Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu Luận Các Trường Hợp Vô Hiệu Của Hợp Đồng Dân Sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.19 KB, 16 trang )

DANH SÁCH NHÓM
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
NHÓM LỚP:
GVHD:
TÊN ĐỀ TÀI: CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ HIỆU CỦA
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
STT Họ Và Tên

MSSV

Ngày/Tháng/ Ký Tên Điểm
Năm Sinh

1
2
3
4

TRANG 1
TRANG 1


MỤC LỤC
TRANG
Danh Sách Nhóm………………………………………………………………….1
Mục Lục...…………………………………………………………………….……2
Lời Nói Đầu…………………………………………………………………...…...4
CHƯƠNG 1: Khái Niệm Hợp Đồng Dân Sự, Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu……6
1.1 Khái niệm hợp đồng dân sự ……………………………................….....6
1.2 Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu ………….……………..……...….6
CHƯƠNG 2: Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu ………………………………………7


2.1 Các trường hợp vô hiệu của giao dịch dân sự………………………….7
2.1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội……………………………………………………...7
2.1.2 Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo…………………………….7
2.1.3 Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
xác lập, thực hiện……………………………………….........................8
2.1.4 Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn……………..………...8
2.1.5 Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa……………….....9
2.1.6 Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình………………………………………..9
2.1.7 Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình
thức…………………………………………………………………..…10
2.1.8 Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần………………………........10
TRANG 2
TRANG 2


2.2 Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu ……….10
2.3 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu……………………......11
2.4 Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu…………………………………………………………………………..11
Kết Luận………………………………………………………………………….12
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo………………………………………………..15

LỜI NÓI ĐẦU
Hợp đồng dân sự là một mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là một
trong những chế định pháp lý cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội dung luật
TRANG 3
TRANG 3



dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức giao lưu
dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Từ những năm đầu của thời kì đổi mới một loạt các văn bản pháp luật điều
chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989); Pháp
lệnh hợp đồng dân sự (1991) và trong 2 pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và sở
hữu trí tuệ cũng có phần quy định về vấn đề hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995
ra đời và được sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã
được xem xét, quy định một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được
Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 tạo ra một hành
lang pháp lý quan trọng cho giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong
tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật, Hiện nay Việt Nam
đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã
hội. Hơn nữa, từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế Việt
Nam đã từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, quá trình này đã mở ra nhiều
cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Trong đó, các tranh chấp về hợp đồng dân
sự ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp
đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn trong
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự là do các bên không
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Để giải quyết được các tranh chấp
đó một câu hỏi được đặt ra: “Liệu có tồn tại hợp đồng hay không ?” và “Hợp đồng
có hiệu lực hay không ?” để từ đó xác định các bên có quyền và nghĩa vụ gì. Vì
vậy, những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu có vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường, góp phần
nâng cao ý thức của các chủ thể tham gia vào các quan hệ hợp đồng, giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự

bình đẳng trong giao lưu dân sự.
Hợp đồng dân sự vô hiệu là một trong những chế định pháp lý lâu đời nhất và
xuất hiện sớm nhất trong nội dung luật dân sự. Hợp đồng dân sự là một sự khái quát
một cách toàn diện các hình thức giao lưu dân sự phong phú của con người, là một
trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong chế định này, những quy định
về hợp đồng dân sự vô hiệu có một vai trò rất quan trọng, bởi chỉ những hợp đồng
hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên được. Bài làm của
TRANG 4
TRANG 4


nhóm chúng em sau đây xin trình bày về các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân
sự.

CHƯƠNG 1: Khái Niệm Hợp Đồng Dân
Sự, Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu
1.1 Khái niệm hợp đồng dân sự
TRANG 5
TRANG 5


Về cơ bản, một hợp đồng là một sự thỏa thuận về việc sẽ thực hiện hay
không thực hiện một điều gì đó. Một hợp đồng có tính logic có nghĩa là nó có sự
ràng buộc về mặt pháp lý và có hiệu lực. Mỗi điểm thỏa thuận trong hợp đồng đều
phải rõ ràng, có chủ thể đi kèm để tránh những tranh chấp và kiện tụng có thể xảy
ra. Nếu hỏi bất cứ một luật sư nào, họ sẽ trả lời bạn rằng việc kiện cáo rất tốn kém
nhưng lại không hiệu quả để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Hơn nữa, bạn
sẽ mất đi quyền kiểm soát mọi vấn đề liên quan đến tranh chấp khi với sự xuất hiện
toà án.

