Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

chính sách tiền tệ ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.93 KB, 27 trang )

LỚP: K12402A
NHÓM: 4


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CỦA CÁC THÀNH VIÊN
CÔNG VIỆC

CHỊU TRÁCH NHIỆM

MÃ SỐ SINH VIÊN

1. Tìm hiểu chương 1

Chính sách tiền tệ
2. Tìm hiểu chương 2

Các công cụ chính
sách tiền tệ
3. Tìm hiểu chương 3

Thực trạng chính
sách tiền tệ tại Việt
Nam
4. Tổng hợp và trình

bày bài word
5. Chuẩn bị slide

powerpoint
6. Thuyết trình


2


Mục lục

CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
I. Khái niệm:
Chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền (money
supply) của cơ quan quản lý tiền tệ ( có thể là ngân hàng trung ương), một chính
sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng Trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các
công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu như: ổn định giá trị đồng tiền,
tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế…
Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà
ngân hàng nhà nước Việt Nam (ngân hàng Trung ương) thông qua các hoạt động
của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định.
Mặt khác, nó là một biện pháp quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài
chính vĩ mô của chính phủ.
Chính sách tiền tệ có thể được quyết định bởi chính phủ nếu NHTƯ
trực thuộc chính phủ hoặc có thể được thực hiện bởi NHTƯ nếu nó độc lập với
chính phủ.
Đặc trưng : Từ phần khái niệm trên có thể rót ra những đặc trưng cơ bản sau :
- Nó là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia .
Chính sách tài chính quốc gia bao gồm : chính sách tiền tệ và chính sách
tài khoá, mỗi chính sách đều có một vị trí và vai trò riêng, song chính sách tiền tệ
luôn được coi là trung tâm .
- Chính sách tiền tệ là công cụ thuộc tầm vĩ mô . Trong việc cố gắng
thực hiện các mục tiêu vĩ mô , Chính phủ cần phải sử dụng các công cụ
kinh tế vĩ mô , trong đó chính sách tiền tệ cũng là một trong số đó bởi nó
làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế ,từ đó tác động đến lãi

do đó , ảnh hưởng đến đầu tư .

suất và
3


- Mục tiêu tổng quát của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền quốc gia và góp
phần
thực
hiện
các
mục
tiêu


khác
- NHTW là người hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ
II. Mục tiêu:
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền.
Thông thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết
chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn
khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu
trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền.
Chính sách tiền tệ giữ một vai trò trực tiếp và gián tiếp trong những cố gắng
của chính phủ, nhằm mở rộng hoạt động kinh tế trong những thời kì thất nghiệp và
công suất dư thừa, và giảm bớt hoạt động đó trong những thời kì cầu quá lớn và
lạm phát. Mục tiêu của chính sách tiền tệ gồm: tỷ lệ việc làm cao, tăng trưởng kinh
tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định các thị trường tài chính, ổn định trên thị
trường ngoại hối.
Ảnh hưởng của CSTT chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ 6

tháng đến 2 năm. Sẽ là quá muộn và không hiệu quả nếu NHTW đợi các tín hiệu
phản hồi về giá cả, sản lượng, thất nghiệp để điều chỉnh các công cụ. Nhằm khắc
phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước thường xác định các chỉ tiêu cần
đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Các chỉ tiêu này thường chia
thành hai loại: mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
Mục tiêu trung gian là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục đích
cuối cùng của CSTT. Các chỉ tiêu thường được sử dụng làm mục tiêu trung gian là
tổng khối lượng tiền cung ứng (M1, M2 hay M3) hoặc mức lãi suất thị trường
(ngắn và dài hạn).
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của
công cụ CSTT.
Các chỉ tiêu này bao gồm: tổng dự trữ của các ngân hàng trung gian, lãi suất
ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, hoặc lãi suất tín phiếu kho bạc. Bằng việc
đạt được mục tiêu về các chỉ tiêu này, NHTW có thể đạt được mục tiêu trung gian
và do đó mục tiêu cuối cùng sau một khoảng thời gian nhất định. Sự phản ứng
nhanh chóng và chính xác của các chỉ tiêu này mỗi khi NHTW điều chỉnh CSTT
4


giúp cho NHTW có thể kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định trong điều hành
CSTT hàng ngày.

III. Nguyên tắc hoạch định chính sách:
Chúng ta giả định rằng nền kinh tế đang trong tình trạng không ổn định: hoặc
suy thoái với mức GDP thấp và tỷ lệ thất nghệp cao, hoặc GDP tăng quá cao và tỷ
lệ lạm phát ở mức trầm trọng
Khi nền kinh tế suy thoái (Yrộng để tăng lượng cung tiền. Chính sách tiền tệ mở rộng còn gọi là chính sách
tiền tệ nới lỏng là chính sách tăng cung ứng tiền vào lưu thông .Khi mà nền kinh tế
có dấu hiệu suy thoái thì Ngân hàng TW sẽ hoạch định chính sách này để: khuyến

khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm… Lượng cung tiền tăng sẽ
làm lãi suất giảm, do đó đầu tư tăng, dẫn đến tổng cầu tăng và sản lượng quốc
gia tăng, mức nhân dụng tăng, mức giá chung tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.
M1 r I ADY
Khi nền kinh tế lạm phát cao (Y>Y P): NHTW có thể thực thi chính sách tiền tệ
thắt chặt để giảm lượng cung tiền. Chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách tiền
tệ thu hẹp lượng tiền cung ứng,dẫn đến trong luu thông khan hiếm tiền. Lượng
cung tiền giảm nên lãi suất tăng, do đó đầu tư giảm, dẫn đến tổng cầu giảm và
sản lượng quốc gia giảm, mức nhân dụng giảm, mức giá chung giảm, tỷ lệ thất
nghiệp tăng lên.
M1 r I ADY
Tuy nhiên nếu áp dụng chính sách này trong thời gian dài sẽ làm cho trong
lưu thông khan hiếm tiền>lãi suất tăng>hạn chế đầu tư>sản xuất giảm>việc làm
giảm>thu
nhập
giảm>kinh
tế
suy
thoái....
Tóm lại tùy từng điều kiện cụ thể của nền kinh tế mà áp dụng các chính sách hợp
lý.
IV. Định lượng cho chính sách tiền tệ:

Trong đó: , k : số nhân tổng cầu
5


cầu tiền biên theo lãi suất,
đầu tư biên theo lãi suất
V. Ưu nhược điểm của chính sách tiền tệ:

Ưu điểm:
Ưu đểm đầu tiên có thể kể đến của chính sách tiền tệ là kho6g có độ trễ
trong, (độ trễ trong là khoảng thời gian giữa lúc từ bắt đầu quyết định thay đổi các
chính sách đền lúc kết thúc các biện pháp) khác với độ trễ trong của chính sách
tài khóa khi thay đổi chính sách thông qua việc điều chỉnh các công cụ thướng
phải được sự chấp thuận từ phía các nhà lập pháp thì sự thay đổi chính sách tiền
tệ thường được thực thi rất nhanh.
Không có tác động đẩy, khác với chính sách tài khóa tác động trực tiếp đến
sản lượng, sự nới lỏng tiền tệ là nguyên nhân làm lãi suất giảm chỉ có kích thích
đến sự gia tang đầu tư và các yếu tố khác nhạy cảm với lãi suất, từ đó dẫn đến
tang trưởng lãi suất.
Tác dụng của hệ số nhân tiền, đây là ưu điểm khá rõ rệt của chính sách tiền
tệ. Trong nhiều trường hợp, hệ số nhân tiền là ngòi nổ kích thích đến một chuổi
các hiện tượng trong đời sống kinh tế.
Nhược điểm:
Chính sách tiền tệ không phải luôn luôn có hiệu quả vì độ trễ ngoài kéo theo
sự phức tạp và khả năng tác động của chính sách tiền tệ, ngăn chặn sự thay đổi
trong cầu về hàng hóa hay tiền tệ:
Mức độ tác động của chính sách tiền tệ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của cầu
tiền đối với lãi suất (: khi lãi suất tăng lên (giảm xuống) 1%, sẽ làm lượng cầu tiền
giảm xuống (tăng lên) Lm đơn vị tiền.
Sự nhạy cảm của đầu tư đối với lãi suất (. Thông thường độ nhạy cảm này
cũng dao động theo theo tâm lý của các nhà đầu tư (đặc biệt đối với các nước
đang phát triển). Lòng tin của họ đối với các chính sách của chính phủ còn quan
trọng hơn bản thân của chính sách. Vẫn có trường hợp chính sách tiền tệ không
phát huy được tác dụng. Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế suy thoái, các doanh
nghiệp bi quan với những rủi ro, ngay khi lãi suất thấp họ cũng không giám đầu tư.

6



Ngược lại khi nền kinh tế lạm phát cao, các doanh nghiệp có thể sẵn sàng trả lãi
cao để tránh chi phí cao trong tương lai.
Khả năng lạm phát, một chính sách tiền tệ nới lỏng, tăng cung khối lượng
tiền, sẽ dẫn đến nguy cơ gia tăng lạm phát cả trong ngắn hạn và dài hạn.

CHƯƠNG II: CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
I. Công cụ trực tiếp:
Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượng và Ngân hàng Trung
ương kiểm soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi Ngân hàng Trung
ương sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động vào mục tiêu trung gian, từ mục
tiêu trung gian đã tác động đến tổng cầu.
1.1. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các
tổ chức tín dụng phải tuân theo khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Đây là một biện
pháp mạnh và có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho phép Ngân
hàng Trung ương định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh
tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa nó vào
nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng còn chỉ giới hạn lớn nhất mà một ngân hàng thương mại
có thể cho khách hàng của mình vay và hạn mức này do Ngân hàng Nhà nước
quy định và các ngân hàng không được cho vay quá mức này, vì sẽ ảnh hưởng
tới khả năng chi trả. Hàng quý, Ngân hàng Nhà nước sẽ giao một hạn mức cho
từng tổ chức và quản lý kiểm soát quá trình thực hiện hạn mức tín dụng đó. Và
điều quan trọng là Ngân hàng Nhà nước sử dụng hạn mức tín dụng như một
công cụ để thực thi chính sách tiền tệ nhằm hạn chế mức dư nợ tín dụng
tối đa đến với nền kinh tế. Ở Việt Nam, các ngân hàng có thể mua bán hạn mức
tín dụng với mức tối thiểu một lần mua bán là 1 tỷ đồng, theo qui định tại "Qui
chế về mua bán hạn mức tín dụng giữa các tổ chức tín dụng"
Về cơ chế tác động,hạn mức tín dụng (HMTD) được sử dụng để khống chế tổng

dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do
vậy, cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt ở dạng chỉ tiêu kế hoạch hàng
năm không được vượt quá đối với hệ thống ngân hang thương mại (NHTM).
7


Qua việc sử dụng công cụ HMTD, Ngân hàng Trung ương điều chỉnh khả năng
tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, tránh tình
trạng tổng khối lượng cung tiền tăng quá mức trong lưu thông. Lúc này, Ngân
hàng Trung ương phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM
cho vay vượt quá HMTD quy định sẽ bị xử phạt.

Việc quy định hạn mức tín dụng thường được Ngân hàng Trung ương sử
dụng khi nền kinh tế có nhiều biến động để kiểm soát khối lượng tiền trong lưu
thông đảm bảo cho sự bình ổn của tiền tệ, giá cả. Hạn mức tín dụng sẽ phát huy
được tác dụng trong điều kiện có lạm phát. Nhưng với nền kinh tế thị trường,
cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp
dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là
khống chế dư nợ của các Ngân hàng thương mại, từ đó quyết định đến lượng
tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng
của các Ngân hàng thương mại thì tương ứng với nó là một lượng nguồn
vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với
lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương tăng hạn mức tín dụng
dẫn đến tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống Ngân hang thì làm tăng lượng
tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức tín dụng tác động vào hệ số mở rộng tiền
tệ nên tác động vào lượng tiền cung ứng.
Có thể thấy, với cơ chế hoạt động như vậy, HMTD có những ưu và nhược điểm
sau:
Về ưu điểm: HMTD là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông,
Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng.

Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Về nhược điểm:
- HMTD có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung vốn bị giới hạn, không
thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế.
- HMTD có thể làm sai lệch cơ cấu vốn đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng
đến cơ cấu nền kinh tế.
8


- Khi thị trường tiền tệ hoạt động đúng theo quy luật, thì vô hình trung,
HMTD lại kìm hãm sự phát triển của các ngân hàng tốt, làm giảm tính cạnh tranh
giữa các NHTM. Do những NHTM có khả năng huy động nhiều vốn, lại bị hạn
chế cho vay, trong khi một số ngân hàng không có khả năng huy động vốn lại
không sử dụng hết được hạn mức của mình. Điều nguy hiểm hơn nữa là chính
việc kìm hãm này sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới, nằm ngoài phạm vi
kiểm soát của Ngân hàng Trung ương, thay thế ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
cho vay. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên HMTD mất đi
hiệu lực, do một số lượng vốn tín dụng được lưu thông trong nền kinh tế không
theo hạn mức đó và không kiểm soát được.
- HMTD cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, hộ nông dân. Do tín dụng bị áp mức trần, nên
các NHTM thường lựa chọn khách hàng lớn để cho vay, sau đó mới đến những
đối tượng trên, mà hiệu quả sử dụng vốn nhiều khi ở các món tín dụng nhỏ lại tỏ
ra hiệu quả hơn các món lớn.

1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay.
Ngân hàng Trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho vay
buộc các Ngân hàng thương mại phải thi hành. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ
thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ

làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm
cho Ngân hàng thương mại mất tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh.
Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức lãi suất
cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn và khi cần hạn chế đầu tư thì
Ngân hàng Trung ương định mức lãi suất cao.

2. Các công cụ gián tiếp.
Công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của nó được là nhờ cơ
chế thị trường, là công cụ tác động vào mục tiêu trung gian thông qua việc
điều chỉnh các mục tiêu cuối cùng.

9


2.1. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng giữ tại Ngân hàng Trung
ương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ
phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tùy theo tính chất và thời hạn mà
các tổ chức tín dụng huy động được.
Dự trữ bắt buộc là một phần số dư tiền gửi các loại mà các ngân hàng
thương mại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTƯ.
Trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM sử dụng các khoản tiền gửi
của khách hàng để cho vay hoặc đầu tư một cách khá linh hoạt. Nếu như các
khoản cho vay đều có thời hạn, một ngày hay cho vay qua đêm cũng đều có thời
hạn, thậm chí thời hạn có thể còn kéo dài hơn dự kiến vì đến hạn thu nợ, có thể
ngân hàng vẫn không thu được nợ - trong khi đó, đối với nguồn tiền gửi của
khách hàng thì các ngân hàng lại rất khó khăn trong việc kiểm soát thời hạn,
ngay cả khi gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì khách hàng gửi tiền vẫn có thể rút tiền
trước khi đến hạn; tình trạng tiền cho vay ra chưa thu hồi về nhưng khách hàng
gửi tiền lại có nhu cầu rút tiền trước hạn là hiện tượng luôn có thể... Điều này

