lãi suất thông qua mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống
chế theo tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35% tháng. Trong
phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được công bố, các ngân hàng thương mại
được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ
cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh riêng.
- Nghiệp vụ thị trường mở: ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã
mở phiên giao dịch đầu tiên. Công cụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất
của chính sách tiền tệ vì nó có ưu điêmr hơn hẳn các công cụ khác, cho phép NHNN chủ
động linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ. Do vậy việc áp dụng công cụ thị trườnt mở

đánh dấu bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN từ
việc sử dụng những công cụ cứng nhắc mang tính hành chính sang công cụ linh hoạt và
hiệu quả hơn.


15

( Nguồn: Tạp chí Ngân hàng, số 4 năm2001, trang14-19 )

1.3.Vai trò của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô ở Việt Nam (giai đoạn 1986-2000)
1.3.1 CSTT với kiểm soát lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Với vai trò to lớn của mình để
làm được điều đó, NHNN Việt Nam đã phải tiến hành thực hiện những công cụ của
CSTT theo hướng có lợi nhất. Theo từng thời kỳ, NHNN sẽ đưa ra những quyết định hợp
lý, đúng đắn sao cho nền kinh tế đạt được những kết quả to lớn nhất.
Có thể thấy tỷ lệ lạm phát ở nước ta các thời kỳ:

(Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế và niên giám thống kê 1999.)
Năm 1991, lạm phát mức cao 68%. Với mục tiêu đẩy lùi lạm phát, NHNN “thắt chặt”
cung tiền, nhờ vậy đến năm 1992 lạm phát đẩy xuống còn 17,6%. Đến năm 1993,
NHNN tiếp tục “ thắt chặt” cung tiền với những biện pháp như ấn định hạn mức tín dụng,
áp dụng quy chế DTBB .., nhờ đó lạm phát tiếp tục giảm (chỉ còn 5,2%). Năm1994, tỷ lệ
lạm phát bị đẩy lên cao (14,4%) là do nhiều nguyên nhân song tỷ lệ này lại bị giảm ngay


16
vào các năm sau đó. Có được kết quả như vậy là do NHNN đã áp dụng các công cụ nhằm
“thắt chặt” cung tiền. Năm 1998, do nhiều nguyên nhân trong và ngoài nước, tốc độ lạm
phát ở mức cao hơn so với hai năm trước đó: 9,2%. Tuy nhiên lạm phát vẫn được kiềm
chế ở mức dưới 10% theo chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra. Từ 1999 đến nay tình trạng giảm

phát xuất hiện, đặc biệt là năm 2000. Mặc dù 2 tháng đầu năm 2000, lạm phát là 2,0%
nhưng cả năm giảm phát là 0,6%.
Như vậy, những năm vừa qua, CSTT và việc điều hành CSTT của NHNN Việt
Nam có thể coi là bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế lạm phát. Lạm phát bị đẩy lùi
trước hết làm cho giá cả ổn định, đời sống của nhân dân nói chung và người lao động nói
riêng có xu hướng được cải thiện, ngoài ra nó còn tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho
các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước.

1.3.2 CSTT với tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu kinh tế vĩ mô đồng thời cũng là mục tiêu của
CSTT. Kết quả đổi mới kinh tế trong thời gian qua đặc biệt là đổi mới CSTT được đánh
dấu bằng sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Bức tranh toàn cảnh trên được thể
hiện qua một số số liệu sau:


