Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Những cơ hội và thách thức cho Du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập Du lịch Tiểu vùng sông Mekong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.23 KB, 37 trang )

Lý do chọn đề tài
Mặc dù cụm từ liên kết, hợp tác để phát triển Du lịch từ lâu đã trở
nên rất phổ biến bởi những lợi ích không ai phủ nhận mà nó đem lại. Nhng
cho đến nay, hình thức này ở Việt Nam mới thực sự nở rộ và phát triển. Đặc
biệt trong bối cảnh Việt Nam đang tiến gần vào WTO, khi Du lịch trở thành
một trong những ngành nằm trong quá trình cạnh tranh gay gắt nhất, thì liên
kết, hợp tác trong Du lịch để cùng nhau phát triển lại càng trở nên cần thiết
hơn bao giờ hết. Nhận thức đợc tầm quan trọng cũng nh lợi ích của việc liên
kết và hợp tác khu vực, Du lịch Việt nam đang dần tiến những bớc đi đầu
tiên trong quá trình Hội nhập khu vực và Hội nhập quốc tế, bởi đó là một
trong những con đờng tất yếu của quá trình phát triển. Ngời ta nhắc nhiều
đến ASEAN, APEC và gần đây là GMS (Greater Mekong Subregion)- Hiệp
hội các nớc Tiểu vùng sông Mekong, cùng với EWEC (East-west Economic
Corridor)- Hành lang kinh tế Đông Tây với rất nhiều các chơng trình hợp tác
từ vi mô tới vĩ mô trên hầu hết các lĩnh vực nh kinh tế, giao thông vận tải, thơng mại, và đặc biệt là Du lịch.
Sông Mekong trải dài 4.800 km, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng
chảy qua tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia
và Việt Nam, đem đến cho khu vực này rất nhiều những lợi thế và tiềm năng
phát triển. Từ những nhu cầu tất yếu, năm 1995, Hiệp hội các nớc Tiểu vùng
sông Mekong đã ra đời, đánh dấu một bớc phát triển quan trọng trong tiến
trình hội nhập của khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng. Trong
những lĩnh vực then chốt đợc các nớc tập trung hợp tác phát triển, Du lịch đợc đánh giá là một trong những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao của Tiểu
vùng sông Mekong, một lĩnh vực đem lại việc làm và lợi ích cụ thể cho ngời
dân, chìa khoá để phát triển kinh tế và giảm đói nghèo trong khu vực. Đến
năm 1997, AMTA (Agency for Coordinating Mekong Tourism Activities)Cơ quan hợp tác Du lịch Tiểu vùng sông Mekong đã ra đời với hàng loạt các
chơng trình, dự án xúc tiến quá trình hợp tác Du lịch của các nớc trong Tiểu
vùng, với mong muốn xây dựng hình ảnh Sáu đất nớc- một điểm đến an
toàn, thân thiện và hấp dẫn cho du khách.
Tuy nhiên mọi vấn đề đều có tính hai mặt, và vấn đề của Du lịch Việt
Nam trong quá trình Hội nhập khu vực chính là cái đợc và cái mất. Hay nói
cách khác Hội nhập Du lịch Tiểu vùng sông Mekong sẽ tạo ra những cơ hội


1


và thách thức gì cho Du lịch Việt Nam. Hội nhập là một quá trình tất yếu,
nhng Du lịch Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng cho quá trình đầy
gian nan này cha và hội nhập nh thế nào để tăng mức tối đa những lợi ích, cơ
hội, và giảm thiểu tối đa những hạn chế mới là điều quan trọng. Liên kết, hợp
tác Du lịch Tiểu vùng sông Mekong sẽ là một trong những động lực thúc đẩy
Du lịch Việt Nam phát triển, góp phần tạo ra sản phẩm mới, nâng cao chất lợng sản phẩm dịch vụ, giảm tối đa các thủ tục và chi phí không cần thiết,
đổi mới hình thức quảng bá xúc tiến, tăng sức hấp dẫn, hiệu quả đầu t và khả
năng cạnh tranh của các quốc gia. Sáu quốc gia thuộc Tiểu vùng sông
Mekong thì có đến năm quốc gia có di sản văn hoá thế giới với rất nhiều
tiềm năng Du lịch, trong đó có Thái Lan, một cờng quốc Du lịch với hai
thành phố nằm trong top 10 thành phố Du lịch tốt nhất Châu á năm 2005.
Đó chính là những thách thức cho Du lịch Việt Nam về khả năng cạnh tranh
khi mà giá các tour du lịch, giá vận chuyển hàng không cũng nh sinh hoạt
trung bình của Việt Nam đều cao hơn so với các nớc trong khu vực. Đó
không chỉ là thách thức cho Du lịch Việt Nam trong việc thu hút khách nớc
ngoài mà còn là thách thức cho Du lịch nội địa khi hàng năm ngời dân Việt
Nam ồ ạt đi Thái Lan, Trung Quốc bởi chi phí Du lịch ra nớc ngoài thậm
chí còn thấp hơn nhiều chi phí du lịch trong nớc. Bên cạnh đó còn rất nhiều
những thách thức khác về cơ sở hạ tầng, về nguồn nhân lực, về khả năng chỉ
trở thành một điểm dừng chân làm phong phú thêm các tour du lịch của các
nớc khác trong các chơng trình du lịch xuyên quốc gia khi tài nguyên du lịch
đang cạn kiệt dần, và rất nhiều những thách thức khác trớc mắt. Trong tiến
trình Hội nhập khu vực và quốc tế, hiểu rõ đợc vị trí, tiềm năng và thách thức
cho Du lịch Việt Nam là một vấn đề thực sự quan trọng. Bởi có nh vậy chúng
ta mới có đợc những bớc tiến đúng đắn, tận dụng đợc cơ hội để đi tắt đón
đầu, giải quyết đợc những mặt hạn chế và không phải chịu nhiều tổn thất
trong quá trình Hội nhập.

Đó cũng chính là lý do tôi tập trung nghiên cứu về đề tài Hợp tác Du
lịch Tiểu vùng Mekong, những cơ hội và thách thức cho Du lịch Việt Nam.
Trớc hết là nghiên cứu về hoạt động hợp tác du lịch của các quốc gia trong
Tiểu vùng Mekong, những thành tựu đã đạt đợc cũng nh các chơng trình,
hoạt động mà Hiệp hội này đang xúc tiến để quảng bá cho Du lịch của cả
Tiểu vùng. Thêm vào đó, quan trọng hơn, dựa vào những kết quả điều tra,
2


nghiên cứu đã thực hiện, tôi muốn phân tích cụ thể những cơ hội và thách
thức cho Du lịch Việt Nam trong quá trình Hội nhập với khu vực. Việt Nam
sẽ có cơ hội gì và phải đối mặt với những khó khăn nh thế nào trong những
hợp tác Du lịch song phơng và đa phơng với các quốc gia trong Tiểu vùng
sông Mekong mở rộng. Nhất là khi con đờng xuyên á và Hành lang kinh tế
Đông tây đợc thực hiện, mở ra rất nhiều những cơ hội để hợp tác và phát
triển giữa các quốc gia trong Tiểu vùng. Thấy rõ vị trí của Du lịch Việt Nam
trong khu vực sẽ góp phần xây dựng những chiến lợc và con đờng đúng đắn
trong tiến trình hội nhập và phát triển, đa tài nguyên du lịch của Việt Nam
trở thành sản phẩm du lịch quý giá, ghi dấu một vẻ đẹp tiềm ẩn trên bản đồ
Du lịch Thế giới.

Đối tợng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tợng tôi tập trung nghiên cứu trớc tiên là Hiệp hội các nớc Tiểu
vùng sông Mekong (GMS- Greater Mekong Subregion). Sự ra đời của tổ
chức này và những hoạt động hợp tác giữa các quốc gia trong Hiệp hội đặc
biệt là trên lĩnh vực Du lịch. Một đối tợng khác cũng đợc tôi tập trung nghiên
cứu là Cơ quan hợp tác Du lịch Tiểu vùng sông Mekong gọi tắt là AMTA
(Agency for Coordinating Mekong Tourism Activities) với những chơng
trình, kế hoạch xúc tiến cho hoạt động hợp tác Du lịch và quảng bá Du lịch
cho các nớc trong Tiểu vùng. Những kết quả đã đạt đợc của các chơng trình

hợp tác này và kế hoạch phát triển xúc tiến phát triển Du lịch trong tơng lai
của AMTA.
Hiệp hội các nớc Tiểu vùng sông Mekong bao gồm sáu quốc gia là
Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Việt Nam. Nhng hoạt
động hợp tác của Du lịch Việt Nam song phơng và đa phơng trong Tiểu vùng
diễn ra nhiều nhất và rõ rệt nhất vẫn là hoạt động hợp tác với ba nớc láng
giềng Thái Lan, Lào và Campuchia. Đây cũng là ba nớc có sự cạnh tranh du
lịch ảnh hởng rõ rệt nhất đến Du lịch Việt Nam. Chính vì thế trong nghiên
cứu khoa học của mình, bên cạnh các chơng trình hợp tác xúc tiến phát triển
Du lịch của AMTA cho tất cả các nớc thành viên, tôi tập trung nghiên cứu
3