cho thấy rủi ro thanh khoản luôn là mối lo của các NHTM.
Dự trữ bắt buộc và lãi suất
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng
cho nên lãi suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của
các ngân hàng ở NHTƯ không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi dự
trữ bắt buộc tăng lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm
lợi nhuận của các NHTM. Điều này được các ngân hàng khắc phục bằng cách
điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng.
Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng
tín dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà
NHTƯ muốn đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ
được nâng lên nếu NHTƯ thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục tiêu
kiểm soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư,
mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì NHTƯ sẽ

10


hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động ngược chiều đến khối
lượng tiền cung ứng thể hiện qua công thức tính hệ số nhân tiền:
Có thể nói sự tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền trong
nền kinh tế là khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến quy mô,
khối lượng tín dụng mà cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác động không đơn
giản chỉ làm tăng hay giảm đơn thuần mà làm thay đổi theo số lần về tiền trong
lưu thông.
Dự trữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng
Trung ương quy định. Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm

khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng thương mại, từ đó giảm lượng tiền
trong lưu thông, góp phần giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm cung xã hội.
Như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng cao thì mức độ an toàn trong hoạt động của
các Ngân hàng thương mại càng cao. Tuy nhiên nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá
cao thì sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại mất khả năng tạo tiền. Trong
trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của Ngân
hàng thương mại sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông,
góp phần tăng cung xã hội để có thể cân đối tăng cầu về tiền.
2.2. Lãi suất tái chiết khấu.
Chính sách tái chiết khấu thể hiện qua việc Ngân hàng Trung ương cung
ứng vốn tín dụng cho Ngân hàng thương mại. Chính sách tái chiết khấu được
thực hiện thông qua các cửa sổ chiết khấu. Ngân hàng Trung ương áp dụng lãi
suất chiết khấu và qui định các điều kiện để tái chiết khấu cho các tổ chức tín
dụng.
Ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách tái chiết khấu: Là lãi suất mà
Ngân hàng Trung ương áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá trị của Ngân
hàng thương mại. Đây là loại cho vay có đảm bảo.
Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết
khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu tư của Ngân hàng thương
mại, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, thu hẹp khả năng cho vay
của Ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việc
tăng lãi suất tái chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽ biết
tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách chiết khấu tới thị
trường. Người đầu tư giám sát sự tăng giảm lãi suất của Ngân hàng Trung ương
để dự tính được xu hướng thay đổi lãi suất để tìm biện pháp phòng
11


ngừa, ngăn chặn làm thay đổi tiền gửi và lãi xuất cho vay đồng thời tác động giá
chứng khoán.

Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu Ngân hàng Trung ương còn qui định hạn
mức tái chiết khấu, tức là qui định cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã qui định
để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các tổ chức tín dụng vay của Ngân hàng
Trung ương. Đồng thời Ngân hàng Trung ương còn qui định các tiêu
chuẩn thể hiện tài chiết khấu như: về thời hạn,về thể loại giấy tờ có giá trị, chất
lượng giấy tờ có giá trị và uy tín của tổ chức tín dụng khi vay vốn của Ngân hàng
Trung ương.
Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi (dự trữ
của ngân hàng) để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa tiền
mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của ngân hàng trung
ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân
hàng thương mại và dự trữ của ngân hàng thường lớn hơn dự trữ bắt buộc do
ngân hàng trung ương quy định. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng
thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc
việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được
từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu
cầu tiền mặt cao bất thường:


Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì ngân
hàng thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến
mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ ngân hàng
trung ương mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào.



Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương
mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu
cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ
ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh

nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.

Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất chiết khấu cao
hơn lãi suất thị trường, ngân hàng trung ương có thể buộc các ngân hàng
thương mại phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến cho số nhân tiền tệ giảm xuống
(vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm) để làm giảm lượng cung tiền. Ngược
lại, khi lãi suất chiết khấu giảm xuống thì các ngân hàng thương mại có thể giảm
12


tỷ lệ dự trữ tiền mặt và do vậy số nhân tiền tệ tăng lên dẫn đến tăng lượng cung
tiền.
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua bán
các công cụ tài chính ngắn hạn.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua vào
hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt
động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến
nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng
tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là một trong những công cụ của chính
sách tiền tệ quan trọng được Ngân hàng Trung ương (NHTW) các quốc gia sử
dụng. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHTW tác động trực tiếp
đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ
cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Với nghiệp vụ này, khi các
tổ chức tín dụng thiếu vốn, NHTW sẽ đưa tiền ra để mua các giấy tờ có giá (tín
phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc,…) do các tổ chức tín dụng nắm giữ. Ngược
lại, khi các tổ chức tín dụng thừa vốn, NHTW bán ra các giấy tờ có giá để rút tiền
về. NVTTM là thị trường tiền tệ thứ cấp, nhằm bảo đảm hỗ trợ khả năng thanh
toán cho các tổ chức tín dụng và điều tiết thị trường tiền tệ, phục vụ mục tiêu

phát triển kinh tế.
Nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền
tệ cả về mặt giá và lượng.
Về mặt lượng: Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của
Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua
chứng từ có giá trị trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của Ngân hàng thương
mại tăng lên và khi Ngân hàng Trung ương bán các chứng từ có giá trên thị
trường mở dẫn đến dự trữ của Ngân hàng thương mại giảm đi. Như vậy khi
Ngân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nã sẽ tác động vào
dự trữ của Ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung
ứng.