17

(Nguồn: Thời báo kinh tế VN 2000-2001)
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và
tương đối ổn định. Có được kết quả như vậy là nhờ NHNN đã có những điều chỉnh, quyết
định đúng đắn, đặc biệt là về vấn đề lãi suất đã có những cải cách và điều chỉnh hợp lý.
Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định từ năm 1992 đến 1997 (tốc độ tăng trưởng bình quân
của nền kinh tế là 8,45% từ 1992 đến 1998). Kể từ 1991 trở đi, năm 1998 và 1999 tuy có
tăng trưởng, song ở mức thấp nhất và có xu hướng chậm lại ở một số ngành. Năm 2000,
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,7%, vượt mức chỉ tiêu đầu năm do Quốc hội đề ra là 5,5 6% và cao hơn nhiều so với năm 1999 là 4,8%. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp cả
năm tăng 15,5% (kế hoạch là 10,5 - 11%) giá trị sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp 4,9%
(kế hoạch là 3,5 - 4%), dịch vụ tăng 6% (kế hoạch là 5 - 5,5%). Tốc độ tăng trưởng kinh
tế năm 2000 tăng dần qua từng quý và với kết quả như vậy, năm 2000 nước ta đã chặn đà
giảm sút về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bình quân GDP trên đầu người năm 2000 đạt
khoảng 400 USD/người.


1.3.3 Chính sách tiền tệ với ổn định việc làm.
Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định đã góp phần giải quyết nhiều mặt về xã hội
trong đó đặc biệt lưu tâm tới việc làm. Từ trước đến nay lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp vẫn chiếm đa số (70% dân số). Đây là loại hình lao động có tính chất vụ mùa.


18
Cùng với sự phát triển kinh tế là sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ
trọng nghành công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng nghành nông nghiệp. Sự phát triển
của các nghành công nghiệp và dịch vụ trong thời gian qua đòi hỏi phải được bổ sung lực
lượng lao động. Bên cạnh đó là việc mở rộng vốn đầu tư cho mọi thành phần kinh tế cũng
cần phải sử dụng số lượng lực lượng lao động lớn hơn. Đây là những yếu tố giúp tỷ lệ
thất nghiệp giảm xuống. Ước tính trong thời kỳ 1995-1998, Việt Nam đã giải quyết việc
làm mới cho khoảng 5,2 triệu người, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho
khoảng 1,3 triệu người. Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành
phần kinh tế, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế…
công ăn việc làm cho người lao động được cải thiện.

1.3.4. Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
- Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu : Trong những năm qua với chính sách tỷ giá tương đối
ổn định đã tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, đặc biệt là xuất khẩu.
Do những điều chỉnh kịp thời về tiền tệ và tỷ giá của NHNN, mà cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ của khu vực có tác dụng không lớn đến nền kinh tế Việt Nam năm 1997,
trong đó xuất khẩu vẫn tăng 4% (vào năm 1998), xuất khẩu nước ta năm 1999 đã có
những bước tiến dài so với năm1998. Đến năm 2000, với những điều chỉnh đúng của
NHNN, đã tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế về mọi mặt, trong đó kim
ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 14 tỷ USD tăng 21,3% so với kế hoạch đề ra là 11-12%, nếu
trừ yếu tố tăng, giảm giá hàng xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu thì nhịp tăng kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 13%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt trên 180 USD

(năm 1999 là 1500 USD/người) vượt qua ngưỡng 1700USD/người được xếp vào loại các
nước có nền ngoại thương phát triển.
- Góp phần ổn định tỷ giá hối đoái : Trong một thập kỷ qua, tỉ giá hối đoái nói chung ổn
định (có biến động nhưng ở mức có thể chấp nhận được). Kết quả đó là do những cố
gắng của Nhà nước và của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong quản lý và kiểm soát thị
trường. Sau hai quyết định số 64 và 65/1999/QĐ-NHNN7 của NHNN Việt Nam, cơ chế
tỷ giá được cải tiến một bước mới: về cơ bản NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình
quân qua thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng và biên độ dao động rất thấp. Như vậy, tỷ
giá không còn là được điều chỉnh, mà là được hình thành trên thị trường. Thông qua can
thiệp và công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng,
NHNN đã đIều chỉnh tăng tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ (USD) dần dần, đều
đặn qua các phiên giao dịch, không gây ra các cú sốc về tăng đột biến tỷ giá, gây bất lợi
cho các doanh nghiệp và thị trường. Trong các tháng cuối năm 2000, bình quân mỗi
phiên giao dịch tỷ giá tăng từ 5 đồng đến 7 đồng/USD và tỷ giá trên ba thị trường đã tăng


