Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Vận dụng lý luận tiền lương của Mác để xác định những quan điểm có tính nguyên tắc trong xây dựng chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.64 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thu nhập là một yếu tố quan trọng đối với ngành lao động. Một trong
những thành phân chủ yếu của thu nhập là tiền lương. Có thể nói tiền lương là
điều kiện đầu tiên ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn công việc, lựa chọn cơ
quan, nơi làm việc của người lao động; cũng như sự hăng say, nhiệt tình, khả
năng sáng tạo người lao động.
Đảng và Nhà nước đã ln có sự thay đổi các chính sách phù hợp nhằm
ngày càng cải thiện mức lương cũng như các thu nhập khác cho người lao động.
Chính các doanh nghiệp, các cơ quan, những nhà quản trị cũng coi thu nhập của
người lao động là một chiến lược cần bàn tới.
Xuất phát từ bối cảnh đó em chọn đề tài: "
Vận dụng lý luận tiền lương của
Mác để xác định những quan điểm có tính ngun tắc trong xây dựng chính
sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay"
.
Kết cấu của đề án gồm 3 phần
I.

Lý luận tiền lương của trường phái cổ điển Anh

II.

Lý luận tiền lương của Mác

III. Vận dụng lý luận tiền lương của Mác để xác định những quan điểm có
tính ngun tắc trong xây dựng chính sách lương ở nước ta hiện nay.

1


I. LÝ LUẬN TIỀN LƯƠNG CỦA TRƯỜNG PHÁI CỔ ĐIỂN


ANH

Trường phái Cổ điển Anh đã phát hiện ra nhiều điểm mới trong việc phân
tích bản chất của tiền lương và đặt nền móng đầu tiên cho lý thuyết giá trị lao
động. Dựa trên những phát hiện này, Mác đã xây dựng và phát triển lý luận tiền
lương của mình.
Từ giữa thế kỷ 17, William Petty đã cho rằng tiền lương là giá trị tư liệu
sinh hoạt cần thiết tối thiểu để người lao động có thể ni sống bản thân và gia
đình của mình. Đây là quan điểm hồn tồn đúng. Tuy nhiên, do chưa phân biệt
được lao động và sức lao động nên ông đã coi lao động là hàng hoá và ngộ nhận
tiền lương là giá cả của lao động. Vì vậy, ơng đã đưa ra quy luật sắt về tiền
lương, nghĩa là giới hạn cao nhất của tiền lương là mức tư liệu sinh hoạt tối
thiểu để ni sống người cơng nhân. Ơng cho rằng tiền lương cao thì cơng nhân
thích uống rượu, hay bỏ việc, cịn lương thấp thì cơng nhân phải tích cực lao
động, gắn bó với nhà tư bản hơn.
Đến giữa thế kỷ 18, Adam Smith, một đại diện tiêu biểu khác của trường
phái Cổ điển Anh đã đưa ra những quan điểm đúng đắn hơn về tiền lương. Ông
đã tiến bộ hơn William Petty vì ơng khơng chỉ phân tích được tiền lương là giá
trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân và gia đình mà cịn khẳng định tiền
lương là một phần trong giá trị hàng hố do người cơng nhân tạo ra và ơng đã
tìm ra được những yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương là: trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, đặc điểm và điều kiện lao động, trình độ chun mơn
thành thạo của người lao động. Cũng chính vì điểm này mà ông ủng hộ quan
điểm "Tiền công không thể hạ thấp hơn mức tối thiểu" và ông tán thành "Tiền
công cao ở mức không phải giới hạn thấp", theo ông tiền lương cao sẽ tạo khả
năng tăng trưởng kinh tế và mức lương cao tương đối là nhân tố kích thích công
2