13


Về mặt giá: Khi Ngân hàng Trung ương mua các giấy tờ có giá sẽ làm tăng
dự trữ của Ngân hàng thương mại , cung vốn tín dụng cũng tăng lên.
Điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn làm lãi suất ngắn hạncó xu hướng
giảm xuống và tác động vào lãi suất có kỳ hạn giảm xuống. Bên cạnh
đó Ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị trường mở
sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá, đẫn đến có
sự chuyển dịch vốn đầu tư làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, tác động vào
cung cầu vốn trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Khi Ngân
hàng Trung ương thực hiện mua, bán các chứng từ có giá trên thị trường mở sẽ
tác động vào giá cả của chứng từ cá giá và khi Ngân hàng Trung ương thực hiện
can thiệp vào giá cả của các chứng từ có khối lượng chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò
can thiệp của Ngân hàng Trung ương càng có ý nghĩa quan trọng tác động vào
lượng tiền cung ứng.
Nghiệp vụ thị trường mở của các ngân hàng trung ương chủ yếu có hai loại:
mua bán giấy tờ có giá dài hạn và mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn. Ở Mỹ,

nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu được thực hiện đối với trái phiếu chính phủ dài
hạn. Ở Việt nam, theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam, nghiệp vụ thị trường
mở chỉ là việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ
tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
2.4 Công cụ tỷ giá:
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập
khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút
vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của
chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy
nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ
giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Với chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước, tỷ giá được điều
chỉnh linh hoạt theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường dưới sự quản lý,
điều tiết của Nhà nước. Chế độ tỷ giá này được đa số quốc gia lựa chọn trong
đó có Việt Nam. Theo cơ chế này, hàng ngày Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
14


công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng ngày hôm
trước làm cơ sở để các ngân hàng thương mại (NHTM) xác định tỷ giá giao dịch
trong ngày xoay quanh biên độ do NHNN công bố trong từng thời kỳ.
Như vậy, chế độ tỷ giá này sẽ có sự can thiệp của NHNN nhằm hạn chế những
biến động mạnh của tỷ giá hối đoái như quy định biên độ giao dịch giữa đồng
Việt Nam và USD, duy trì tỷ giá USD ở mức mục tiêu nhằm tránh những rủi ro có
thể xảy ra đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế. Chế độ tỷ giá này vừa đảm
bảo ổn định tỷ giá, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN hoạt động kinh doanh xuất

nhập khẩu, đảm bảo được tính linh hoạt và tiên liệu được.
Chính sách tỷ giá là một trong những chính sách kinh tế có tác động thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản
xuất trong nước, hỗ trợ xuất khẩu - một cấu thành quan trọng của tăng trưởng
kinh tế.
Tuy nhiên, cơ chế truyền dẫn của chính sách tỷ giá tác động ngược chiều
giữa các DN xuất khẩu và DN nhập khẩu. Trường hợp tỷ giá tăng sẽ có tích cực
đối với tăng năng lực cạnh tranh cho DN xuất khẩu do lợi thế cạnh tranh về giá
và bảo hộ mặt hàng tiêu dùng sản xuất trong nước thì ngược lại làm tăng chi phí
đối với các DN phải nhập khẩu các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Thậm chí, gây bất lợi cho ngay cả các DN xuất khẩu nếu các DN này
phải nhập khẩu các nguyên vật liệu sản xuất cho hàng xuất khẩu của mình.

CHƯƠNG III: THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NHỮNG NĂM VỪA
QUA TẠI VIỆT NAM
Để tìm hiểu kĩ hơn về chính sách tiền tệ và các công cụ chính sách tiền tệ
đồng thời có cái nhìn tổng quan về việc áp dụng chính sách tiền tệ tại Việt Nam,
chúng ta cùng nghiên cứu cụ thể chính sách tiền tệ của Việt Nam qua các năm
và các tác động của nó.
I. NĂM 2008
Năm 2008 là năm mà nền kinh tế trong nước có những biến động rất lớn.
Năm 2008, thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa
từng có về lãi suất, tỷ giá.... Việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối

15


năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có trong lịch sử.