các hoạt động hợp tác song phơng và đa phơng giữa Việt Nam với ba nớc
Thái Lan, Lào và Campuchia. Từ đó đánh giá những cơ hội và thách thức cho
Du lịch Việt Nam trong quá trình hợp tác và hội nhập này.
Phơng pháp nghiên cứu
Về phơng pháp nghiên cứu, trớc tiên tôi sử dụng phơng pháp thu thập
và xử lý dữ liệu. Tôi thu thập, thống kê và hệ thống lại thông tin về sự hợp
tác Du lịch Tiểu vùng sông Mekong, đa ra những đánh giá về kết quả đã đạt
đợc của các chơng trình hợp tác này. Bên cạnh đó, phơng pháp chủ yếu tôi
tiến hành trong quá trình nghiên cứu của mình đó là phơng pháp thực địa.
Tháng 12 năm 2005 tôi tham gia vào Diễn đàn thanh niên các nớc Tiểu vùng
sông Mekong lần thứ hai. Trong Diễn đàn này, chúng tôi đợc khảo sát thực
địa tại ba nớc Việt Nam, Lào và Thái Lan để cùng trao đổi, đa ra ý kiến, viết
báo cáo, tham luận về các vấn đề liên quan đến giao thông trong Tiểu vùng
GMS. Trong chuyến đi, với t cách là một khách du lịch, tôi đã có cơ hội khảo
sát thực địa về tài nguyên, cách khai thác tài nguyên phục vụ cho du lịch, các
sản phẩm du lịch cũng nh chất lợng dịch vụ tại các điểm du lịch nổi tiếng
của ba nớc. Đây chính là cơ sở ban đầu cho những phân tích và nhận định về

thực tế của quá trình hội nhập Du lịch Tiểu vùng Mekong, cũng nh những
mặt u thế và tồn tại của du lịch các nớc.
Bất cứ một phân tích và nhận định nào cũng đều bắt nguồn từ thực tế
và phải bắt nguồn từ thực tế. Bởi vậy sau khi hoàn thành Báo cáo khoa học
vào tháng 3 năm 2005, tôi tiếp tục sử dụng phơng pháp nghiên cứu thực địa
để hoàn thiện hơn những phân tích, đánh giá trong Khoá luận tốt nghiệp về
những cơ hội và thách thức cho Du lịch Việt Nam trong tiến trình hội nhập
khu vực. Tôi đã thực hiện cuộc hành trình qua ba nớcViệt Nam, Campuchia
và Thái Lan (Hà Nội- Hồ Chí Minh- Phnompenh- Siem Riep- Bangkok- Hà
Nội). Trong chuyến đi này, với t cách vừa là ngời tổ chức chơng trình, vừa là
khách du lịch, tôi đã hoàn thiện và bổ sung đợc thêm nhiều thông tin thực tế
cho những đánh giá và phân tích của mình trong Khoá luận tốt nghiệp.

4


Cấu trúc của Khoá luận tốt nghiệp
Khoá luận tốt nghiệp ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục,
Tài liệu tham khảo đợc chia làm ba chơng nh sau:
Chơng 1:
Chơng 2:
Chơng 3:

Hợp tác du lịch đa phơng, một bộ phận quan trọng của
hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong.
Các chơng trình hợp tác phát triển Du lịch giữa các nớc
Tiểu vùng Mekong.
Những cơ hội và thách thức cho Du lịch Việt Nam trong quá
trình hội nhập Du lịch Tiểu vùng sông Mekong.


Chơng 1: Hợp tác Du lịch đa phơng, một bộ phận quan
trọng của hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mekong.
1.1 Khái quát về sự hình thành phát triển, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc
hoạt động của các nớc Tiểu vùng sông Mekong.
1.1.1 Khái quát về vị trí địa lý, nguồn lực cũng nh quá trình hình
thành, phát triển của Hiệp hội các nớc Tiểu vùng sông Mekong.
Sông Mekong là một trong những con sông lớn của Châu á, trải dài
trên 6 quốc gia. Đó là các nớc: Campuchia, Lào, Trung Quốc, Myanmar,

5


Thái Lan và Việt Nam. Năm 1992, với sự giúp đỡ của Ngân hàng phát triển
Châu á (ADB), sáu quốc gia trên đã tham gia vào một chơng trình hợp tác
kinh tế nhằm thiết lập mối quan hệ đa phơng giữa các quốc gia trong lu vực
sông Mekong. Chơng trình này sẽ góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, tận
dụng nguồn tài nguyên chung, xúc tiến đẩy mạnh việc trao đổi hàng hoá
cũng nh nguồn lao động giữa các nớc trong Tiểu vùng, tiến tới xây dựng hình
ảnh Tiểu vùng sông Mekong là một trong những khu vực phát triển trên thế
giới.
Tiểu vùng sông Mekong rộng khoảng 2.6 triệu km2 với nguồn tài
nguyên vô cùng phong phú. Đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên với tài
nguyên nớc, rừng, năng lợng (than đá, dầu thô) đợc đánh giá cao. Dựa vào
nguồn tài nguyên nớc và phù sa của lu vực sông Mekong, sáu quốc gia kể
trên hầu hết đều phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là khai thác đánh bắt
cá và thêm vào đó là khai thác thuỷ điện. Tiểu vùng sông Mekong cũng là
một trong những khu vực có nguồn lao động khá dồi dào. Với khoảng 300
triệu lao động, đây sẽ là một trong những thế mạnh của khu vực trong phát
triển kinh tế.
Nhận ra mối quan hệ chặt chẽ về nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi

trờng giữa các nớc thuộc lu vực sông Mekong, ngày 5 tháng 4 năm 1995,
chính phủ 4 nớc Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan đã cùng ký kết hiệp
định hợp tác phát triển nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình phát triển và hợp tác
của khu vực. Đây là một bớc phát triển vợt bậc trong mối quan hệ hợp tác
giữa các nớc trong Tiểu vùng. Hiệp định này cũng đánh dấu sự hình thành
một tổ chức chung cho các nớc thuộc Tiểu vùng sông Mekong, gọi tắt là
GMS (Greater Mekong Subregion) với cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt
động, hợp tác khá rõ ràng. Tất cả vì sự thịnh vợng của mỗi quốc gia và của cả
Tiểu vùng, giải quyết những khó khăn và thách thức trớc mắt nh tình trạng
đói nghèo, thiên tai, dịch bệnh, sự lạc hậu, từ đó từng bớc nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
1.1.2 Cơ cấu tổ chức của Hiệp hội các nớc Tiểu vùng sông Mekong
Theo hiệp định đợc ký kết ngày 5 tháng 4 năm 1995 của Chính phủ
Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan, Uỷ ban các nớc Tiểu vùng sông
Mekong đợc thành lập với tên gọi quốc tế là Mekong River Commision. Uỷ
6


ban các nớc Tiểu vùng sông Mekong có cơ cấu tổ chức đợc phân ra làm ba
bộ phận chính: Hội đồng (Council), Uỷ ban thờng trực (Standing Committee)
và khối Văn phòng (Secretariat). Uỷ ban này sẽ thừa nhận quyền và nghĩa vụ
trong vấn đề hợp tác và đầu t giữa các nớc thành viên. Uỷ ban hoạt động dựa
vào nguồn tài chính của các nớc thành viên, cũng nh từ sự giúp đỡ, tài trợ của
các quốc gia và tổ chức khác.
Mỗi nớc tham gia vào Uỷ ban các nớc Tiểu vùng sông Mekong sẽ cử
ra một đại diện thuộc nội các Chính phủ để tham gia vào Hội đồng. Những
đại diện này phải là những ngời có vị trí cao trong Chính phủ, ít nhất là từ
Thứ trởng trở lên, bởi đó là những ngời có đủ thẩm quyền đại diện cho Chính
phủ của mình đa ra các chính sách và quyết định mang tầm vĩ mô. Chủ tịch
của Hội đồng sẽ có nhiệm kỳ kéo dài một năm và luân phiên thay đổi giữa