nhân tăng năng suất lao động và nhà tư bản khơng sợ gì việc trả lương cao cho

cơng nhân vì cơ chế của thị trường lao động sẽ điều chỉnh mức tiền lương thích
ứng. Ngồi ra, Adam Smith cịn tiến bộ ở chỗ ông đã phân biệt được tiền lương
danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương thực tế là lượng tư liệu sinh hoạt
thực tế mà người công nhân có thể mua được cịn tiền lương danh nghĩa được
biểu hiện bằng một số tiền nhất định. Trên thực tế, tiền lương danh nghĩa và tiền
lương thực tế có thể không trùng với nhau do lạm phát, biến động giá cả hàng
hoá trên thị trường,... Tuy nhiên, lý luận của Adam Smith bị hạn chế ở chỗ ông
cho rằng tiền lương là thu nhập do lao động mang lại, điều này đồng nghĩa với
việc cho rằng tiền lương là giá cả của lao động mà theo như Mác chứng minh
sau này thì tiền lương là giá cả của sức lao động chứ không phải là giá cả của
lao động.
Cuối thế kỷ thứ 18, David Ricardo cũng dựa trên cơ sở lý luận giá trị của
lao động để phân tích tiền lương, lợi nhuận và địa tơ. Ơng khẳng định giá trị
được tạo ra gồm tiền lương và lợi nhuận, lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngồi
tiền cơng vì giá trị do cơng nhân tạo ra lớn hơn tiền công. Như vậy, ông đã tiến
xa hơn Adam Smith khi cho rằng lợi nhuận là lao động không được trả cơng.
Ngồi ra, ơng cịn tìm ra được mối quan hệ giữa cung, cầu lao động và tiền
lương, khi tiền lương trong một ngành nào đó ở mức cao thì cung lao động trong
ngành đó tăng lên vượt quá cầu lao động của ngành do đó lương lại có xu hướng
giảm. Có thể nói David Ricardo đã có rất nhiều đóng góp trong lý luận về tiền
lương nhưng ơng vấn mắc phải sai lầm giống như những đại diện khác của
trường phái Cổ điển Anh đó là việc cho rằng tiền lương là giá cả của lao động
xuất phát từ sự nhầm lẫn giữa sức lao động và lao động. Tuy nhiên, ông đã nhận
thấy điều vô lý này mặc dù chưa giải thích được.

II. LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG CỦA MÁC
Mác đã phát triển có kế thừa lý luận về tiền lương của trường phái Cổ
điển Anh để hoàn thiện lý luận này. Mác cũng trình bày tiền lương trên cơ sở lý
3



luận giá trị - lao động. Ông phê phán quan điểm của Trường phái Cổ điển Anh
cho rằng tiền lương là giá cả của lao động vì quan điểm này xố đi bản chất bóc
lột của chủ nghĩa Tư bản. Ông đã chứng minh được tiền lương không phải là giá
cả của lao động bởi nếu điều này là đúng thì nó sẽ khơng phù hợp với quy luật
trao đổi ngành giá và quy luật giá trị thặng dư. Mác khẳng định tiền lương là giá
cả của sức lao động chứ không phải là giá cả của lao động và sức lao động có
thể coi là một thứ hàng hố đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị. Sức lao động là tồn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong
cơ thể con người và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết của
sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao
động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định:
 Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện này
người lao động mới bán sức lao động của mình để kiếm sống.
 Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động
của mình nghĩa là tự do sở hữu năng lực của mình.
Hàng hố sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng
giống như những hàng hố thơng thường khác. Giá trị hàng hoá sức lao động
được quyết định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động, nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực của con
người sống. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người cơng nhân phải tiêu dùng
một số tư liệu sinh hoạt nhất định. Bởi vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống người cơng nhân và gia đình
anh ta, đây chính là giá trị của hàng hoá sức lao động. Giá trị sử dụng của hàng
hoá là khả năng thoả mãn nhu cầu của người mua và nó chỉ thể hiện trong quá

4



trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình người công nhân tiến hành lao
động.
Mác chỉ ra bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là giá cả của sức
lao động, là một phần trong tổng sản phẩm mà lao động của người cơng nhân
tạo ra. Ơng cịn nêu rõ việc người cơng nhân nhận được tiền lương sau quá trình
lao động đã che đậy bản chất của tiền lương, khiến người ta lầm tưởng tiền
lương là giá cả của lao động mà nhà tư bản trả đủ cho cơng nhân. Điều này làm
xố đi bản chất bóc lột (phần giá trị thặng dư) của nhà tư bản.
Đồng thời Mác còn bác bỏ quan điểm cho rằng lao động là hàng hố và tiền
lương chính là giá cả của hàng hoá lao động bằng phương pháp phản chứng:
 Nếu lao động là hàng hố thì lao động phải tồn tại trước khi có quan hệ mua
bán giữa nhà tư bản và công nhân. Nhưng trên thực tế, q trình lao động chỉ
diễn ra sau khi có sự thoả thuận giữa nhà tư bản và người công nhân.