19
so với đầu năm như sau: thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tăng 3,5%, thị trường mua
bán của các NHTM tăng 3,4%, thị trường tự do tăng 3,5%. Mặc dù tăng như vậy, nhưng
mức mất giá của đồng Việt Nam vẫn thấp hơn mức mất giá của các đồng tiền khác trong
khu vực so với đôla Mỹ. Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua, NHNN Việt Nam đã không
ngừng đẩy mạnh và phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế và
với Ngân hàng các nước, nhằm tranh thủ các nguồn tài trợ, các nguồn vốn vay từ các tổ
chức này nhằm: một mặt tăng cường vốn đầu tư để khôi phục và phát triển kinh tế trong
nước, mặt khác, đẩy nhanh quá trình thiết lập và hội nhập với cộng đồng tài chính, tiền tệ
quốc tế của Việt Nam.
Ngoài những thành tựu kể trên, quá trình thực thi CSTT của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam những năm qua còn góp phần đáng kể vào các quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo.


1.4. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thực thi CSTT ở Việt Nam (giai đoạn
1986-2000)
1.4.1 Về việc sử dụng các công cụ của CSTT.
- Những tồn tại của sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
+ Các TCTD chưa tham gia thường xuyên vào các phiên giao dịch, tạo ra quang cảnh khá
buồn tẻ ở từng phiên chợ.
+ Hàng hoá giao dịch ở thị trường mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có giá trị ngắn hạn và tập
trung vào hai loại là tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc. Đây là khó khăn lớn nhất của
NVTTM hiện nay.
+ Các phiếu đấu thầu lãi suất có tính cạnh tranh cao nên các NHTM và các TCTD nhỏ
không đủ tham gia, tạo ra tình huống chưa sôi động của thị trường.
+ Thị trường thứ cấp của thị trường mở ( mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD và khách
hàng của họ ) chưa phát triển, các thị trường liên ngân hàng chưa hoàn thiện gây ảnh
hưởng lớn đến NVTTM.
Với những tồn tại trên, do vậy mà những tác động và hiệu quả của NVTTM tới
CSTT chưa sâu rộng và thiết thực.

1.4.2. Những tồn tại của sử dụng lãi suất cho vay chiết khấu và DTBB.


20
Việc sử dụng công cụ lãi suất cho vay chiết khấu và DTBB của NHNN nhiều khi
không đạt hiệu quả như mong muốn (1991 đến 1999). Mặc dù NHNN đã ra những quy
chế đầy đủ và rõ ràng về quyền hạn, Nghĩa vụ của các TCTD trong việc gửi tiền dự trữ
tại NHNN, thế nhưng cho đến nay vẫn còn một số tổ chức tín dụng vẫn chưa phải thực
hiện DTBB, tức là trong lĩnh vực này, NHNN vẫn chưa thực sự tạo ra một “ sân chơi
bình đẳng” đối với các TCTD hoạt động trong nước. Mặt khác, liên tục trong những năm
1991-1999, NHNN liên tục giảm tỉ lệ DTBB và giảm lãi suất cho vay triết khấu đối với
các TCTD với mong muốn khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, sau
một loạt giải pháp nhằm “ nới lỏng “ CSTT, tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh

tế vẫn chưa có chuyển hướng mạnh mẽ.
- Những tồn tại của sử dụng lãi suất:
Những tháng đầu năm 1999, do đầu tư giảm sút, tăng trưởng kinh tế chững lại, để “ kích
cầu” NHNN Việt Nam quyết định giảm trần lãi suất đối với các TCTD. Nhưng sau nhiều
lần giảm lãi suất, đầu tư vẫn chưa tăng mạnh. Hơn nữa, việc NHNN liên tiếp điều chỉnh
lãi suất trong một khoảng thời gian ngắn (từ 1/06/1999 đến 4/09/1999 đã 3 lần giảm lãi
suất cho vay ), đã gây khó khăn cho các TCTD: chưa kịp ổn định việc hạ trần lãi suất lần
trước đã phải đối phó với lần sau. Từ đó nảy sinh hiện tượng: các TCTD thì e dè trong
việc huy động vốn (đặc biệt là vốn dài hạn), vì sợ lãi suất còn hạ nữa thì sẽ bị lỗ nhiều
hơn, còn về phía các tổ chức kinh tế thì cũng có ý chờ lãi suất hạ nữa thì mới xin vay
tiếp. Việc ban hành lãi suất cơ bản của NHNN Việt nam mới chỉ được thực hiện chưa đầy
một năm, vì thế mà những tồn tại của nó chưa bộc lộ ra bên ngoài và chưa được thống kê.
- Những tồn tại của sử dụng hạn mức tín dụng:
Công cụ hạn mức tín dụng chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế trong giai đoạn
đầu, nhưng trong tương lai sẽ không còn phù hợp nữa. Nếu trong thời kỳ đầu của quá
trình đổi mới, công cụ này có tác dụng tích cực đối với việc kiểm soát cung tiền nhằm
đẩy lùi lạm phát, thì nay, hiệu quả của nó đã giảm hẳn. Vì vậy từ quý II/1998, NHNN đã
bỏ việc ấn định hạn mức tín dụng đối với các TCTD.

1.4.3 Sự yếu kém của hệ thống Ngân hàng.
Với chính sách và thành tựu đổi mới nền kinh tế, Việt Nam đã xây dựng được
những cơ sở quan trọng cho một nền tiền tệ và một hệ thống Ngân hàng đang được nhanh
chóng đổi mới, có tính bước ngoặt phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong quá
trình đổi mới ngành Ngân hàng và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, hệ thống Ngân
hàng Việt Nam đã bộc lộ những yếu kém bên trong về khuôn khổ pháp lý, hiệu quả quản


21
lý và kinh doanh đòi hỏi phải có những biện pháp cải cách mạnh mẽ và hết sức cấp bách
không thể trì hoãn được.

Việc bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước của NHTW là một trong những nguyên
nhân làm cho lạm phát của Việt Nam tuy bị đẩy lùi nhưng vẫn còn tiềm ẩn với tỷ lệ cao.
Quá trình thực thi CSTT của hệ thống Ngân hàng đôi khi còn thiếu tính tự chủ …

2. Đánh giá tổng quát về chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2011
2.1 Một số kết quả đạt được của chính sách tiền tệ
Trong thời gian qua, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã
không ngừng được hoàn thiện. Điều hành chính sách tiền tệ được từng bước đổi mới
trong việc xác định mục tiêu chính sách tiền tệ, việc quản lý, vận hành cơ chế cung ứng
tiền, điều tiết tiền tệ thông qua việc lựa chọn sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền
tệ. Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ hướng vào việc ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm
phát, tạo môi trường ổn định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hệ
thống. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chuyển dần từ công cụ trực tiếp sang công cụ
gián tiếp để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ đã
được thiết lập và đang dần hoàn thiện theo thông lệ quốc tế. Công tác huy động vốn của
hệ thống Ngân hàng không ngừng được đẩy mạnh, đáp ứng nguồn vốn cho mục tiêu đầu
tư phát triển đất nước. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng tiếp tục tăng
trưởng góp phần tích cực thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.

2.2. Những hạn chế của chính sách tiền tệ
Bên cạnh những kết quả đạt được như đã đề cập ở trên, trong thời gian qua, điều
hành chính sách tiền tệ còn một số tồn tại, hạn chế sau:
- Mục tiêu cuối cùng chưa rõ ràng, chưa có lựa chọn ưu tiên: Từ khi thực hiện Luật Ngân
hàng Nhà nước đến nay, về cơ bản, có thể thấy rằng chính sách tiền tệ luôn theo đuổi
mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát và góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, Luật Ngân hàng Nhà nước không quy định rõ mục tiêu hàng đầu/mục
tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Do vậy, trên thực tế, việc điều hành chính sách tiền
tệ có khó khăn nhất định nhất là khi cần có sự đánh đổi giữa các mục tiêu kiểm soát lạm
phát và tăng trưởng kinh tế. Chính vì việc chưa xác định rõ các mục tiêu điều hành, nên

trong một số thời điểm đã tác động đến việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ


22
của Ngân hàng Nhà nước, chính sách tiền tệ đôi khi còn bị động và chậm phản ứng với
những thay đổi của thị trường.
- Quá nhiều mục tiêu trung gian: Ngân hàng Nhà nước chưa xác định rõ ràng mục tiêu
trung gian nên trong thực tế, nên bên cạnh Tổng phương tiện thanh toán (M2)64 đóng vai
trò là mục tiêu trung gian, việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ nhiều lúc hướng
vào kiểm soát tín dụng, lãi suất thị trường và tỷ giá. Với việc chính sách tiền tệ hướng
vào nhiều mục tiêu trung gian như vậy nên nhiều khi việc điều hành CSTT còn bị động,
hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ chưa cao, điều tiết thị trường không đạt được mục
tiêu mong muốn.
- Ngân hàng Nhà nước chưa xác định rõ được cơ chế truyền dẫn các tác động của chính
sách tiền tệ: Việc xác định rõ cơ chế truyền dẫn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Cơ chế truyền dẫn rõ ràng cho phép Ngân hàng
Trung ương có các quyết sách đúng trong điều hành các công cụ CSTT để hướng tới mục
tiêu mong muốn. Trên thực tế, hiện nay Ngân hàng Nhà nước chưa có những phân tích
lượng hóa cụ thể mức độ tác động của sự thay đổi cung tiền của Ngân hàng Nhà nước
đến mục tiêu cuối cùng của CSTT, và sự thay đổi cung tiền này có tác động ở mức độ
nào đến tín dụng nền kinh tế, đến tổng phương tiện thanh toán, đến lãi suất hay tỷ giá....
Việc chưa xác định được cơ chế truyền dẫn đã hạn chế phần nào đến các quyết định của
Ngân hàng Nhà nước khi thị trường có những biến động.
- Hệ thống các tiêu chí tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự rõ ràng để truyền tải
tác động của các quyết định chính sách đến mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và
mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Cụ thể: Tác động của Tổng phương tiện thanh
toán (M2) đến các biến số của nền kinh tế chưa rõ ràng. Diễn biến của tổng phương tiện
thanh toán M2 với ý nghĩa là mục tiêu trung gian không phù hợp với tốc độ tăng trưởng
kinh tế và mức lạm phát. Ngân hàng Nhà nước không hoàn toàn chủ động trong việc
kiểm soát M2, cũng như tốc độ tăng M2 thực tế; Tương quan giữa lượng tiền cung ứng

và lạm phát ở Việt Nam cũng không rõ ràng. Trên thực tế, chúng ta muốn kiểm soát lạm
phát nhưng ngay cả việc kiểm soát đối với lượng tiền cung ứng cũng khó khăn; Trong dự
báo lượng tiền tác động đến Tổng cung ứng tiền tệ (MS) và tín dụng nền kinh tế, Ngân
hàng Nhà nước coi Tổng khối lượng tiền cơ bản (MB) là mục tiêu hoạt động, song trong
quá trình điều hành chỉ thực hiện điều tiết một số nhân tố tác động đến MB, chưa điều tiết
toàn bộ MB. Thực chất chỉ điều hành khối lượng tiền Chính phủ cho phép cung ứng trong
năm, chưa điều hành mức tăng MB – lượng tiền thực sự cung ứng ra cho nền kinh tế (là
lượng tiền tác động đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát và ổn định hệ thống).