các nớc theo thứ tự alphabe. Hội đồng đợc nhóm họp thờng niên ít nhất một
lần mỗi năm hoặc có thể tổ chức các phiên họp đặc biệt nếu thấy cần thiết
hoặc theo yêu cầu của các thành viên trong tổ chức. Các phiên họp có thể có
sự tham gia của các quan sát viên nếu thấy thích hợp và cần thiết.
1.1.3 Nguyên tắc hoạt động của Uỷ ban các nớc Tiểu vùng sông
Mekong.
Trong suốt quá trình hợp tác Tiểu vùng sông Mekong, các nớc thành
viên đã cùng thoả thuận để xây dựng nên những nguyên tắc chung. Các
nguyên tắc này đóng vai trò duy trì động lực phát triển của tiến trình hợp tác
Tiểu vùng GMS thông qua việc thiết lập những nguyên tắc nền tảng, hình
thành các chơng trình chung và tập trung vào các vấn đề u tiên hàng đầu.
Những nguyên tắc đó là:
Thứ nhất: Bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Kể từ khi khởi đầu sáng
kiến hợp tác Tiểu vùng GMS, nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau đã
đặt nền tảng vững chắc cho sự hợp tác của các nớc thành viên. Các quốc gia
cùng nhau chia sẻ khát vọng về sự thịnh vợng chung của một tiểu vùng. Các
nớc thành viên mặc dù khác nhau về mặt địa lý, các điều kiện kinh tế nhng
luôn là những đối tác bình đẳng trong quá trình hợp tác và cùng nhau nỗ lực
theo đuổi những mục đích chung.
Thứ hai: Đồng lòng trong việc ra quyết định. Đây chính là công cụ
thúc đẩy sự đoàn kết trong Tiểu vùng. Cùng với sự linh hoạt trong việc chọn
7


thời điểm ra quyết định và sự tham gia, phơng hớng này về khía cạnh nào đó,
vẫn xác định đợc những nhu cầu và những mối quan tâm khác nhau của các
nớc thành viên trong khi vẫn phản ánh đợc những mối quan tâm chung.
Thứ ba là tính thực tế và định hớng hớng ngoại- những yếu tố chính
mang đến tầm nhìn của Tiểu vùng sông Mekong. Một trong những kinh
nghiệm quý báu là để đạt đợc thành công cần tiếp cận theo hớng hành động,

dựa trên các kết quả đạt đợc và xác định nhu cầu. Bằng cách tiếp cận theo hớng này, hợp tác Tiểu vùng sông Mekong sẽ mang lại những kết quả thực tế
trên nhiều lĩnh vực cụ thể và đem đến nhiều lợi ích quan trọng cho nhân dân
các nớc trong Tiểu vùng.
Thứ t: Tiếp cận từng bớc. Tiếp cận từng bớc cho thấy sự phù hợp và
hiệu quả trong việc thúc đẩy quá trình hợp tác GMS. Trớc những nhiệm vụ
lớn lao sẽ dần mở rộng và làm sâu sắc quá trình hợp tác, vừa tập trung vào
những chơng trình u tiên trớc mắt, đồng thời tập trung vào những chiến lợc
dài hạn. Với cách làm nh vậy, việc hợp tác giữa các nớc sẽ có tổ chức và hiệu
quả với từng kết quả cụ thể rõ ràng.
1.2 Hợp tác du lịch đa phơng, một bộ phận quan trọng của hợp tác kinh
tế Tiểu vùng sông Mekong.
1.2.1 Khái quát về hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mekong.
Hội nghị cấp cao về Hợp tác Kinh tế Tiểu vùng sông Mekong lần thứ
nhất đợc tổ chức tại Phnom Penh đã xây dựng tầm nhìn của một Tiểu vùng
thịnh vợng, hài hoà và thống nhất, tăng trởng kinh tế nhanh, tiến bộ xã hội và
phát triển môi trờng bền vững. Đến năm 2005 các nhà Lãnh đạo của Chính
phủ sáu quốc gia một lần nữa tham dự Hội nghị cấp cao lần thứ hai về Hợp
tác Kinh tế Tiểu vùng sông Mekong mở rộng tổ chức tại Côn Minh, Vân
Nam, Trung Quốc. Trong Hội nghị lần này các nớc tái khẳng định cam kết
thực hiện tầm nhìn GMS và xác định thực hiện các chơng trình phát triển
nhằm phát huy hết tiềm năng to lớn của mình, xoá bỏ đói nghèo và tạo sự
phát triển bền vững cho tất cả các nớc trong khu vực. Mối quan hệ hợp tác
giữa các nớc đợc thúc đẩy trên nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung vào giao
thông vận tải, nông nghiệp, ng nghiệp, du lịch, môi trờng, bu chính viễn
thông và nhiều lĩnh vực khác.
8


Về giao thông, các nớc đang nỗ lực thực hiện các thoả thuận về xây
dựng các tuyến đờng bộ Xuyên á, đặc biệt là tuyến đờng bộ liên quan đến sự

hình thành và phát triển Hành lang Bắc- Nam, Đông- Tây để kết nối các
vùng có nhiều tiềm năng phát triển. Từ các trục chính này, mỗi nớc sẽ xây
dựng các đờng xơng cá, hình thành mạng lới giao thông thống nhất. Tơng
tự nh vậy, sẽ xây dựng mạng lới sân bay, tạo thuận lợi cho phát triển du lịch
và thơng mại. Mạng lới đờng thuỷ có liên quan đến hệ thống sông Mekong
cũng đang đợc khai thác đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hoá và hành khách.
Công nghệ thông tin và Bu chính viễn thông cũng là một lĩnh vực có
nhiều tiềm năng hợp tác phát triển trong Tiểu vùng. Việc liên kết xây dựng
mạng cáp quang ven biển đã đợc triển khai thành công, trong đó mạng viễn
thông Thái Lan- Campuchia- Việt Nam là một ví dụ điển hình. Về vấn đề
năng lợng, các hiệp định mua bán điện trong Tiểu vùng Mekong và các hiệp
định song phơng giữa các nớc về mua bán điện và về hợp tác phát triển
nguồn và lới điện cũng đang đợc dần mở rộng để phồi hợp xử lý sự gia tăng
nhanh nhu cầu về điện và năng lợng trong Tiểu vùng.
Mục tiêu chung của cả sáu quốc gia trong Tiểu vùng sông Mekong đó
là rút ngắn khoảng cách giữa các nớc, xoá đói giảm nghèo và phấn đấu vì sự
phồn vinh của mỗi dân tộc và của cả Tiểu vùng. Tính bền vững trong sự phát
triển của Tiểu vùng Mekong mở rộng tuỳ thuộc vào sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Và để làm đợc điều đó các nớc đang cố gắng nỗ lực đẩy
mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực, thực hiện các chơng trình hành động
chung nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên, nhất là nguồn nớc
dòng sông Mekong, đáp ứng tốt lợi ích và yêu cầu phát triển bền vững của cả
sáu quốc gia trong Tiều vùng và yêu cầu bảo vệ môi trờng thiên nhiên. Vấn
đề quan trọng là xây dựng đợc các chơng trình hành động cụ thể, huy động
đợc các nguồn lực trong Tiểu vùng Mekong và sự hỗ trợ của quốc tế để phát
triển và vì lợi ích lâu dài của các bên. Cũng trong Hội nghị cấp cao về Hợp
tác Kinh tế các nớc Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng lần thứ hai, các nớc
đã thoả thuận về những chính sách và giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh chơng trình hợp tác GMS đã đợc đề cập trong Khuôn khổ Chiến lợc hợp tác
Tiểu vùng GMS. Trong đó tập trung vào bốn lĩnh vực chính:
Thứ nhất là củng cố cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển đặc biệt là giao

thông vận tải với việc phát triển chiến lợc ngành giao thông vận tải Tiểu vùng
9


trong năm tới. Chiến lợc này xác định các mắt xích giao thông quan trọng
không chỉ trong các nớc GMS mà còn với các nớc láng giềng Nam và Đông
Nam á. Các nớc nhất trí sẽ hoàn thành các mắt xích giao thông chính dọc
hành lang Đông- Tây đến năm 2008, hành lang Bắc- Nam và hành lang ven
biêt phía Nam đến năm 2010. Thêm vào đó là việc mở rộng quan hệ hợp tác
về hạ tầng cơ sở giao thông, bao gồm cả đờng sắt, đờng không và đờng thuỷ.
Thứ hai là cải thiện môi trờng đầu t và thơng mại. Chơng trình GMS
cam kết tạo ra một môi trơngd cạnh tranh và định hớng đối với việc phát
triển khu vực t nhân, thơng mại và đầu t. Khung Chiến lợc hành động thúc
đẩy thơng mại và đầu t (SFA- TFI) đợc thông qua, trong đó có các cam kết
về giới hạn thời gian, các giải pháp cụ thể nhằm giảm các chi phí giao dịch
đối với thơng mại và kinh doanh trong Tiểu vùng.
Thứ ba là tăng cờng cơ sở hạ tầng xã hội và môi trờng. Hạ tầng cơ sở
xã hội là một yếu tố then chốt để thực hiện viễn cảnh cho một sự thịnh vợng
chung và giảm sự chênh lệch về phát triển. Mục tiêu chính là nỗ lực xoá đói
giảm nghèo và phân phối cân bằng lợi ích của tăng trởng. Bên cạnh đó, bảo
vệ và quản lý bền vững môi trờng và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên ở lu vực sông Mekong cũng đợc coi là vấn đề sống còn đối với sự phát
triển bền vững của Tiểu vùng. Sáng kiến về hành lang đa dạng sinh học và kế
hoạch hành động ba năm đã bắt đầu đợc thực hiện nhằm bảo tồn đa dạng
sinh học và các khu vực đợc bảo vệ ở các hành lang kinh tế trong quá trình
phát triển.
Thứ t là huy động tài chính và đẩy mạnh quan hệ đối tác. Để tìm kiếm
nguồn tài chính cần thiết cho việc thực hiện các chơng trình phát triển u tiên,
cộng đồng các đối tác phát triển là những đồng minh tin cậy. Các mối quan
hệ đối tác đợc mở rộng trên cả khu vực t nhân, các tổ chức xã hội và các

viện nghiên cứu.
Hội nghị cấp cao các nớc Tiểu vùng sông Mekong mở rộng đã đa hợp
tác Tiểu vùng lên một tầm cao mới, tất cả vì sự thịnh vợng của mỗi quốc gia
và của cả Tiểu vùng. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt đuợc, mỗi
nớc và cả Tiểu vùng đang đứng trớc những thách thức to lớn. Đó là tình trạng
đói nghèo và kém phát triển, thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp gây nhiều
thiệt hại. Để giải quyết những vấn đề đó, các nớc trong Tiểu vùng đang nỗ