 Nếu lao động là hàng hố thì lao động phải có giá trị mà giá trị của hàng hố
được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hố đó.
Dùng lao động để đo giá trị của lao động là một điều luẩn quẩn.
Như vậy, lao động khơng phải là hàng hố và tiền lương khơng phải là giá
cả của lao động vì người cơng nhân khơng thể bán cái mà mình khơng có.

III. VẬN DỤNG LÝ LUẬN TIỀN LƯƠNG CỦA MÁC ĐỂ XÁC
ĐỊNH NHỮNG QUAN ĐIỂM CĨ TÍNH NGUN TẮC TRONG
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
1. Thực trạng của chính sách tiền lương ở nước ta
a. Nhận định chung về chính sách, chế độ tiền lương Nhà nước ta trước
tháng 9/1985
5



Chế độ tiền lương đến trước tháng 9/1985 là chế độ tiền lương được ban
hành năm 1960 và được bổ sung từ năm 1963 bằng chế độ cung cấp một số mặt
hàng thiết yếu định lượng theo tem phiếu. Nói cách khác lương mang tính chất
hiện vật. Đồng thời Nhà nước duy trì chế độ bán cung cấp về nhà ở, điện, nước
sinh hoạt. Hàng tháng cán bộ công nhân viên chỉ phải trả tiền nhà, điện nước
sinh hoạt bằng 1% - 3% - 5% tuỳ theo mức lương và chức vụ; đối với viên chức
3 trở lên được hưởng chế độ trang cấp một số đồ dùng sinh hoạt gia đình như
gường, tủ, bàn ghế…
Do đó giá cả sinh hoạt tăng lên, phần tiền lương danh nghĩa không tăng,
nên tiền lương thực tế của người lao động ngày càng giảm sút. Để giảm bớt một
phần khó khăn của người lao động, Nhà nước đã thực hiện cấp lương tạm thời
và trợ cấp khó khăn vào các thời điểm: Tháng 5/1981, 1/1983 và 9/1985, đồng
thời cũng giảm dần định lượng cung cấp cho Nhà nước khơng nắm được hàng
hố nên khơng có khả năng duy trì mức cung cấp hàng hố như trước năm 1980.
Nhìn chung, chế độ lương trong thời kỳ này, vừa bằng tiền và hiện vật quá
thấp, vừa chắp vá và bình quân kéo dài quá lâu, nên gây nhiều tiêu cực, trong tổ
chức, quản lý lao động, trong lĩnh vực phân phối lưu thông, không thể phát huy
hết tiềm năng sáng tạo của những người lao động, cũng như các tập thể sản xuất.
b.Diễn biến quá trình điều chỉnh lương sau khi ban hành nghị định
235/HĐBT (1.9.1985)
Sau khi có Nghị định 235/HĐBT, Nhà nước tiếp tục có những biện pháp về
tiền lương cụ thể như sau:
Năm 1986: hai lần điều chỉnh tiền lương danh nghĩa bằng chế độ phụ cấp
đắt đỏ 15% và 40%. Ngoài ra, đã áp dụng trở lại chế độ bán 6 mặt hàng định
lượng (gạo, thịt, nước mắm, đường, chất đốt và xà phịng) theo giá thấp và theo
ba nhóm mức lương.
Năm 1987 trợ cấp thêm bằng 100% trên mức lương cấp bậc (chức vụ) từ
tháng 5 đến tháng 9/1987 điều chỉnh lại mức lương theo giá một mặt hàng tính