Trên đây là điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm

thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các NHTM
Tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi chính
sách thắt chặt tiền tệ của NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành
tín phiếu bắt buộc và công cụ lãi suất đã tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ
và hoạt động kinh doanh của các NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn
vốn; giảm khả năng cho vay. Quá trình này tác động làm tăng chi phí kinh doanh,
tăng lãi suất cho vay của các NHTM và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM
trong thời gian này.
Năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những
khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.Trước bối
cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng
bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm
phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ chính sách tiền tệ được
điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh
khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Ngân
hàng Nhà nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị
trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá
nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm
2008, để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được
chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng. Chính sách tền tệ chưa thể nói là
cực chuẩn nhưng có thể nói là thành công.
II. NĂM 2009
Tình hình kinh tế: Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã
phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền
kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế Nhìn
nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo
chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783
tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại
hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá

16


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối
hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân
cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần
của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các
NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14%
xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm
2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh
nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND
và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không
muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu
mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai
quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND
của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên
ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị
trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm
bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên
ngân hàng
Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như
phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng
cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng
cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và
hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm. .

Năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực
thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến
động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm
chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô.
17


Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và đòi hỏi CSTT của
NHNN phải có phản ứng kịp thời để ngăn chặn.
III. Năm 2010
Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính, tăng trưởng
kinh tế 4,8%, thương mại tăng 11,4%. Năm 2010, theo đánh giá của Chính phủ,
kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng khá.
Trong năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt
và thận trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám
sát tình hình thực tế, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô, thể hiện cụ thể là:
Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng
trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức
tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết
định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp
vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên
6%/năm.
• Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở
mức 8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám
sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và
cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy
động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm).
Điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; thực hiện

các biện pháp ổn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập
đoàn, tổng công ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế
bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các
TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và không khuyến
khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong hơn 9 tháng đầu
năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu
năm. Đóng cửa sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản
ở nước ngoài; điều hành xuất - nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường;
ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và
18


cho vay bằng vàng; phối hợp với các bộ, ngành chống đầu cơ, buôn lậu vàng.
Giá vàng trong nước tăng bám sát giá thế giới, hiện tượng tâm lý đám đông và
đầu cơ có xu hướng giảm.
Phối hợp giải pháp trong điều hành chính sách tiền tệ với chính sách tài
khoá, các NHTM sử dụng số vốn dự trữ thanh toán để mua trái phiếu Chính phủ,
ngân sách Nhà nước có vốn để đầu tư phát triển, tăng tỷ lệ vốn hóa thị trường
vốn và thanh khoản của thị trường tiền tệ.
Nhìn chung, thị trường tiền tệ, tín dụng trong năm 2010 tương đối ổn định
và diễn biến phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội.Tính đến 31/12, tăng
trưởng tín dụng ước đạt 29,81%, tổng dư nợ tăng 27,6%; tổng phương tiện
thanh toán tăng 25,3% so với cuối năm 2009. Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất
thỏa thuận và các biện pháp điều hành tiền tệ linh hoạt của NHNN, lãi suất huy
động và cho vay VND của các NHTM giảm dần.
Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại tệ
được cải thiện đáng kể, tỷ giá diễn biến phù hợp với mục tiêu khuyến khích xuất
khẩu, góp phần hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Giá
vàng trong nước diễn biến tương đối sát với giá vàng thế giới, chênh lệch giá

vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp.
IV. Năm 2011
Về những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2011, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho
rằng, nền kinh tế sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, lớn hơn
so với dự báo cuối 2010, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô.
Năm 2011, NHNN điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô,
góp phần tăng trưởng kinh tế
Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng là 12,0%/ năm

19


Như vậy, đây là lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một
số loại lãi suất điều hành. Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là
từ 9%/năm lên 11%/năm, lần này thì từ 11% lên 12%.
Đáng chú ý là trong lần điều chỉnh này, lãi suất tái chiết khấu được tăng
mạnh, từ 7%/năm lên 12%/năm.
9/4/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định
số 750/QĐ-NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 4% lên
6% đối với các tổ chức tín dụng. Quyết định này có hiệu lực kể từ kỳ duy trì dự
trữ bắt buộc tháng 5/2011.
Tình hình kinh tế những tháng cuối năm đã có dấu hiệu cải thiện, GDP năm
2011 tăng 5,89%, lạm phát so cùng kỳ năm trước bắt đầu có dấu hiệu chững lại
và giảm dần từ mức 22% trong tháng 10/2011 xuống 20% trong tháng 11 và
18,13% trong tháng 12.

V. Năm 2012:
Để định hướng thị trường, ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục
tiêu giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời
đưa ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã qui
định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp
nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ cao; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối
với các lĩnh vực ưu tiên được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống
12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của trần lãi suất tiền gửi VND.
Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi
suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của
năm 2007. Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất
kinh doanh khác và cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay
đối với các khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và
tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm
phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế.

20


VI.