10


lực phối hợp tìm kiếm các giải pháp khắc phục đói nghèo, lạc hậu, từng bớc
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
1.2.2 Hợp tác du lịch đa phơng- chìa khoá để thúc đẩy kinh tế và giảm
đói nghèo.
Trong thông cáo báo chí của Hội nghị cấp cao lần thứ hai Tiểu vùng
sông Mekong mở rộng, Lãnh đạo các nớc đã khẳng định: Du lịch là lĩnh vực
chủ yếu tạo ra nhiều việc làm trong Tiểu vùng GMS và mang lại những lợi
ích cụ thể cho ngời dân trong khu vực. Du lịch đợc xem là một lĩnh vực có
lợi thế cạnh tranh của Tiểu vùng GMS. Trong số sáu quốc gia thuộc Tiểu
vùng GMS, có đến 5 quốc gia có Di sản thế giới với nhiều điểm du lịch nổi
tiếng, hấp dẫn. Từ đó ý tởng về Sáu quốc gia- một điểm đến ra đời và đợc
ủng hộ, minh chứng cho một bớc tiến quan trọng trong quá trình hợp tác Du
lịch của các nớc trong Tiểu vùng. Những kiến nghị của Nghiên cứu Chiến lợc
Du lịch Tiểu vùng GMS đa ra hớng tiếp cận có tính chất điều phối và chính
thống đối với phát triển du lịch, bao gồm việc thực hiện các dự án u tiên cao
và xúc tiến du lịch môi trờng sinh thái và chống đói nghèo đợc Chính phủ
các nớc rất hoan nghênh. Từ đó các nớc đang xúc tiến việc thúc đẩy mạnh
mẽ việc tiếp thị Tiểu vùng GMS nh một điểm đến du lịch duy nhất và khuyến
khích tiếp tục công việc xây dựng thị thực chung GMS. Việc liên kết các nớc

trong Tiểu vùng trong việc tạo ra một sản phẩm du lịch chung sẽ là một giải
pháp nhằm làm phong phú hơn nguồn tài nguyên du lịch, đồng thời có khả
năng tạo ra những nét ấn tợng, độc đáo mang bản sắc rất riêng của Tiểu
vùng.
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc. Chính vì vậy
nó không chỉ là một trong những công cụ nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển mà còn là chìa khoá để phát triển xã hội, giảm đói nghèo và mang lại
nhiều lợi ích cho ngời dân địa phơng. Du lịch bằng đờng bộ và đờng thuỷ nối
liền các nớc trong Tiểu vùng chủ yếu đi qua các tỉnh miền núi, địa bàn của
các dân tộc thiểu số, nơi kinh tế còn nghèo nàn và đời sống lạc hậu. Một ví
dụ điển hình nh tour du lịch qua ba nớc Việt Nam- Lào- Thái Lan. Bắt đầu từ
Huế- cố đô của Việt Nam xa tới Vinh rồi qua quốc lộ 8 sang Lào, đến Xiêng
Khoảng- Cánh đồng Chum nổi tiếng đầy bí ẩn rối tới Luôngphabăng- một

11


cụm di tích nổi tiếng đợc công nhận là di sản văn hoá thế giới, từ đó tiếp tục
đi bằng đờng thuỷ trên dòng Mekong vợt qua biên giới Lào- Thái tới Chiang
Rai, Chiang Mai (Thái Lan). Nếu phát triển những tour du lịch nh thế này, du
khách không chỉ đợc trải nghiệm và tận hởng khung cảnh thiên nhiên hùng
vĩ mà còn đem đến cho ngời dân địa phơng những vùng mà họ đi qua cơ hội
cải thiện đời sống. Ngời ta không thể phủ nhận những lợi ích mà du lịch đem
lại cho địa phơng nh việc làm, tái phân chia thu nhập xã hội, cải thiện và phát
triển cơ sở hạ tầng, giảm đói nghèo và nhiều lợi ích khác nh bảo tồn và phát
triển văn hoá truyền thống Nhất là đối với những vùng biên giới, vùng dân
tộc thiểu số thì phát triển du lịch cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu
để nâng cao đời sống ngời dân.
Năm 1997, đáp ứng cho nhu cầu cần phải có một tổ chức hành chính
cho hoạt động hợp tác du lịch giữa các nớc thuộc Tiểu vùng sông Mekong,

Cơ quan Hợp tác Du lịch Tiểu vùng Mekong đã ra đời, gọi tắt là AMTA
(Agency for Coordinating Mekong Tourim Activities). Tổ chức AMTA đợc
coi là một bớc tiến quan trọng trong tiến trình hợp tác Du lịch các nớc GMS.
Với một cơ cấu tổ chức khoa học, nó đảm bảo cho các chơng trình hành
động chung của cả sáu quốc gia đợc diễn ra một cách thuận lợi và đảm bảo
cho hoạt động hợp tác bền vững và hiệu quả. AMTA nhận đợc tài trợ và ủng
hộ từ Chính phủ các nớc, các tổ chức quốc tế nhằm xúc tiến Du lịch Tiểu
vùng Mekong nh một điểm đến duy nhất, đồng thời xoá bỏ những rào cản về
kinh tế, xã hội, tự nhiên ngăn cản sự phát triển Du lịch của Tiểu vùng.
Nhiệm vụ chính của AMTA là xây dựng các chơng trình hành động chung về
Du lịch cho Tiểu vùng GMS, làm việc với các tổ chức quốc tế nh ESCAP,
ADB, PATA và chuẩn bị cho các cuộc nhóm họp thờng niên về Du lịch.
Bên cạnh đó, AMTA cũng là tổ chức chịu trách nhiệm tìm kiếm nguồn kinh
phí cho các dự án về du lịch của GMS.
Một trong những hoạt động chính về Du lịch của các nớc Tiểu vùng
sông Mekong là Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong (Mekong Tourism
Forum). Diễn đàn này tổ chức các Hội nghị thờng niên nơi những nhà lãnh
đạo cấp Nhà nớc về Du lịch cùng bàn bạc và đa ra các chơng trình hành động
cũng nh các chính sách chung, bàn về mối quan hệ hợp tác du lịch giữa các
nớc trong Tiểu vùng. Diễn đàn khuyến khích tất cả các thành phần từ Nhà nớc đến t nhân cùng hợp tác và nỗ lực cho việc tiếp thị và xúc tiến cho Chơng
12


trình Sáu đất nớc- một điểm đến, để Tiểu vùng Mekong mở rộng trở thành
một trong những điểm đến phát triển nhanh nhất thế giới. Kể từ năm 1996
khi lần đầu tiên PATA đứng ra tổ chức Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong,
cho đến nay chín Diễn đàn và 16 kỳ họp đã liên tục đợc tổ chức. Một số Diễn
đàn và kỳ họp gần đây có thể kể đến:
Năm 2001: Tháng 3- 4/2001: Hội nghị các nớc GMS về Du lịch lần thứ 12
đợc tổ chức tại Côn Minh, Trung Quốc.