6


lương. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh hệ số điều chỉnh bằng 13 - 15 lần,
hành chính sự nghiệp bằng 10 - 68 lần, các lực lượng vũ trang bằng 11 - 51 lần.
Năm 1988 sau khi điều chỉnh thống nhất hệ số lương của công nhân viên
chức chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang lên 13 - 15 lần. Nhà nước còn thực
hiện 3 lần phụ cấp với mức 30%, 60%, 90% trên tiền lương đã tính lại theo hệ
số 13 - 15 lần. Đồng thời, tiếp tục duy trì 6 mặt hàng nhưng khơng bán theo giá
thấp mà chỉ để tính bù giá vào lương theo sát giá thị trường.
Năm 1989, tiền lương, trợ cấp, sinh hoạt phí của người hưởng lương và đối
tượng chính sách xã hội được tính lại trên cơ sở mức lương tối thiểu là
22.500đ/tháng theo quyết định số 203/HĐBT ngày 28/12/1989. Đối với các đơn
vị sản xuất kinh doanh thì tiền lương tính lại chỉ làm thơng số tính đơn gián tiền
lương theo sản phẩm hoặc dịch vụ và tính nộp bảo hiểm xã hội cịn quỹ lương
của đơn vị, mức thu nhập thực tế của mỗi cán bộ công nhân viên cũng như
nguyên tắc phân phối và hạch toán giá thành vẫn thực hiện theo đúng các Quyết
định 217/HĐBT và Nghị định 50/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng.
Năm 1990 bù giá những mặt hàng điều chỉnh giá (điện, dầu thắp sáng), bổ
sung sửa đổi một số chế độ qúa bất hợp lý tại Nghị định 235/HĐBT; bổ sung
một số chế độ đối với một số đối tượng chính sách xã hội.
c. Sự đổi mới trong cơ chế tiền lương
Từ khoảng thời gian này về sau, Nhà nước đã kịp thời có những biện pháp
thay đổi. Về cơ chế của chính sách tiền lương, Nhà nước trực tiếp định mức lao
động, định mức tiền lương, duyệt quỹ lương, quyết định thang lương, bảng bậc
lương, bậc lương cụ thể cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện.
Chuyển sang một cơ chế mới, trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất
kinh doanh chỉ còn là thơng số để tính tốn, Nhà nước chỉ thống kê tối thiểu
khơng khống chế thu nhập tối đa.
Trong q trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của

Nhà nước, có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh
của các đơn vị kinh tế cơ sở, có lĩnh vực chuyển sang chậm như pháp luật nói
7


chung, có cơ chế chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát và điều tiết tiền lương,
thu nhập của Nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyển sang kinh doanh v.v..
Việc khơng ngừng đổi mới, hồn thiện chính sách tiền lương là một bộ
phân quan trọng hàng đầu trong hệ thống các quan hệ phân phối thu nhập ở
nươc ta hiện nay. Sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đổi mới đã đặt con
người vào vị tí trung tâm. Họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo của mình,
khi lợi ích kinh tế của họ được đảm bảo trước hết là tiền lương và nói rộng hơn
là thu nhập. Chính vì vậy, để phát huy hết khả năng sáng tạo của nhân tố con
người trong nền kinh tế, tất yếu phải giải quyết tốt vấn đề tiền lương - với tư
cách là một trong những hình thức thu nhập của nước ta hiện nay.
2. Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách tiền lương của Việt Nam
Trước khi xác định những nguyên tắc cơ bản trong chính sách tiền lương
của Việt Nam, chúng ta cần phải phân tích khái qt q trình tái sản xuất sức
lao động trong mối quan hệ với quá trình tái sản xuất của cải vật chất cho xã hội.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm 4 giai đoạn chính: sản xuất - phân phối lưu thông - tiêu dùng, trong đó:
- Sản xuất là khâu đầu tiên, là khâu cơ bản, quyết định nhất vì nếu khơng có
khâu này sẽ khơng có các khâu sau. Hơn nữa, sản xuất sẽ quyết định phương
thức và đặc điểm của quá trình phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Cùng với
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sản xuất ngày càng phát triển do đó sức
lao động cần cho khâu sản xuất cũng ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng. Để đảm bảo cung cấp đủ lao động cho sản xuất thì quá trình tái sản
xuất sức lao động đang chuyển dần từ lao động thủ cơng sang lao động cơ
khí, tự động hoá và đặc biệt là lao động tri thức.
- Tuy nhiên, suy cho cùng sản xuất là để tiêu dùng. Bởi vậy, tiêu dùng là khâu
kết thúc, là mục đích của sản xuất, tiêu dùng có tác động tích cực trở lại đối