23
- Khả năng điều tiết các điều kiện thị trường như cung tiền, lãi suất còn hạn chế, hiệu quả
chưa cao, do Ngân hàng Nhà nước chưa kiểm soát được toàn bộ các luồng tiền tệ trong
nền kinh tế như luồng ngoại tệ ra/vào đất nước, hoạt động cho vay của các tổ chức tài
chính khác, các khoản thu chi ngân sách và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chưa đạt hiệu quả cao do việc lựa chọn, sử
dụng, xác định chức năng cơ bản của từng công cụ chính sách tiền tệ để điều hành phù
hợp với mục tiêu hoạt động còn hạn chế. Điều hành cung ứng tiền còn bị động bởi việc
cung ứng tiền cho các mục tiêu chỉ định của Chính phủ. Việc lựa chọn lãi suất chủ đạo và
xây dựng cơ chế điều hành lãi suất còn đang ở giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước còn mang dấu ấn hành
chính. Điều này được minh chứng rõ nhất thông qua các xử lý thắt chặt tiền tệ để chống
lạm phát trong những tháng đầu năm 2008, những tháng cuối năm 2010 và từ năm 2011
đến nay thông qua việc áp dụng các mức trần lãi suất huy động và cho vay.
- Chính sách tiền tệ chủ yếu còn mang tính ngắn hạn. Mặc dù cũng có các Kế hoạch hoạt
động ngân hàng 5 năm, Chiến lược phát triển ngân hàng tầm nhìn 10 năm, nhưng các
định hướng dài hạn có tính chiến lược thực sự về điều hành chính sách tiền tệ vẫn chưa
được xây dựng một cách rõ ràng, khoa học trên cơ sở các phân tích định lượng do hệ
thống thông tin, cơ sở dữ liệu chưa hoàn thiện.


2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ
- Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước với vai trò là Ngân hàng Trung ương còn hạn
chế.
- Thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu phát triển ở mức độ thấp, thiếu năng động, thiếu
tính linh hoạt, chưa phản ánh được cung, cầu vốn, các công cụ thị trường còn rất ít và sử
dụng không hiệu quả nên hạn chế khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
thông qua các công cụ chính sách tiền tệ. Thị trường tiền tệ còn có sự phân tách, chưa có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng. Đồng thời, thái độ và khả năng liên kết hệ
thống của các TCTD để hỗ trợ nhau đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, thậm chí một số
ngân hàng lợi dụng lúc khó khăn để cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao. Vì
vậy, vào một số thời điểm, vốn khả dụng xét trên toàn hệ thống dư thừa, về nguyên tắc,
Ngân hàng Nhà nước cần thu hút tiền về. Nhưng trên thực tế, NHNN vẫn phải hỗ trợ vốn
cho một số TCTD để đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ. Điều này đã làm cho NHNN gặp
khó khăn khi thực hiện vai trò điều tiết cuối cùng trên thị trường. Nói cách khác, thị
trường tiền tệ chưa đảm nhiệm có hiệu quả là phương tiện để Ngân hàng Nhà nước điều


24
chỉnh tổng lượng tiền tệ trong nền kinh tế, chưa tạo ra khả năng thanh toán cho các doanh
nghiệp, lãi suất trên thị trường tiền tệ chưa thể sử dụng làm lãi suất tham khảo để định giá
các tài sản nợ khác. Nguyên nhân của thực trạng trên là do hệ thống thông tin giữa các cơ
quan quản lý nhà nước với nhau, giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh
nghiệp còn nhiều bất cập, qua đó ảnh hưởng nhiều đến các quyết định chính sách, đến
điều tiết thị trường tiền tệ. Cơ sở pháp lý cho các công cụ thị trường hoạt động còn chưa
được ban hành đầy đủ. Thiếu các quy định để tăng cường tính thanh khoản của các giấy
tờ có giá và hạn chế các ngân hàng thương mại phát hành các công cụ mới. Trình độ quản
trị của một số ngân hàng thương mại còn hạn chế. Thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng còn thiếu các công cụ và những công cụ hiện có cũng chưa hoàn chỉnh.
Thị trường trái phiếu Chính phủ chưa tạo được đường cong lãi suất chuẩn để làm cơ sở
xác định các mức lãi suất cho các tài sản tài chính khác.

- Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bước vào hội nhập còn hạn chế về khả năng
quản trị rủi ro, quản lý tài sản có - tài sản nợ. Các ngân hàng thương mại đang trong giai
đoạn cơ cấu lại, có sự chênh lệch lớn về qui mô, chất lượng tài sản, năng lực tài chính và
khả năng cạnh tranh; khả năng thích ứng với sự biến động của thị trường còn yếu, đã làm
hạn chế hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Các TCTD chưa thực sự quan tâm đến
công tác quản lý thanh khoản, chưa sở hữu hoặc sở hữu không nhiều các giấy tờ có giá
làm dự trữ thanh khoản, một số TCTD sử dụng vốn ngắn hạn thậm chí vay vốn trên thị
trường liên ngân hàng để cho vay nền kinh tế. Vì vậy, khi thị trường có biến động, các
TCTD này dễ gặp khó khăn về thanh khoản. Trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa có sự
luân chuyển vốn thông suốt, thực trạng trên cũng làm hạn chế nhất định đến khả năng
điều tiết tiền tệ của NHNN thông qua công cụ CSTT.
- Năng lực tài chính của các TCTD còn hạn chế, các TCTD vẫn đang trong quá trình cơ
cấu lại và triển khai dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Việc quản lý vốn tập trung
trực tuyến trong hệ thống còn khó khăn. Nhiều TCTD chưa thực hiện được việc theo dõi,
phân tích luồng luân chuyển vốn theo từng kỳ hạn, nên năng lực quản lý vốn còn hạn chế.
Quản trị kinh doanh, khả năng thích ứng với sự biến động của thị trường còn nhiều bất
cập; mục tiêu kinh doanh quá chú trọng về quy mô và lợi nhuận, coi nhẹ và chưa chấp
hành nghiêm túc các quy định đảm bảo cho an toàn thanh toán. Các TCTD cổ phần mới
chuyển từ địa bàn nông thôn lên, có quy mô nhỏ, đội ngũ cán bộ chưa chuyên nghiệp,
nhưng đặt mục tiêu tăng trưởng kinh doanh vượt quá khả năng quản trị kinh doanh và
chất lượng nguồn nhân lực, có nguy cơ rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro về thanh khoản, gây
biến động trên thị trường tiền tệ.


25
- Nền kinh tế còn tình trạng Đô la hóa, vàng hóa đã hạn chế tính hiệu quả của việc can
thiệp vô hiệu của Ngân hàng Nhà nước. Khi luồng vốn nước ngoài vào nhiều, vượt quá
nhu cầu tài trợ thâm hụt cán cân vãng lai, tạo một lượng lớn dư cung ngoại tệ trên thị
trường, NHNN đã tăng cường mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, điều này
đồng nghĩa với việc đưa đồng nội tệ ra. Năm 2007, khi dự trữ ngoại hối được tích lũy gấp

hai lần so với mức dự trữ ngoại hối vào cuối năm 2006, NHNN đã thực hiện can thiệp vô
hiệu thông qua thị trường mở và đã trung hòa khoảng 90% lượng tiền đưa ra. Tuy nhiên,
số liệu tiền tệ cho thấy, năm 2007, M2 vẫn tăng tới 46% và tín dụng tăng trên 50% so với
cuối năm 2006, điều này chứng tỏ khi nền kinh tế còn tình trạng Đô la hóa thì khả năng
kiểm soát tiền tệ khó khăn hơn nhiều.
Tăng trưởng cung tiền, tín dụng và lạm phát, 2000-2012

(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác chưa chặt chẽ, còn
thiếu một hệ thống thông tin kết nối giữa bộ phận dự báo thị trường và các Bộ, ngành
khác. Sự phối hợp với các Bộ, ngành để dự báo về kinh tế vĩ mô, luồng vốn đầu tư nước
ngoài làm chưa tốt. Hệ thống thông tin phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu và
chưa kịp thời. Trong thời gian gần đây, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành đã được cải thiện
hơn nhưng vẫn chưa thực sự đồng bộ. Sự hạn chế trong trao đổi thông tin giữa các Bộ,
ngành quản lý kinh tế vĩ mô như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Công


×