Năm 2002: Tháng 4/2002: Tổ chức Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong
lần thứ 7 và Hội nghị các nớc GMS về Du lịch lần thứ 13.
Năm 2003: Tháng 3/2003: Tổ chức Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong
lần thứ 8 đồng thời tổ chức Hội nghị các nớc GMS về Du lịch
lần thứ 14 tại Hà Nội bàn về những giải pháp giảm thiểu ảnh
hởng của thảm dịch SARS đến du lịch.
Năm 2004: Tháng 3/2004: Tổ chức Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong
mở rộng lần thứ 9 và Hội nghị các nớc GMS về Du lịch lần thứ
mời lăm.
Tháng 9/2004: Seminar về tác động của Du lịch trong việc xoá
giảm đói nghèo của Tiểu vùng.
Năm 2005: Tháng 1/2005: Tổ chức Hội nghị lần thứ hai về việc lập thị thực
chung cho các nớc thuộc Tiểu vùng.
Tháng 2/2005: Hội thảo lần thứ nhất bàn về Chiến lợc Du lịch
GMS.
Tháng 3/2005: Tổ chức Hội nghị các nớc GMS về Du lịch lần
thứ 16 và Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong lần thứ 10 tại
Siem Reap, Campuchia.
Tháng 6/2005: Hội thảo lần thứ 3 đa ra bản phác thảo về Chiến
lợc Du lịch GMS.
Diễn đàn Du lịch Tiểu vùng Mekong đợc tổ chức tại Siem Reap,
Campuchia vừa qua với tên gọi Celebrating a Decade of Co-operation (Kỷ
niệm mời năm hợp tác) đã kỷ niệm một thập kỷ thành công trong tiến trình
hợp tác Du lịch giữa các nớc trong Tiểu vùng. Diễn đàn cũng nêu ra ba mục
tiêu chính mà cả sáu quốc gia đang phấn đấu đạt đợc trong thời gian tới Six
Nations, Three Common Goals (Sáu quốc gia, ba mục tiêu chung). Đó là:
13


Thứ nhất: Thiết lập và mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa các nớc

nhằm phát triển và xúc tiến GMS nh một điểm đến duy nhất.
Thứ hai: Đa ra những cơng lĩnh, nền tảng cho cả khu vực Nhà nớc và
t nhân trong việc tụ họp, bàn bạc, thảo luận và chỉ ra những vấn đề của Du
lịch Tiểu vùng Mekong.
Thứ ba: Mở rộng mạng lới tiếp thị và cơ hội cho việc xúc tiến Du lịch
Tiểu vùng Mekong.
Với những nỗ lực cho một GMS thịnh vợng và phát triển, đặc biệt trên
lĩnh vực Du lịch, tiến trình hợp tác Du lịch Tiểu vùng sông Mekong đã thu đợc nhiều thành tựu đáng kể. Đó là một loạt các chơng trình hợp tác Du lịch
song phơng và đa phơng trong khuôn khổ Tiểu vùng sông Mekong nh: Ba
đất nớc- một điểm đến giữa Thái Lan- Lào- Việt nam hay Việt Nam- LàoCampuchia; Hai vơng quốc- một điểm đến giữa Thái Lan- Myanmar; các
tour theo đờng sông Mê Kông qua các thắng cảnh nổi tiếng của Thái Lan,
Lào, Viẹt Nam Bên cạnh đó là rất nhiều sự hợp tác trên các lĩnh vực khác
liên quan trực tiếp đến du lịch nh hợp tác về giao thông vận tải. Đó là việc
xúc tiến xây dựng các đờng quốc lộ xuyên quốc gia theo hành lang ĐôngTây, Bắc- Nam, tạo hành lang phát triển kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác phát triển du lịch. Thêm vào đó là
hợp tác mở rộng các tuyến đờng bay nối liền các nớc trong Tiểu vùng, trong
đó có các tuyến đờng bay giá rẻ tăng cơ hội cho việc phát triển du lịch. Các
nớc trong Tiểu vùng cũng đang xúc tiến thực hiện những mục tiêu, chơng
trình đã đề ra, nhất là xúc tiến thực hiện thị thực chung GMS. Và Du lịch
Tiểu vùng Mekong với rất nhiều tiềm năng đang dần chính tỏ những thế
mạnh của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, giảm đói nghèo và
mang lại nhiều lợi ích trong tiến trình hợp tác.
Chơng 2: Các chơng trình hợp tác phát triển Du lịch
giữa các nớc Tiểu vùng Mekong.
2.1 Các chơng trình hợp tác, xúc tiến Du lịch Tiểu vùng Mekong của tổ
chức AMTA.
2.1.1 Xúc tiến và quảng bá Du lịch Tiểu vùng sông Mekong Sáu đất nớc- một điểm đến .
14



Mục tiêu của chơng trình là khuyến khích việc phát triển Du lịch đa
quốc gia trong Tiểu vùng GMS bằng cách kích thích nhu cầu từ thị trờng đặc
biệt là thị trờng khách có khả năng chi trả cao, bằng việc tham gia vào các
hoạt động xúc tiến chung. Đó là việc xúc tiến sự phát triển của Du lịch Tiểu
vùng Mekong trên nhiều loại hình nh du lịch văn hoá, du lịch thiên nhiên, du
lịch sinh thái, du lịch mạo hiểmThêm vào đó là phát triển và bổ sung các
chơng trình xúc tiến trên diện rộng hơn và kéo dài hơn nhằm tạo ra hình ảnh
về Du lịch Mekong trong mắt du khách.
Hàng năm tại các Hội chợ Thơng mại Châu á hay Hội chợ Thơng mại
Châu Âu, AMTA vẫn thờng xuyên tổ chức các gian hàng giới thiệu về Du
lịch GMS. Các bản đồ, brochure về GMS đợc xuất bản và cập nhật thông tin
thờng xuyên. Trang web chính thức giới thiệu về Du lịch GMS vẫn đợc duy
trì. Tính đến hết năm 2004, chơng trình đã đạt đợc rất nhiều thành tựu.
Tháng 9/2004, gian hàng giới thiệu về GMS đã đợc trng bày tại hội chợ du
lịch PATA đợc tổ chức ở Bangkok, Thái Lan. Tiếp đến là Hội chợ du lịch
quốc tế Trung Quốc đợc tổ chức từ 25- 28/11/2004 tại Thợng Hải. Tổng cục
Du lịch Trung Quốc đã dành cho AMTA một khoảng không gian khá rộng để
trng bày và tiếp thị thông tin về Du lịch Tiểu vùng sông Mekong. 3000 tờ gấp
GMS for Special Interests (GMS và những điều lý thú đặc biệt) đã đợc phát
tại Hội chợ du lịch PATA. Những tờ gấp này cung cấp cho ngời xem nhung
trông tin về những hoạt động đặc biệt hấp dẫn cùng với các chơng trình du
lịch trong các nớc Tiểu vùng Mekong. Những ngời quan tâm có thể ghé thăm
trang web chính thức của GMS www.visit-mekong.com đợc cập nhật thờng
xuyên bởi Asia Web Direct. Trang web này gần đây cũng đã đợc cải thiện để
có thể sử dụng thơng mại điện tử trong việc thu hút thêm nhiều khách du lịch
bởi nó cho phép họ thực sự có thể xây dựng, đặt tour và thanh toán trực tiếp
trên mạng. Chơng trình sẽ tiếp tực đợc thực hiện bằng việc đa ra các kế
hoạch marketing cụ thể cho giai đoạn từ tháng 4/2005 đến tháng 3/2006
đồng thời tìm kiếm nguồn tài chính để thực hiện các kế hoạch đó.
2.1.2 Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ Du lịch

Mục tiêu của Chơng trình là cùng lên kế hoạch và phát triển cơ sở hạ
tầng phục vụ cho Du lịch của các nớc Tiểu vùng GMS trên cơ sở bảo vệ môi
trờng tại những vùng trọng yếu, mở rộng giao thông tạo điều kiện thuận lợi
15


cho việc tiếp cận với những điểm đến kế tiếp. Chơng trình này bao gồm 11
dự án nhỏ đợc thực hiện ở 3 quốc gia là Việt Nam, Lào và Campuchia:
Campuchia:
1. Cải thiện môi trờng ở Siem Reap
2. Cải thiện chất lợng đờng tới Khu tởng niệm Genocide
3. Nâng cấp sân bay Rattana Kiri
4. Nâng cấp sân bay Stung Treng
Lào:
5. Nâng cấp sân bay Luang Namtha
6. Cải thiện đờng tới Động Konglor
7. Cải thiện đờng tới thác nớc Kwangsi
Việt Nam:
8. Cải thiện môi trờng ở tỉnh An Giang
9. Phát triển các bến tầu du lịch ở An Giang
10. Phát triển bến tầu du lịch Mỹ Tho ở Tiền Giang
11. Cải thiện môi trờng ở Tiền Giang
2.1.3 Phát triển nguồn nhân lực.
Mục tiêu của chơng trình là nâng cao kỹ năng của những nhà lãnh đạo
và những giảng viên đào tạo trong lĩnh vực du lịch của Tiểu vùng sông
Mekong. Đây đợc coi là một trong những chơng trình quan trọng của GMS
trong vài năm tới. Hội nghị APETIT các nớc Châu á Thái bình Dơng về giáo
dục và đào tạo Du lịch đã đợc tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10/2005. 54 các
cơ quan đào tạo về du lịch, các tổ chức phi chính phủ và thành viên của các
nớc GMS đã tham gia vào Hội nghị, cùng đa ra các bản tham luận và thảo

luận về việc phát triển giáo dục và đào tạo Du lịch.
Bản phác thảo về Chiến lợc phát triển nguồn nhân lực đã đợc chuyển
tới Ngân hàng phát triển Châu á ADB và sẽ đợc trình bày trong Diễn đàn Du
lịch Tiểu vùng Mekong vào năm tới.

2.1.4 Nâng cao chất lợng quản lý nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân
văn phục vụ cho công tác bảo tồn và phát triển Du lịch.