với sản xuất. Tiêu dùng nhiều sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, ngược lại tiêu
8


dùng ít sẽ làm thu hẹp sản xuất. Trong tiêu dùng của xã hội, tỷ trọng sản
phẩm dùng để tái sản xuất sức lao động cho người dân rất cao và đang tiếp
tục tăng lên. Bởi vậy, nếu người lao động càng tiêu dùng nhiều thì nền sản
xuất, nền kinh tế ngày càng được mở rộng và phát triển. Đây cũng chính là lý
do tại sao các nước phải áp dụng các biện pháp kích thích tiêu dùng của
người dân.
- Phân phối và lưu thông là hai khâu kế tiếp nhau, nối liền giữa sản xuất và
tiêu dùng. Phân phối và lưu thơng có tác động rất lớn tới khâu sản xuất nói
riêng và tới tồn bộ q trình tái sản xuất xã hội nói chung. Nếu tổng sản
phẩm xã hội được phân phối một cách hợp lý đảm bảo cho người lao động có
thể tái sản xuất sức lao động của mình một cách liên tục thì số lượng và chất
lượng sức lao động cung cấp cho quá trình sản xuất sẽ ngày càng tăng. Hơn
nữa, việc phân phối sản phẩm hợp lý, lưu thông thuận tiện sẽ làm tăng nhu
cầu, tăng tiêu dùng của người lao động từ đó thúc đẩy tốc độ và quy mơ tái
sản xuất mở rộng của cải vật chất cho xã hội.
Như vậy, cùng với quá trình tái sản xuất tổng sản phẩm xã hội, sức lao
động của xã hội cũng cần phải được tái tạo. Do đó, để q trình sản xuất tiếp
diễn liên tục thì sức lao động cũng cần được tái tạo không ngừng với số lượng
và nhất là chất lượng ngày càng tăng. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi
chúng ta thiết lập một cơ chế phân phối sản phẩm xã hội hợp lý mà trong đó
chính sách về tiền lương đóng vai trị hết sức quan trọng. Dưới đây là một số
nguyên tắc cơ bản trong xây dựng chính sách tiền lương hợp lý ở nước ta:
Nguyên tắc 1 tiền lương phải đảm bảo cho tái sản xuất sức lao động
Theo như lý luận về tiền lương của Mác thì tiền lương phải tương xứng
với lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người cơng nhân và gia đình
anh ta. Lượng tư liệu sinh hoạt này bao gồm cả những tư liệu dùng để đáp ứng

các nhu cầu thiết yếu như: ăn, ở, mặc,... và cả những tư liệu đáp ứng nhu cầu
giải trí, nâng cao trình độ chun mơn v.v. Hiện nay, hệ thống tiền lương ở Việt
9


Nam chưa được xây dựng dựa trên nguyên tắc này. Bởi vậy, cán bộ, công chức
Nhà nước chưa thể trang trải cho cuộc sống vật chất và tinh thần tối thiểu của
gia đình mình. Đây cũng chính là lý do khiến cho nhiều cán bộ, công chức
không chú tâm vào cơng việc được giao vì họ cịn phải làm thêm để ni sống
gia đình đồng thời nó cũng góp phần làm cho hoạt động tham ô, tham nhũng
trong bộ máy Nhà nước ngày càng tăng.
Để chính sách tiền lương mới có thể phát huy tác dụng thì chính sách này
cần phải xây dựng dựa trên nguyên tắc tiền lương phải phản ánh đúng bản chất
của nó, nghĩa là tiền lương phải đảm bảo cho người lao động có thể tái sản xuất
sức lao động với số lượng và chất lượng ngày càng tăng thông qua việc không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Tiền lương ở
đây phải hiểu là tiền lương thực tế, nó khơng chỉ phụ thuộc vào số tiền danh
nghĩa mà cịn phụ thuộc vào giá cả của tư liệu tiêu dùng và của các dịch vụ cần
thiết mà người lao động sử dụng. Mối quan hệ giữa tiền lương thực tế và tiền
lương danh nghĩa được thể hiện qua công thức:
ITLDN
ITLTT = ---------IGC