Theo Điều 388, Bộ Luật Dân Sự Năm 2005 thì: “Hợp đồng dân sự là sự thoả
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Tuy hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự được Bộ luật quy định nhưng
để soạn thảo được một hợp đồng thể hiện ý chí của các bên, bảo đảm không trái
pháp luật và đạo đức xã hội thì là vấn đề không dễ.

1.2 Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên
mong muốn. Đây là nguyên tắc chung mà pháp luật các nước đều ghi nhận. Ở Việt
Nam để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu phải căn cứ vào quy định tại Điều 410,
127 và Điều 122 Bộ luật dân sự 2005. Theo đó hợp đồng dân sự bị vô hiệu khi
không thỏa mãn một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự
2005, là :
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.

TRANG 6
TRANG 6


Vô hiệu theo nghĩa thông thường được hiểu là: “không có hiệu lực, không có
hiệu quả”. Như vậy hợp đồng dân sự vô hiệu chính là hợp đồng không tồn tại theo
quy định của pháp luật, không có hiệu luật pháp lý.

CHƯƠNG 2: Hợp Đồng Dân Sự Vô

Hiệu
2.1 Các trường hợp vô hiệu của giao dịch dân sự (Theo
Bộ Luật Dân Sự 2005)
 2.1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi pham điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội (Điều 128):
Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong
đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Ví Dụ: Hành vi mua bán động vật hoang dã mà không phải cung cấp cho trung
tâm nghiên cứu, sở thú, khu bảo tồn thiên nhiên thì hợp đồng bị coi là vô hiệu.
 2.1.2 Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129):
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
TRANG 7
TRANG 7


Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.
Ví Dụ: A vay nợ B số tiền là 700 triệu đồng, A ký giấy vay nợ đồng ý bán căn
nhà cho B để trả nợ. Việc mua bán này chưa được thực hiện thì A lại bán căn nhà
trên cho C (Hợp đồng mua bán đã qua công chứng). Trong tình huống A sau khi
bán nhà xong, A không chịu trả tiền nợ cho B thì hợp đồng mua bán giữa A và C sẽ
bị coi là vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba
 2.1.3 Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập,

thực hiện (Điều 130):
Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo
yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu
theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập,
thực hiện.
Ví Dụ: Với người chưa đủ 6 tuổi, Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật của
họ xác lập, thực hiện. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được thực hiện các
giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi,
các giao dịch dân sự khác phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì được
tự mình thực hiện các giao dịch dân sự mà không cần có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật (Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2005). Đối với người đã bị Tòa án
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự do nghiện ma túy, nghiện các chất kích
thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình thì các giao dịch dân sự của họ xác lập
và thực hiện phải chịu sự kiểm soát của người đại diện theo pháp luật của họ.
 2.1.4 Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 131):
TRANG 8
TRANG 8


Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch
dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi
nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung
của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.
Ví Dụ: A bán cho B một chiếc máy CNC nhưng A quên không thông báo cho
B biết rằng hệ thống điều khiển của chiếc máy đó đã bị hỏng. B yêu cầu A giảm

bớt giá bán chiếc máy CNC đó hoặc thay thế hệ thống điều khiển mới nhưng A
không chấp nhận. B có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch mua bán chiếc máy
CNC đó vô hiệu.
 2.1.5 Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132):
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình.
Ví Dụ: Hàng cũ, hỏng lại nói là hàng tốt, tranh do họa sĩ mới vào nghề sao
chép lại nói là tranh của họa sĩ nổi tiếng.…
 2.1.6 Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình (Điều 133):
TRANG 9
TRANG 9


Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà
án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Ví Dụ: Một người có năng lực hành vi dân sự bình thường nhưng đã ký hợp
đồng mua bán tài sản trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của họ thì
trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu nếu người đó yêu cầu toà án tuyên
hợp đồng đó là vô hiệu.