16


Một trong những mục tiêu trong thời gian tới của Cơ quan hợp tác phát
triển Du lịch Tiểu vùng Mekong là nâng cao đợc chất lợng quản lý nguồn tài
nguyên tự nhiên và nhân văn phục vụ cho công tác bảo tồn và phát triển Du
lịch. Năm trong số sáu quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mekong có di sản
thiên nhiên thế giới, đồng thời dòng sông Mekong còn mang đến cho các
quốc gia này rất nhiều giá trị về mặt tự nhiên. Vì thế công tác bảo vệ nguồn
tài nguyên, bảo vệ môi trờng và bảo tồn các di sản văn hoá và tài nguyên
nhân văn chiếm vai trò quan trọng trong chiến lợc phát triển Du lịch của Tiểu
vùng. AMTA đã xây dựng dự án đạo tạo nâng cao chất lợng quản lý tài
nguyên cho các nhà quản lý Du lịch của cả sáu quốc gia. Các chơng trình
đào tạo này sẽ tập trung vào các lĩnh vực nh lịch sử tự nhiên, sinh thái học,
lịch sử nghệ thuật, khảo cổ học, các kỹ năng để phát triển du lịch văn hoá,
quản lý và bảo tồn các di sản
Tháng 8 năm 2000, AMTA đã hợp tác với ngành Châu á học thuộc
Hiệp hội các trờng Đại học Canada tổ chức một khoá học giới thiệu về quản
lý di sản và du lịch văn hoá cho 18 thành viên từ 6 quốc gia GMS. Đến tháng
8 năm 2004, Văn phòng phát triển Du lịch, Bộ Du lịch và Thể thao Thái Lan
đã tổ chức một khóa đạo tạo về quản lý nguồn tài nguyên mang giá trị lịch sử
trong Du lịch. Khóa học này đợc thiết kế bởi Khoa Quản lý lữ hành, trờng

Đại học Hawaii để đạo tạo các văn phòng chính phủ của các nớc trong Tiểu
vùng Mekong về kỹ năng quản lý nguồn tài nguyên nhân văn và công tác
bảo tồn. Vấn đề quản lý bền vững nguồn di sản văn hoá đợc các nớc trong
Tiểu vùng đặc biệt quan tâm bởi đây chính là những điểm hấp dẫn khách du
lịch nhất. Nếu không có kỹ năng và chiến lợc quản lý bền vững, số lợng
khách du lịch càng đông, sự tổn thất và mất mát càng lớn.
2.1.5 Tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến và đi du lịch trong Tiểu
vùng.
Để đạt đợc mục tiêu thu hút khách du lịch tới Tiểu vùng GMS cũng
nh đi du lịch quanh các nớc trong Tiểu vùng, các quốc gia đang phối hợp
thực hiện các chính sách chung nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
khách du lịch trong quá trình di chuyển giữa các quốc gia này. Theo Hiệp
định đợc ký kết từ Hội nghị cấp cao các nớc Tiểu vùng sông Mekong, một

17


nghiên cứu cấp vĩ mô về các dòng khác du lịch qua GMS đã đợc thực hiện từ
năm 1998. Nghiên cứu này đợc chia làm ba giai đoạn chính:
- Giai đoạn thứ nhất (1999- 2001), nghiên cứu về dòng khách du lịch
qua các cửa ngõ của Tiểu vùng.
- Giai đoạn thứ hai (2002- 2006), nghiên cứu dòng khách qua các
trung tâm Du lịch của Tiểu vùng.
- Giai đoạn ba (2007- 2013), nghiên cứu dòng khách du lịch vòng
quanh các nớc trong Tiểu vùng.
Sau khi Hành lang kinh tế Đông tây (EWEC) đợc thực hiện, các nớc
cũng đang xúc tiến việc quảng bá du lịch trong hành lang kinh tế Đông tây
bằng việc thực hiện một loạt các dự án nh: Xúc tiến và quảng bá Du lịch
trong EWEC; phát triển cơ sở hạ tầng du lịch trong EWEC; đào tạo các kỹ
năng du lịch cơ bản cho các văn phòng du lịch EWEC; kiểm kê đánh giá

nguồn tài nguyên tự nhiên, văn hoá, lịch sử trong EWEC
Tại cuộc họp thợng đỉnh các nớc Tiểu vùng sông Mekong tháng 11
năm 2002, trong kỳ họp về lĩnh vực Du lịch, các nớc đã cùng tán thành cho ý
tởng xây dựng thị thực chung GMS. Thị thực chung GMS có thể tởng tợng
giống nh thị thực chung Châu Âu. Ngân hàng phát triển Châu á ADB đợc
khuyến khích tham gia xây dựng và hỗ trợ các nớc thực hiện thành công chơng trình này. Hiện nay Thái Lan và Campuchia đang lên kế hoạch để áp
dụng chế độ visa du lịch chung cho du khách nhằm thúc đẩy du lịch của khu
vực. Ba nớc khác trong khu vực là Việt Nam, Lào, Myanmar cũng sẽ tham
gia chơng trình visa du lịch chung này sau khi Thái Lan và Campuchia lập ra
các chi tiết, thực hiện chơng trình và chỉ ra các khó khăn cụ thể.
2.2 Một số hoạt động hợp tác du lịch tiêu biểu giữa Việt Nam với các nớc
trong Tiểu vùng Mekong.
2.2.1 Việt Nam- Lào- Thái Lan Ba đất nớc- một điểm đến
Trong khuôn khổ hợp tác đa phơng, Việt Nam-Lào-Thái Lan đã cùng
tổ chức nhiều tour du lịch trọn gói và khuyến khích Du lịch đờng bộ (đờng 8
và đờng 9) với chơng trình Ba đất nớc- một điểm đến. Dới đây là một vài

18


ví dụ về các tour du lịch trọn gói đã đợc tổ chức trong chơng trình Ba đất nớc- một điểm đến:
Tour thứ nhất đi theo đờng quốc lộ 8:
Ngày 1: Bangkok- Nakhon Phanom (Thái Lan)
Ngày 2: Nakhon Phanom- Thakhek- Lak Xao (Lào)
Ngày 3: Lak Xao- Cầu Treo- Vinh (Việt Nam)
Ngày 4: Vinh- Ninh Bình- Hà Nội- Hạ Long
Ngày 5: Hạ Long- Hải Phòng- Hà Nội
Ngày 6: Hà Nội- Bangkok
Tour thứ hai đi theo đờng quốc lộ 9:
Ngày 1: Bangkok- Ubon Ratchathani (đờng hàng không)- Mukdahan

Ngày 2: Mukdahan- Savannakhet- Phalan- Mueang Phin
Ngày 3: Mueang Phin- Ban Daen Sawan- Lao Bảo- Đông Hà
Ngày 4: Đông Hà- Huế
Ngày 5: Huế- Đà Nẵng- Hội An
Ngày 6: Hội An- Đà nẵng- Bangkok
Tour thứ ba theo đờng quốc lộ 9:
Ngày 1: Bankok- Sakon Nakhon- Mukdahan
Ngày 2: Mukdahan- Savannakhet- Phalan- Mueang Phin
Ngày 3: Mueang Phin- Ban Daen Sawan- Lao Bảo- Đông Hà
Ngày 4: Đông Hà- Huế
Ngày 5: Huế- Đà Nẵng- Hội An
Ngày 6: Hội An- Đà Nẵng- Hồ Chí Minh
Ngày 7: Hồ Chí Minh- Bangkok
Về phía Việt Nam trong quá trình hợp tác, Tổng cục Du lịch Việt Nam
đã chủ động làm việc với các địa phơng và doanh nghiệp liên quan tiến hành
khảo sát, chuẩn bị nội dung cho phiên họp kinh tế 3 bên tại Savannakhet
(Lào). Phiên họp này bàn về vấn đề hình thành và tổ chức khai thác tuyến du
lịch đờng bộ nối liền 3 nớc, đồng thời tháo gỡ những khó khăn để thu hút
khách vào Việt Nam qua cửa khẩu đờng 8 và đờng 9. Nhìn trên bản đồ đờng
bộ các nớc Tiểu vùng sông Mekong, có thể thấy hàng loạt tuyến đờng xuyên
quốc gia. Nếu ở phía Đông (điểm cuối cuẩ hai tuyến đờng tại Việt Nam) là
những bãi biển dài từ Đà Nẵng tới Nghệ An với những di sản thế giới tuyệt