Năm 2013

Trên cơ sở kết quả điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được, và các mục
tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều
hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh
lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và

kiểm soát tiền tệ.
Đến cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,16% so với cuối
năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong năm 2013, thanh khoản
của hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt được điều
hành theo hướng giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và
nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm đã giảm khoảng 25%/năm so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho
vay giảm 3-5%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các TCTD
cũng chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng.
Đến nay, trần lãi suất huy động đã giảm về mức 7%/năm và chỉ áp dụng đối
với kỳ hạn dưới 6 tháng, trần lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là
9%/năm, tỉ trọng những khoảng cho vay có lãi suất đến 13%/năm chiếm khoảng
74,97%.
Sau nhiều tháng tăng chậm, tín dụng bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, nhu cầu
của doanh nghiệp về vốn cho sản xuất kinh doanh đã tăng mạnh do nhu cầu tiêu
thụ hàng hóa đã cải thiện mạnh. Tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền
kinh tế đã tăng 6,45% so với đầu năm
VII. Định hướng điều hành CSTT năm 2014:

Những thách thức:
Mặc dù đã đạt được kết quả tích cực trên nhiều mặt, song trong bối cảnh
kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và khó lường; kinh tế trong nước ngày càng
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, do
đó, công tác điều hành CSTT năm 2014 vẫn tiếp tục phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức cần phải được xử lý trong thời gian tới.

21


Trước tiên là những thách thức đến từ diễn biến phức tạp của nền
kinh tế thế giới: Trong năm 2014, mặc dù kinh tế thế giới dự báo đã có nhiều

dấu hiệu khởi sắc, đặc biệt là sự hồi phục của các nền kinh tế đầu tàu. Tuy
nhiên, những thách thức lớn của kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng chưa được
giải quyết một cách bền vững, cụ thể như tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, chính
sách nợ công tại một số quốc gia vẫn chưa được thống nhất, các gói nới lỏng
định lượng vẫn tiếp tục được duy trì, rủi ro vẫn còn tiềm ẩn trên phần lớn các thị
trường, bất ổn chính trị - xã hội và tình hình thiên tai diễn biến phức tạp... Điều
đó có thể tác động bất lợi đến hoạt động thương mại trong nước, đến sự dịch
chuyển của các dòng vốn đầu tư... nên vẫn có thể tạo ra những áp lực đối với
công tác quản lý ngoại hối, đặc biệt khi các nền kinh tế mới nổi tập trung phát
triển với cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng hơn
vào nền kinh tế thế giới thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác quốc tế song
phương và đa phương mà trước mắt là Hiệp định đối tác Kinh tế Chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP), có thể dẫn đến những thay đổi cần thiết trong
quan điểm, nguyên tắc điều hành các chính sách quản lý kinh tế.
Tiếp đến là những thách thức đến từ diễn biến kinh tế trong nước:
Kinh tế vĩ mô có những dấu hiệu tích cực, song chuyển biến còn chậm,
chưa ổn định, vững chắc. Tăng trưởng tiềm năng của Việt Nam đang có xu
hướng giảm dần, tăng trưởng kinh tế trong hai năm trở lại đây chủ yếu dựa vào
xuất khẩu trong khi nhu cầu trong nước phục hồi chậm, sức mua còn yếu, lạm
phát tuy đã được kiểm soát nhưng còn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao trở lại…
Bên cạnh đó, dòng vốn tín dụng còn chưa thông suốt, nợ xấu còn ở mức cao,
khó khăn của thị trường bất động sản chưa thể giải quyết và đặc biệt là áp lực
bội chi ngân sách ngày càng lớn,… đã trở thành những thách thức lớn cho công
tác điều hành CSTT trong năm 2014 nói chung và đặc biệt là sẽ tạo ra áp lực
22


trong công tác quản lý tín dụng của NHNN. Những thách thức này sẽ buộc
NHNN phải theo đuổi cùng một lúc nhiều mục tiêu trong quá trình điều hành

chính sách, đặc biệt là việc phải tập trung theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn như
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi khả năng hỗ trợ của chính sách tài khóa
ngày càng yếu đã tạo ra nhiều khó khăn cho NHNN trong việc theo đuổi mục tiêu
quan trọng nhất của CSTT là ổn định giá cả, thể hiện ở mức lạm phát thấp và ổn
định trong trung và dài hạn.

Cuối cùng là những thách thức của quá trình tái cấu trúc:
Trong hai năm vừa qua, mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu
trong việc thực hiện chương trình tái cấu trúc các TCTD giai đoạn 2011 - 2015,
song đó mới chỉ là việc giải quyết những khó khăn trước mắt. Còn những vấn đề
cốt lõi của chương trình tái cấu trúc như giải quyết triệt để nợ xấu, tăng cường
năng lực quản trị điều hành sau tái cơ cấu, thay đổi cấu trúc sở hữu, đặc biệt là
khắc phục vấn đề sở hữu chéo vẫn đang trong thời gian khởi động… chưa thật
sự

dẫn

đến

những

thay

đổi

về

vật

chất.

