Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến công tác quản lý chất thải y tế bệnh viện hữu nghị việt tiệp hải phòng năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 70 trang )

-1-

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các đô thị, các ngành sản xuất
kinh doanh và dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển nhanh chóng đã
tạo ra một lượng lớn chất thải bao gồm: chất thải sinh hoạt, chất thải công
nghiệp, chất thải nông nghiệp, chất thải xây dựng, và nguy hiểm hơn cả là
chất thải y tế.
Theo báo cáo của Cục Quản lý môi trường Bộ Y tế, tính đến năm 2012,
cả nước có 13.511 cơ sở y tế các loại. Tổng lượng chất thải rắn phát sinh từ
các cơ sở y tế khoảng 450 tấn/ngày, trong đó có 47 tấn/ngày là CTYTNH;
lượng chất thải lỏng khoảng 150.000 m3/ngày/đêm. Ước tính đến năm 2015,
lượng CTR y tế là 600 tấn/ngày và năm 2020 là khoảng trên 800 tấn/ngày;
lượng nước thải y tế phải xử lý lên tới trên 300.000 m3/ngày/đêm. Tỉ lệ bệnh
viện có hệ thống XLNT là 54,4%; có 90,9% bệnh viện thực hiện thu gom
CTYT hàng ngày, nhưng chỉ có 50% bệnh viện trong số này phân loại và thu
gom CTYT đạt yêu cầu. Hiện nay chỉ có 1/3 lượng rác thải y tế ở Việt Nam
được đốt bằng lò đốt hiện đại hoặc sử dụng công nghệ vi sóng /nhiệt ướt khử
khuẩn. Cả nước hiện có 369 lò đốt hai buồng và 127 lò đốt một buồng. Trong
đó đa số các lò đốt chưa có hệ thống xử lý khí thải, công suất lò đốt không
hợp lý, gây ô nhiễm môi trường và hiệu quả sử dụng không cao. [20], [23].
Thành phố Hải Phòng là một trong những thành phố có tốc độ phát
triển kinh tế và mật độ dân số cao, là trung tâm văn hóa giáo dục, y tế lớn của
cả nước. Ngành y tế thành phố phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt nhu cầu chăm
sóc sức khỏe cho người dân trên địa bàn thành phố và dân cư các địa phương
khác. Thành phố hiện có gần 30 bệnh viện ở các tuyến trung ương và phòng
khám đa khoa. Hàng ngày một lượng rác thải khá lớn từ các hoạt động y tế
được thải ra khoảng 2,5 – 3 tấn/ngày.


-2-



Để đánh giá thực trạng về CTYT cũng như những ảnh hưởng của
CTYT đối với môi trường, nhiều nhà khoa học, nhiều cơ quan đã tiến hành
điều tra, nghiên cứu. Các nghiên cứu đã phần nào cho thấy những tồn tại
trong công tác quản lý CTYT ở nước ta [22], [34], [38]. Hiện nay, vì nhiều lý
do, trong đó có áp lực về nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, sự quá tải
của nhiều bệnh viện, sự thiếu đồng bộ cơ sở hạ tầng của bệnh viện nên dẫn tới
vệ sinh môi trường của nhiều bệnh viện chưa được đảm bảo [13].
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do CTYT, ngày
22/4/2003, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg về việc
phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, bao gồm 84 bệnh viện, trong đó có bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Sau
quyết định phê duyệt đó, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp đã tích cực triển khai
nhiều hoạt động để xử lý triệt để ô nhiễm môi trường.
Để đánh giá thực trạng công tác bảo vệ môi trường của Bệnh viện Hữu
nghị Việt Tiệp trong thời gian qua, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài:
"Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến công tác quản lý chất thải y tế
tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp năm 2012”, với mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng công tác thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý
chất thải y tế tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp năm 2012.
2. Mô tả một số yếu tố có liên quan đến công tác quản lý chất thải y tế tại
Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp năm 2012.


-3-

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm
Chất thải y tế là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường

và tác động xấu lên sức khỏe con người. Khi nhu cầu khám chữa bệnh của
con người càng tăng thì rác thải y tế cũng không ngừng phát triển. Theo Quy
chế Quản lý CTYT của Bộ Y tế ban hành tại Quyết định số 43/QĐ-BYT ngày
30/11/2007, quy định [14]:
Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở
y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
Chất thải y tế nguy hại là CTYT chứa yếu tố nguy hại cho sức khoẻ con
người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ
nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải này không
được tiêu huỷ an toàn.
Quản lý chất thải y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban
đầu, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu
hủy CTYT và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
1.2. Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới
Nghiên cứu về CTYT đã được tiến hành tại nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt ở các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Canada... Các nghiên cứu
đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực như tình hình phát sinh; phân loại CTYT;
quản lý CTYT (biện pháp làm giảm thiểu chất thải, tái sử dụng chất thải, xử
lý chất thải, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý chất thải...); tác hại của
CTYT đối với môi trường, sức khoẻ; biện pháp làm giảm tác hại của CTYT
đối với sức khỏe cộng đồng, sự đe dọa của chất thải nhiễm khuẩn tới sức khỏe
cộng đồng, ảnh hưởng của nước thải y tế đối với việc lan truyền dịch bệnh;