19


đẹp của miền Trung nh Hội An, Huế, hay Phong Nha thì ở phía Tây là những
chùa vàng rự rỡ với những đặc trng văn hóa của vùng Đông- Bắc Thái Lan
và Lào đất nớc triệu voi. Du khách quốc tế khi đến vùng đông bắc Thái Lan
có thể tiếp tục cuộc hành trình qua Lào sang Việt Nam và ngợc lại. Theo

nhận định của các công ty Du lịch, chơng trình Ba đất nớc- một điểm đến
là một trong những tour du lịch hứa hẹn thu hút đợc nhiều du khách.
Hợp tác du lịch trên quy mô vừa và nhỏ giữa các công ty lữ hành, đơn
vị kinh doanh du lịch của các nớc cũng đang rất phát triển. Các công ty du
lịch Thái Lan và cả Myanmar trong mấy tháng qua đã bắt đầy đa nhiều đoàn
khách có quy mô trên 100 ngời sang Lào và Việt Nam từ cửa khẩu
Mukdahan và Lao Bảo bằng ôtô bus cùng phối hợp với các công ty Du lịch
Việt Nam nh Saigontourist, Tân Hồng, Vitour, Hơng Giang, Danatourvới
giá bình quân từ 140- 150 USD/ngời tuỳ theo thời gian lu trú 5 ngày 4 đêm
hay 4 ngày 3 đêm. Các tuor này chủ yếu là các tour Caravan (du lịch đờng
bộ) men theo con đờng Xuyên á. Bình quân mỗi đơn vị trong năm 2005 đón
khoảng 1000 khách, nh vậy tổng số du khách qua đờng bộ theo quốc lộ 9
đến Việt Nam có thể lên đến gần 10.000 lợt.
Trong quá trình hợp tác, Việt Nam luôn khuyến khích sự tham gia của
khu vực kinh doanh và tăng cờng thắt chặt các mỗi quan hệ sẵn có giữa khu
vực quản lý Nhà nớc và khu vực kinh doanh. Đồng thời gắn chơng trình xúc
tiến của Việt Nam với định hớng chung của Tiểu vùng thông qua trao đổi
thông tin và kinh nghiệm du lịch, phối hợp điều hoà chính sách và các chơng
trình Du lịch chung nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
2.2.2 Việt Nam- Lào- Campuchia và Chiến lợc Tam giác phát triển
Nh thoả thuận của Hội nghị Cấp cao lần thứ 2 ngày 26/1/2003 tại
thành phố Hồ Chí Minh, Thủ tớng Vơng quốc Campuchia Samdec Hun Sen,
Thủ tớng nớc CHDCND Lào Boungnang Volachit và Thủ tớng Việt Nam
Phan Văn Khải đã tiến hành Hội nghị cấp cao lần thứ ba về Tam giác phát
triển vào ngày 21/7/2004 tại Siem Reap, Campuchia. ý tởng về Tam giác
phát triển đợc Thủ tớng Samdec Hun Sen đề xuất năm 1999, cho đến nay đã
thu đợc một số thành tựu trong quá trình hợp tác thực hiện theo bản Quy
hoạch tổng thể về phát triển Kinh tế- xã hội đem lại lợi ích cho nhân dân ba
nớc. Các dự án và chơng trình hợp tác nêu trong Bản Quy hoạch này đều đợc
20



đa vào khuôn khổ hợp tác của Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) và
ASEAN.
Trong thời gian trớc mắt, các dự án hợp tác đợc u tiên trên các lĩnh vực
cụ thể nh xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải nối liền các tỉnh
trong Tam giác phát triển, triển khai các dự án thúc đẩy thơng mại, thúc đẩy
hợp tác du lịch nhằm thực hiện ý tởng Ba đất nớc- một điểm đến. Tuy
nhiên cho đến nay, sự hợp tác du lịch trong Tam giác phát triển mới chỉ dừng
lại chủ yếu ở hợp tác song phơng giữa Việt Nam- Lào, hay Việt NamCampuchia và phần lớn là ở khu vực t nhân nhiều hơn. Khá nhiều các công
ty du lịch Việt Nam khai thác các chơng trình du lịch đến Lào và
Campuchia, nhất là theo đờng bộ do hai nớc này đều có đờng biên giới
chung với Việt Nam. Nhất là khi mới đây, thêm một cửa khẩu quốc tế nối
Việt Nam và Campuchia. Bên cạnh các chơng trình du lịch từ Việt Nam đến
Lào, Campuchia do hớng dẫn viên Việt Nam đa khách sang, còn có rất nhiều
chơng trình phối kết hợp với các công ty du lịch nớc bạn. Một công ty điển
hình đẩy mạnh khai thác các tour du lịch đến các nớc trong tiểu vùng
Mekong, đặc biệt là Lào, Campuchia, Thái Lan là HG Travel, thuộc Công ty
Du lịch Hơng Giang. Công ty này cũng cho ra đời một website riêng giới
thiệu về các chơng trình du lịch trong tiểu vùng là
www.discoverymekong.com thu hút đợc rất nhiều sự quan tâm của du khách.
Một số công ty du lịch cha đủ điều kiện thực hiện các chơng trình du lịch
trọn gói lại tập trung khai thác thị trờng vận chuyển khách. Phần lớn các
công ty Du lịch ở Hà Nội đều có bán vé xe bus đi Lào (Hà Nội- Sanvanakhet,
Hà Nội- Vientiane), và ở thành phố Hồ Chí Minh là vé xe bus đi
Campuchia (Hà Nội- Phnompenh). Các tuyến xe open bus này thờng là sự
kết hợp giữa các công ty du lịch của các nớc. Ví dụ khi du khách mua vé
open bus Hồ Chí Minh- Mộc Bài- Phnompenh của Sinh Cafe với giá 7USD/ 1
ngời, xe bus của công ty Sinh Cafe sẽ đa khách đến cửa khẩu quốc tế Mộc
Bài. Sau khi làm các thủ tục xuất nhập cảnh cần thiết, xe bus của công ty Du

lịch Capitol Tour (Một công ty du lịch khá nổi tiếng của Campuchia khai
thác thị trờng open bus) sẽ tiếp quản khách của Sinh Cafe và tiếp tục đa
khách đến Phnompenh. Trên phơng tiện, Capitol Tour có điều kiện giới thiệu
cho khách các chơng trình tour tại Campuchia cùng địa chỉ các khách sạn,
nhà nghỉ tại Phnompenh. Thông thờng họ sẽ đa ra một danh sách các khách
21


sạn nhà nghỉ với nhiều mức giá khác nhau cho khách lựa chọn. Đối với
những du khách mới bớc chân đến Campuchia thì rõ ràng đây là một cách
quảng cáo rất hiệu quả. Với cách thức kết hợp nh trên, các công ty du lịch
của mỗi nớc vẫn đang đẩy mạnh hợp tác và rõ ràng sự hợp tác này mang lại
lợi ích trông thấy. Tuy nhiên nh đã nói ở trên, sự hợp tác này chủ yếu vẫn ở
khu vực t nhân, cha có nhiều sự hợp tác trên quy mô lớn giữa ba nớc mang
lại hiệu quả cao. Trong khi đó, sự hợp tác ở tầm vĩ mô giữa các quốc gia
chính là sự mở đờng cho các hoạt động hợp tác ở tầm vi mô giữa các công ty
du lịch, khách sạn, các đơn vị vận chuyển có điều kiện phát triển mạnh và
đem lại hiệu quả thực sự cho các bên tham gia.
2.2.3 Việt Nam- Thái Lan hợp tác phát triển du lịch.
Trong các nớc thuộc Tiểu vùng sông Mekong, có thể nói Thái Lan là
một đối tác quan trọng nhất cuả Việt Nam trên lĩnh vực du lịch. Thái Lan là
một nớc phát triển du lịch mạnh, là một trong những điểm đến hấp dẫn
không chỉ đối với khách du lịch trong khu vực mà trên toàn thế giới bởi dịch
vụ và sản phẩm du lịch chuyên nghiệp. Chính bởi sự chuyên nghiệp và phát
triển này mà Thái Lan là một điểm đến có sức hút lớn đối với khách du lịch
Việt Nam, đồng thời Thái Lan cũng là nớc tích cực nhất trong các chơng
trình hợp tác phát triển du lịch vuơn ra thị trờng các nớc trong khu vực. Rất
nhiều các chơng trình hợp tác ở tầm vi mô và vĩ mô đã đợc thực hiện.
Ngày 31/7/2004 tại Hà Nội, Đại sứ quán Thái Lan tại Việt Nam, Tổng
cục Du lịch và Hãng hàng không Thái Lan đã tổ chức cuộc họp báo giới

thiệu, quảng bá du lịch Thái Lan nhằm tăng cờng hợp tác với ngành Du lịch
Việt nam để cùng phát triển, không chỉ tăng lợng khách mà còn thu hút đợc
nhiều khách từ các nớc thứ ba vào khu vực.
Với mục tiêu tăng cờng hợp tác, liên doanh để thu hút lợng khách du
lịch từ nớc thứ ba đến các nớc trong khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở
rộng, thời gian qua ngành Du lịch Việt Nam và Thái Lan đã có sự hợp tác
chặt chẽ trong khuôn khổ song phơng và đa phơng. Việt Nam và Thái Lan đã
có sự trao đổi về hớng hợp tác, xúc tiến du lịch song phơng và trong khu vực
nh ký hiệp định tạo thuận lợi cho quá cảnh đờng bộ; phối kết hợp giữa Nhà
nớc và t nhân về du lịch; hợp tác giữa các hãng hàng không hai bên. Đặc
biệt, việc thúc đẩy du lịch đợc đánh dấu bằng việc mở những tuyến đờng
22