23


Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho việc tái cơ cấu các TCTD chưa được hoàn
thiện, đặc biệt là cơ chế mua bán nợ xấu, quy chế điều tiết thống nhất các hoạt
động mua bán, sáp nhập (M&A),..; nguồn lực tài chính công còn hạn chế, nguồn
lực tài chính bên ngoài chưa có cơ chế phù hợp để thu hút; quá trình tái cơ cấu
trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước chưa có nhiều khởi sắc,…
sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tiến độ và tính hiệu quả của chương trình tái cơ cấu
hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015.
Những thách thức chính yếu trên đòi hỏi NHNN tiếp tục phải kiên định với
mục tiêu điều hành, phải tăng cường phối hợp chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa với
các Bộ, ngành, phải có những chiến lược mạnh mẽ và nỗ lực cao hơn để giải
quyết thành công những thách thức. Trên cơ sở đó, bám sát mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội năm 2014 đã được Quốc hội phê duyệt, với chỉ tiêu tăng trưởng
đạt mức khoảng 5,8%; lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng - CPI) ở mức khoảng 7%.
Do vậy, mục tiêu CSTT cần đạt được trong năm 2014 là: tiếp tục theo đuổi mục
tiêu kiểm soát lạm phát không vượt quá mục tiêu Quốc hội phê chuẩn, ổn định
tiền tệ và hệ thống các TCTD, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực
cho tăng trưởng kinh tế.


Những định hướng cụ thể:

Để đạt được mục tiêu trên, việc điều hành CSTT phải đảm bảo tính linh
hoạt, tiếp tục phát huy tính chủ động cao, định hướng thị trường theo mục tiêu
đã đặt ra. Theo đó, việc điều hành các công cụ CSTT cần được điều hành linh
hoạt, đồng bộ, đảm bảo kiểm soát khối lượng tiền cung ứng theo định hướng
tăng trưởng tín dụng ở mức 12 - 14%; tổng phương tiện thanh toán tăng trưởng
khoảng 16 - 18%; điều hành chủ động các mức lãi suất chỉ đạo của NHNN để

định hướng lãi suất thị trường, đảm bảo tính ổn định, không gây ra những biến
động bất thường, nhằm tiếp tục tạo sự ổn định bền vững trên thị trường tiền tệ,
kiềm chế lạm phát; theo dõi sát diễn biến tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối,
cung
cầu
ngoại
tệ
để
điều
hành
tỷ
giá
phù
hợp;

24


Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường vàng, không để những biến
động của thị trường vàng ảnh hưởng đến ổn định vĩ mô; tiếp tục khắc phục tình
trạng đô la hóa nền kinh tế bằng nhiều biện pháp, trong đó cần có sự phối chặt
chẽ giữa điều hành tỷ giá với lãi suất theo hướng khuyến khích giữ VNĐ, hạn
chế dịch chuyển sang USD. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế
chính sách cho hoạt động tiền tệ tín dụng nhằm tạo điều kiện cho các TCTD tái

cấu

phát
triển
mạnh

mẽ;
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu các TCTD để tăng cường
tính hiệu quả của cơ chế tác động CSTT và tạo đà phát triển hệ thống các TCTD
trong những năm tiếp theo; Tiếp tục tăng cường năng lực thanh tra, giám sát,
phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi kinh doanh thiếu lành mạnh có
thể gây bất ổn định hệ thống; Tăng cường công tác truyền thông, tăng cường
trách nhiệm cần được đẩy mạnh để nâng cao hơn nữa lòng tin của xã hội, tránh
những thông tin sai lệnh làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành.

KẾT LUẬN:
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện đúng nguyên lý kèm theo một
loạt các giải pháp nhằm hướng các khoản vốn vay đúng đối tượng, triển khai các
giải pháp hạn chế tình trạng thông tin không cân xứng, giảm rủi ro do lựa chọn
đối nghịch, tăng tính sẵn sàng cho vay của các ngân hàng. Ngoài việc giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất dự trữ bắt buộc, giảm hệ thống lãi suất chỉ đạo,
thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như triển khai cho vay hỗ
trợ lãi suất, trong những tình huống khẩn cấp, NHNN đã sử dụng các biện pháp
hành chính khống chế trần lãi suất cho vay, kiểm soát chặt việc cho vay hỗ trợ lãi
suất, cung ứng thanh khoản cho các ngân hàng có khó khăn thanh khoản, kiểm
soát tỷ giá, giảm tình trạng căng thẳng ngoại tệ và ảnh hưởng lan truyền của nó
tới mặt bằng lãi suất nội tệ. Những vấn đề đặt ra khi sử dụng chính sách tiền tệ
nới lỏng là ở chỗ: NHNN không hoàn toàn có quyền lực để áp đặt mức vay nợ
cho doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào quyết định của NHTM căn cứ vào kết
quả của quy trình thẩm định khách hàng và sau đó còn phụ thuộc vào nguồn vốn
cũng như giá vốn huy động của ngân hàng. Trong điều kiện lãi suất thực âm
những năm gần đây, không có nhiều cơ hội cho chính sách tiền tệ thực hiện kích
cầu. Tình trạng này phản ánh một thực tế là ngân hàng đang tài trợ một khoản
25



×