 2.1.7 Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

(Điều 134):
Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc
các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên
thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó
mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Ví Dụ: Đầu năm 2012, một công ty đã khởi kiện yêu cầu TAND quận Bình
Thạnh (TP.HCM) buộc bà L. phải trả lại gần 250.000 USD tiền cọc thuê nhà. Lý do
công ty đưa ra là hợp đồng thuê nhà giữa hai bên vi phạm quy định về ngoại hối, có
thời hạn 15 năm nhưng không công chứng. Đây là các vi phạm về hình thức khiến
hợp đồng vô hiệu.
 2.1.8 Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần (Điều 135):
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.

TRANG 10
TRANG 10


Ví Dụ: Công ty A và công ty B ký hợp đồng giao nhận hàng hóa, địa điểm
giao hàng tại cảng C nhưng người giao hàng lại đưa tới cảng D gần đó => trường
hợp này hợp đồng vô hiệu từng phần do vi phạm về địa điểm giao nhận hàng hóa
nhưng không ảnh hưởng tới hiệu lực của những phần khác như: chất lượng sản
phẩm, thời gian thực hiện.

2.2 Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu
1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các
điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch
dân sự được xác lập.

2. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Bộ luật
này thì thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn
chế.

2.3 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn
trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu
theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

2.4 Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vô hiệu

TRANG 11
TRANG 11


1. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác
cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp quy định tại Điều 257 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký
quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay
tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay
tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo
bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
huỷ, sửa.


K

ẾT LUẬN

Bộ luật dân sự 2005 (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006) ra đời trong bối cảnh đất nước đổi mới được gần 20
năm, thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 đã bị lạc hậu so với sự phát triển mạnh mẽ
của các hoạt động kinh tế và các giao lưu trong đời sống xã hội sau khi công cuộc
TRANG 12
TRANG 12


đổi mới được phát động năm 1986 đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ đòi hỏi phải có
một Bộ luật dân sự mói đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Bộ luật dân sự 2005 có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật
Việt Nam. Nó thể hiện những quan điểm cơ bản nhất của nhà nước trong điều chỉnh
các quan hệ pháp luật tư, thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất cho các mối quan
hệ trong đời sống dân sự, đồng thời xác lập các quy tắc điều chỉnh cho quan hệ dân
sự phát sinh (thậm chí cả những trường hợp được dự liệu có thể phát sinh). Các đạo
luật điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của quan hệ pháp luật tư (như thương mại,
đất đai, tín dụng, sở hữu trí tuệ….) cũng đều phải căn cứ vào các nguyên tắc chung
của Bộ luật dân sự.
Nhìn chung, qua 07 năm thi hành, Bộ luật dân sự 2005 đã có tác động rất tích
cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và trong hoạt động
của ngành Tòa án nói riêng. Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa, chi tiết đại đa số các quan
hệ xã hội trên cơ sở của nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu
trách nhiệm giữa các chủ thể, hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính của nhà nước

vào quan hệ dân sự, tôn trọng và phát huy sự tự thỏa thuận, tự quyết định của các
chủ thể, phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các
quan hệ dân sự, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nước và lợi ích công cộng.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự 2005 ra đời trong thời điểm nước ta cần hoàn tất
các bước cần thiết cho việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó
có việc rà soát và điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với các cam kết của Việt Nam
trong khuôn khổ tổ chức này. Và cũng vì được ban hành khá nhanh chóng và trong
bối cảnh như vậy nên đây cũng là nguyên nhân khiến Bộ luật dân sự 2005 được ban
hành nhưng chưa dựa trên những nghiên cứu đầy đủ và còn rất nhiều vấn đề cần
phải được bàn thảo, từ kỹ thuật lập pháp đến nội dung các quy định cụ thể.

Đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của Bộ luật dân
sự 2005:
TRANG 13
TRANG 13


• Về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự, trong đó có điều kiện về người tham gia giao dịch (phải có năng lực
hành vi dân sự và hoàn toàn tự nguyện). Quy định này chưa làm rõ điều kiện chủ
thể của một giao dịch dân sự và chưa phân biệt chủ thể với người trực tiếp tiến hành
giao dịch. Giao dịch dân sự có thể do cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác thực hiện và
do vậy, vấn đề năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và các chủ thể khác là yếu
tố quan trọng để xác định hiệu lực của giao dịch. Bên cạnh đó, người trực tiếp thực
hiện giao dịch không phải lúc nào cũng đồng nhất với chủ thể của giao dịch mà có
thể là người đại diện và trong trường hợp là người đại diện thì thẩm quyền đại diện
phải trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Mặt khác, Điều 122 chỉ quy định
nội dung và mục đích giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái

đạo đức xã hội. Tuy nhiên, để có hiệu lực thì nội dung và mục đích của giao dịch
không chỉ "không vi phạm điều cấm" mà phải rộng hơn, đó là "không trái pháp
luật".
• Về Giao dịch dân sự vô hiệu:
Điều 127 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Giao dịch dân sự không có một
trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Ngoài
trường hợp vô hiệu do vi phạm Điều 122 như trên, Bộ luật dân sự 2005 còn có các
điều khoản cụ thể nêu các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu như Điều 128 (giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội), Điều
129 (giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo), Điều 130 (giao dịch dân sự vô hiệu do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện), Điều
131 (giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn), Điều 132 (giao dịch dân sự vô hiệu
do bị lừa dối, đe dọa), Điều 133 (giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình), Điều 134 (giao dịch dân sự vô hiệu
do không tuân thủ quy định về hình thức). Như vậy, những trường hợp vô hiệu quy
định tại các Điều từ 128 đến 134 đã cụ thể hóa trường hợp vô hiệu do không tuân
thủ các điều kiện như quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự 2005, nên sự tồn tại của
Điều 127 là không cần thiết.

TRANG 14
TRANG 14


• Về Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: Điều 134 Bộ
luật dân sự 2005 quy định: “trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân
sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu
của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định
buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá
thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”. Quy định này trên thực tế chỉ
có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ thể của giao dịch đều có thiện chí mong

muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên trường hợp này hầu như không xảy ra.
Bởi việc yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là do một bên yêu cầu, có nghĩa là họ
mong muốn hợp đồng đó không được tiếp tục thực hiện nữa nên lợi dụng việc vi
phạm về mặt hình thức để yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu và không hợp tác với bên
còn lại trong hợp đồng để cùng ra công chứng chứng thực hợp đồng theo yêu cầu của
Tòa án. Hậu quả là việc Tòa án yêu cầu hoàn thiện về mặt hình thức của giao dịch dân
sự đó hầu như không bao giờ được các đương sự thực hiện.
• Về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài
sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên
có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
+ Quy định này chưa xác định việc hoàn trả bằng tiền theo giá trị của vật tại
thời điểm giao kết hay thời điểm hoàn trả. Quy định này cũng chưa tính đến trường
hợp có hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã giao thì ai sẽ là người nhận phần phát
sinh đó. Đây là trường hợp khá phức tạp vì có những trường hợp hoa lợi, lợi tức
phát sinh một cách tự nhiên nhưng có trường hợp lại là do công sức của người nhận
chuyển giao tài sản, nếu Bộ luật dân sự không quy định về trường hợp này thì sẽ
không đủ cơ sở để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
+ Đối với những tài sản là nhà, đất không còn nguyên giá trị ban đầu thì giải
quyết như thế nào và cần áp dụng khung giá nào khi giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu. Thực tế có sự chênh lệch giá quá cao giữa giá nhà đất do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quy định với giá thị trường tại thời điểm xét xử.
+ Bên cạnh đó, không phải giao dịch lúc nào cũng vô hiệu tuyệt đối bởi có
những trường hợp giao dịch rơi vào trường hợp vô hiệu nhưng các bên đã thực hiện
TRANG 15
TRANG 15



một phần hoặc toàn bộ giao dịch và lợi ích của việc công nhận giao dịch lớn hơn lợi
ích của việc hủy giao dịch thì cần công nhận giao dịch đó và việc vi phạm của các
bên có thể xử lý bằng các biện pháp pháp lý khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Bộ Luật Dân Sự 2005
 luatsurieng.vn
 123doc.org
 /> Tạp Chí Pháp Luật: />
TRANG 16
TRANG 16



×