Theo công thức trên, khi giá cả tăng lên thì tiền lương thực tế sẽ giảm đi.
Bởi vậy, một chính sách tiền lương hợp lý cũng cần phải tính đến sự điều chỉnh
tiền lương danh nghĩa khi có lạm phát để đảm bảo tiền lương thực tế được duy
trì ở mức thích hợp. Điều này có thể thực hiện được thông qua điều chỉnh mức
lương tối thiểu hoặc điều chỉnh các khoản phụ cấp như: phụ cấp lạm phát, phụ
cấp chi phí phát sinh v.v.
Nguyên tắc 2 tiền lương vận động chịu sự chi phối của cơ chế thị trường

10


Việc xây dựng tiền lương theo những Thang, Bảng cố định như hiện nay
là bất hợp lý vì tiền lương phải tương xứng với hao phí lao động xã hội của
người lao động mà mức hao phí ở mỗi người khơng giống nhau, nó phụ thuộc
vào trình độ chun mơn, sự cần cù của mỗi người. Bởi vậy, nếu áp dụng cùng
một bậc lương cho những người có trình độ khác nhau, có mức cống hiến khác
nhau là hồn tồn sai lầm.
Hơn nữa, tiền lương không thể vận động tách rời quan hệ cung cầu về lao
động trên thị trường. Nghĩa là khi nhu cầu lao động trong một ngành lớn hơn
cung lao động cho ngành đó thì các nhà sản xuất sẵn sàng trả lương cao hơn hao
phí lao động xã hội mà người công nhân bỏ ra, điều này khiến cho những người
lao động ở các ngành khác sẽ chấp nhận tham gia quá trình đào tạo lại để có thể
làm việc trong ngành có thu nhập cao hơn. Ngược lại, khi sản xuất trong một
ngành nào đó giảm sút, nhu cầu lao động trong ngành giảm đi thì mức lương của
người lao động trong ngành có thể thấp hơn hao phí lao động mà họ đã bỏ ra, do
vậy một bộ phận người lao động của ngành sẽ tìm kiếm việc làm ở những ngành
có mức lương cao hơn.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể rút ra kết luận tiền lương
phải do thị trường quyết định dựa trên mức hao phí lao động xã hội và quan hệ
cung cầu lao động. Có như vậy thì lao động xã hội mới được sử dụng một cách
hợp lý, người lao động mới có động cơ làm việc tích cực và khơng ngừng nâng
cao trình độ chun môn.
Nguyên tắc 3 tiền lương phải linh hoạt
Tiền lương là một phạm trù lịch sử nên nó có thể thay đổi giữa các giai
đoạn lịch sử nhất định, thay đổi giữa các khu vực địa lý. Vì tiền lương là giá cả
của hàng hoá sức lao động mà giá trị của loại hàng hố đặc biệt này chính là giá
trị của các tư liệu mà người công nhân dùng để tái sản xuất sức lao động của
mình. Các tư liệu này bao gồm thức ăn, quần áo, nhà ở, các dịch vụ giải trí và

nhu cầu tiêu dùng các tư liệu này chứa đựng yếu tố lịch sử và tinh thần. Ở những
11