giao thông quan trọng, có ý nghĩa trong chiến lợc phát triển du lịch ở phía
Bắc là Sơn La, Điện Biên Phủ, Lai Châu. Đờng quốc lộ 9 đang dần hoàn
thiện sẽ khuyến khích du lịch bằng đờng bộ giữa các nớc trong khu vực.
Ngoài ra, dới sự hợp tác của Tiểu vùng sông Mekong còn có đờng 6 nối các
tỉnh phía Bắc Thái- Lào- Việt Nam vào Điện Biên Phủ, hình thành con đờng
du lịch từ Thái Lan và nớc thứ ba khác đến miền Đông Bắc Việt Nam để
tham quan phong cảnh, khám phá vẻ đẹp văn hoá đa dạng. Tại Thái Lan, dự
án Làng Hữu nghị Thái-Việt tại bản Na Choọc, tỉnh Nakhon Phanom- khu di
tích lịch sử mà Bác Hồ đã từng sống và hoạt động Cách mạng cũng đang đợc
triển khai. Đây sẽ trở thành biểu tợng của tình hữu nghị và điểm đến du lịch
lịch sử, văn hoá thu hút khách du lịch hai nớc.
Chơng 3: cơ hội và thách thức cho du lịch việt nam
trong quá trình hội nhập Du lịch Tiểu vùng sông
Mekong.
3.1 Cơ hội cho Du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập
Việt Nam là một nớc có nhiều tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng

về sản phẩm du lịch và có thể kết hợp nhiều loại hình du lịch trong một sản
phẩm. Với các lợi thế đó, thị trờng Du lịch Việt Nam có một tiềm năng cạnh
tranh khá tốt so với các thị trờng du lịch lớn khác trong khu vực. Theo phân
tích của Viện Quản lý Trung ơng thì Du lịch đợc xếp vào nhóm 20 sản phẩm
và dịch vụ có khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam. Phát huy những lợi
thế về tiềm năng Du lịch, chúng ta đang phát triển yếu tố hội nhập của thị
truờng Du lịch Việt Nam, khai thác tiềm năng du lịch của khu vục, thiết lập
một thị trờng du lịch quốc tế chung, nâng cao sức cạnh tranh của thị trờng du
lịch của Việt Nam nói riêng và của Tiểu vùng nói chung.
Thực tế cho thấy sự tuỳ thuộc lẫn nhau của các quốc gia đang ngày
càng đợc khẳng định. Xu thế quốc tế hoá đang ngày càng phát triển và sự ổn
định, hoà bình, cùng hợp tác đã trở thành một trong những xu thế tất yếu của
thời đại. Hợp tác Du lịch giữa các quốc gia cũng không nằm ngoài xu thế đó
khi ngời ta phải đối mặt với những vấn đề nh nguồn khách, nguồn tài
nguyên, vốn, công nghệ, kinh nghiệm Bên cạnh đó là đòi hỏi thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển của những ngành khác có liên
23


quan đã dẫn tới nhu cầu tất yếu cho một sự hợp tác liên quốc gia về du lịch
giữa các nớc trong cùng khu vực. Chính sự liên kết sẽ hạn chế những nhợc
điểm trong Du lịch của mỗi quốc gia, đồng thời khai thác đợc những nét đặc
trng trong sự liên kết giữa các khu vực này với nhau.
Bên cạnh đó, việc liên kết sẽ góp phần tạo ra các sản phẩm mới cho
Du lịch Việt Nam, nâng cao chất lợng sản phẩm dịch vụ, giảm tối đa các thủ
tục và chi phí không cần thiết cho du khách, tăng sức hấp dẫn, hiệu quả đầu
t, kinh doanh cho doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực du lịch. Liên kết trong
phát triển du lịch cũng góp phần khẳng định thơng hiệu Du lịch của mỗi
quốc gia, đồng thời trở thành một động lực làm đổi mới hình thức quảng bá,
xúc tiến, tăng khả năng cạnh tranh nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của

Du lịch Việt Nam trên trờng quốc tế.
Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trờng
hơn cùng với các chơng trình xúc tiến và quảng bá chung của khu vực. Thêm
vào đó là sự học hỏi về kinh nghiệm quản lý và làm du lịch của các nớc trong
khu vực, đặc biệt là Thái Lan- quốc gia có tới hai thành phố nằm trong top
10 thành phố du lịch tốt nhất Châu á năm 2005 (Bangkok và Chiang Mai).
Trong mảng kinh doanh, việc mở rộng liên kết sẽ khắc phục trở ngại của Du
lịch Việt Nam khi hội nhập là các doanh nghiệp du lịch đang hoạt động nhỏ
lẻ, để hình thành các chuỗi liên kết hoặc các tập đoàn đủ mạnh có khả năng
cạnh tranh cao. Nhất là khi Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa thị
trờng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch nớc ngoài tự do vào Việt
Nam, trực tiếp cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa.
Nh đã trình bày ở trên, việc hợp tác giữa các nớc nhằm tạo ra một sản phẩm
chung sẽ làm nâng cao tính hấp dẫn và sức cạnh tranh với du khách khi kết
hợp đợc nhiều điểm đến hấp dẫn của các quốc gia trong cùng một tour. Và vì
thế thu hút đợc nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam.
Hành lang kinh tế Đông Tây EWEC với sự tham gia và hợp tác của
các nớc trong Tiểu vùng sông Mekong cũng mở ra rất nhiều cơ hội phát triển
trên nhiều lĩnh vực trong đó có Du lịch. Đoàn khảo sát tuyến Hành lang kinh
tế Đông Tây bằng đờng bộ do Đại sứ Vơng quốc Thái Lan tại Việt Nam Krit
Kraichitti làm trởng đoàn và Đại sứ các nớc Hà Lan, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha,
Myanmar, Lào, ấn Độ, Mexico, đại diện các Đại sứ Ucraina, Bulgari, Chile,
24


Australis, trởng đại diện Tổ chức quốc tế về di dân Liên hợp quốc (IOM),
Giám đốc chi nhánh Ngân hàng ADB tại Việt Nam và nhiều quan chức thuộc
các cơ quan hữu quan phía Việt Nam đã đợc thực hiện. Hành trình bắt đầu từ
Hà Nội đi thành phố Vinh, qua Quốc lộ số 8 đến thủ đô Vientiane (Lào), tiếp
tục qua các tỉnh Nongkhai, Ubon, Khon Kean (Đông bắc Thái Lan), trở về

Pakses, Savannakhet (Lào), qua cửa khẩu Lao Bảo, Huế và dừng chân tại
Cảng Tiên Sa, Đà Nẵng- điểm cuỗi của Hành lang kinh tế Đông Tây. Chuyến
đi này đã giới thiệu tiềm năng nhiều mặt của Hành lang kinh tế Đông Tây,
trong đó có Du lịch với đại diện các nớc và các tổ chức quốc tế mở ra rất
nhiều cơ hội đầu t.
Khi EWEC hoàn thiện sẽ kéo ngành công nghiệp của các nớc trên
tuyến gần lại với nhau, tạo nên chuỗi điểm nhấn liên hoàn Đà Nẵng- Phú
Bài- Lao Bảo- Savannnakhet- Mukdahan. Thơng mại sẽ mở đờng cho công
nghiệp phát triển bằng những dự án đầu t, tạo điều kiện cho cơ sở hạ tầng
phát triển và từ đó cũng sẽ mở ra thời cơ lớn cho ngành Du lịch.
Hợp tác và hội nhập giữa các quốc gia trong Tiểu vùng nhất là với nớc
láng giềng, nhiều con đờng thông thơng và cửa khẩu quốc tế sẽ đợc mở ra.
Điều đó không những tạo điều kiện cho phát triển thơng mại, cải thiện cơ sở
hạ tầng và nâng cao múc sống của ngời dân tại những vùng biên giới mà còn
góp phần đáng kể vào việc rút ngắn khoảng thời gian đi lại cho du khách trên
những chuyến hành trình xuyên quốc gia. Cửa khẩu Nam Giang nối quốc lộ
14 phía Việt Nam và quốc lộ 16 phía Lào mới đợc khai trơng đã rút ngắn lộ
trình từ Đông Bắc Thái Lan và Nam Lào đến Hội An, Chu Lai và cả Dung
Quất xuống chỉ còn 350 đến 400km. Trong ngày khai trơng, nhiều công ty lữ
hành Việt Nam, Thái Lan và các nhà đầu t đã có mặt. Gần đây một cửa khẩu
nữa nối Việt Nam và Campuchia cũng mới đợc mở. Đây là những điều kiện
thuận lợi cho ngành Du lịch, hứa hẹn nhiều cơ hội hợp tác phát triển cho Du
lịch Việt Nam.
3.2 Những khó khăn và thách thức
Năm 2005, Việt Nam đợc thế giới xếp thứ 7/171 nớc về hoạt động lữ
hành và luôn đợc du khách quốc tế chọn là điểm đến an toàn, thân thiện.
Theo kết quả bình chọn của Diễn đàn Tripso (Hoa Kỳ), Việt Nam nằm trong
25



×