giai đoạn lịch sử khác nhau hoặc ở những vùng có điều kiện địa lý khác nhau thì
cơ cấu và quy mô nhu cầu tiêu dùng tư liệu sinh hoạt cũng khác nhau. Bởi vậy,
chúng ta không nên xây dựng một hệ thống lương cứng nhắc khơng có tính linh
hoạt khi điều kiện tự nhiên và xã hội đã thay đổi. Đồng thời cũng không nên áp
dụng mức lương giống nhau ở các vùng có phong tục tập quán, có điều kiện tự
nhiên khác nhau.
Hơn nữa, việc áp dụng chính sách tiền lương linh hoạt sẽ giúp Nhà nước
thực hiện được những chủ chương, đường lối về phát triển kinh tế. Ví dụ: để
khuyến khích những ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, những ngành
trọng điểm, chúng ta có thể đưa ra mức lương cao trong ngành, thậm chí có thể
cao hơn so với hao phí mà người lao động bỏ ra hoặc để phân bổ lực lượng lao
động cân đối giữa các vùng, miền, Nhà nước có thể áp dụng mức lương cao cho
những người làm việc tại các vùng đang thiếu nhân lực, những vùng xa xôi, hẻo
lánh...
Nguyên tắc 4 hệ thống tiền lương phải tạo động lực cho đầu tư phát triển
nguồn nhân lực
Theo lý luận của Mác thì trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức
tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn, lao động phức tạp là bội số của
lao động giản đơn. Do đó, để đảm bảo sự công bằng, mức lương trả cho lao
động phức tạp phải cao hơn so với mức lương trả cho lao động giản đơn. Điều
này có thể thấy rõ ở những nước phát triển nơi mà lương của những giáo sư,
những chuyên gia tin học cao hơn rất nhiều so với lương của công nhân, nông
dân.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri
thức, Việt Nam cần phải phát triển được nguồn nhân lực theo hướng tăng tỷ
trọng lao động phức tạp, lao động trí thức, giảm tỷ trọng lao động thủ cơng giản

đơn. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi xây dựng thành công một
hệ thống tiền lương trong đó lao động trí óc được đánh giá đúng mức nhằm
12


khuyến khích thanh thiếu niên học tập và làm việc trong những ngành khoa học
kỹ thuật hiện đại. Hiện nay, quan điểm tiền lương thấp đã khơng cịn phù hợp
bởi suy cho cùng muốn sức lao động của người công nhân được tái sản xuất với
số lượng và chất lượng ngày càng tăng thì tiền lương khơng những phải đảm bảo
ni sống được người cơng nhân và gia đình anh ta mà cịn phải đảm bảo cho
người cơng nhân có thể trang trải các chi phí học tập, nâng cao trình độ và tay
nghề.
Đầu tư cho nguồn nhân lực chính là đầu tư mang tính chiến lược vì con
người chính là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong phát triển kinh
tế ở mỗi quốc gia. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chỉ có thể thực hiện được
thông qua việc trả lương tương xứng với hao phí lao động xã hội mà người lao
động đã bỏ ra. Bởi vậy, việc xây dựng chính sách tiền lương hợp lý đang là
nhiệm vụ hết sức cấp thiết ở nước ta hiện nay./.

13


MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu........................................................................................1
I. Lý luận tiền lương của trường phái cổ điển Anh...........................2
II. Lý luận về tiền lương của Mác.....................................................4
III. Vận dụng lý luận tiền lương của Mác để xác định những quan điểm có tính
ngun tắc trong xây dựng chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay


6

1. Thực trạng của chính sách tiền lương ở nước ta...........................6
a. Nhận định chung về chính sách, chế độ tiền lương Nhà nước ta trước tháng
9/1985................................................................................................6
b. Diễn biến quá trình điều chỉnh lương sau khi ban hành nghị định 235/HĐBT
(1.9.1985)..........................................................................................7
c. Sự đổi mới trong cơ chế tiền lương...............................................8
2. Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách tiền lương của Việt Nam
Nguyên tắc 1 tiền lương phải đảm bảo cho tái sản xuất sức lao động

9

10

Nguyên tắc 2 tiền lương vận động chịu sự chi phối của cơ chế thị trường

12

Nguyên tắc 3 tiền lương phải linh hoạt...........................................13
Nguyên tắc 4 hệ thống tiền lương phải tạo động lực cho đầu tư phát triển nguồn
nhân lực...........................................................................................14

14



×