-4-

những vấn đề liên quan của y tế công cộng với CTYT; tổn thương nhiễm
khuẩn ở y tá, hộ lý và người thu gom rác; nhiễm khuẩn bệnh viện, nhiễm
khuẩn ngoài bệnh viện đối với người thu nhặt rác, vệ sinh viên và cộng đồng;
người phơi nhiễm với HIV, HBV, HCV ở nhân viên y tế. [47], [48], [54],

[57].
1.2.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Khối lượng CTYT phát sinh thay đổi theo khu vực địa lý, theo mùa và
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như: cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh, loại,
quy mô bệnh viện, phương pháp và thói quen của NVYT trong việc khám,
chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân và thải rác của bệnh nhân ở các khoa
phòng [30].
Bảng 1.1. Chất thải y tế theo giƣờng bệnh trên thế giới [21]
Tổng lƣợng

CTYT nguy hại

CTYT(kg/GB)

(kg/GB)

Bệnh viện trung ương

4,1 - 8,7

0,4 - 1,6

Bệnh viện tỉnh

2,1 - 4,2

0,2 - 1,1

Bệnh viện huyện


0,5 - 1,8

0,1 - 0,4

Tuyến bệnh viện

1.2.2. Phân loại chất thải y tế
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (1992), ở các nước đang
phát triển có thể phân CTYT thành các loại sau: Chất thải không độc hại (chất
thải sinh hoạt gồm chất thải không bị nhiễm các yếu tố nguy hại); chất thải
sắc nhọn (truyền nhiễm hay không truyền nhiễm); chất thải nhiễm khuẩn
(khác với các vật sắc nhọn nhiễm khuẩn); chất thải hoá học và dược phẩm
(không kể các loại thuốc gây độc tế bào); chất thải nguy hiểm khác (chất thải
phóng xạ, các thuốc độc tế bào, các bình chứa khí có áp suất cao) [12], [61].
Ở Mỹ phân loại chất thải y tế thành 8 loại: Chất thải cách ly (chất thải


-5-

có khả năng truyền nhiễm mạnh); Những nuôi cấy và dự trữ các tác nhân
truyền nhiễm và chế phẩm sinh học liên quan; Những vật sắc nhọn được dùng
trong điều trị, nghiên cứu...; Máu và các sản phẩm của máu; Chất thải động
vật (xác động vật, các phần của cơ thể...); Các vật sắc nhọn không sử dụng;
Các chất thải gây độc tế bào; Chất thải phóng xạ [61].
Tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu tại các bệnh viện nhỏ ở Ấn Độ cho
thấy phần lớn các chất thải y tế không được phân loại thành chất thải lây
nhiễm hay không lây nhiễm, mà chứa chung trong các container hở [52].
1.2.3. Quản lý chất thải y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới, có 18 - 64% cơ sở y tế chưa có biện pháp
xử lý chất thải đúng cách. Tại các cơ sở y tế, 12,5% công nhân xử lý chất thải

bị tổn thương do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý CTYT. Tổn thương
này cũng là nguồn phơi nhiễm nghề nghiệp, với máu phổ biến nhất, chủ yếu
là dùng hai tay tháo lắp kim và thu gom tiêu huỷ vật sắc nhọn. Có khoảng
50% số bệnh viện trong diện điều tra vận chuyển CTYT đi qua khu vực bệnh
nhân và không đựng trong xe thùng có nắp đậy [62].
Theo H.Ô-ga-oa, cố vấn Tổ chức Y tế thế giới về sức khoẻ, môi trường
khu vực Châu Á, phần lớn các nước đang phát triển không kiểm soát tốt
CTYT, chưa có khả năng phân loại CTYT mà xử lý cùng với tất cả các loại
chất thải [62].
Việc xử lý chất thải y tế hầu như đã được giải quyết ở các nước phát
triển với công nghệ đáng tin cậy như đốt rác bằng lò vi sóng. Dựa trên việc
đánh giá vòng đời cho thấy lò vi ba có hiệu suất sinh thái đạt hiệu quả tốt
nhất, tiếp theo là công nghệ hấp khử trùng. Trong khi ở hầu hết các nước đang
phát triển, vấn đề này vẫn còn bởi vì các phương pháp xử lý tốn kém và lớn
hơn rất nhiều so với ngân sách quốc gia [59]. Vì vậy, các nhà khoa học ở các
nước Châu Á đã tìm ra một số phương pháp xử lý chất thải khác để thay thế


-6-

như Philippin đã áp dụng phương pháp xử lý rác bằng các thùng rác có nắp
đậy; Nhật Bản đã khắc phục vấn đề khí thải độc hại thoát ra từ các thùng đựng
rác có nắp kín bằng việc gắn vào các thùng có những thiết bị cọ rửa;
Indonexia chủ trương nâng cao nhận thức trước hết cho các bệnh viện về mối
nguy hại của CTYT gây ra để bệnh viện có biện pháp lựa chọn phù hợp [48].
1.3. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam
1.3.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Theo kết quả khảo sát của Vụ Điều trị - Bộ Y tế tại 24 bệnh viện năm
1998, cho thấy tỉ lệ phát sinh chất thải y tế theo từng tuyến, loại bệnh viện, cơ
sở y tế rất khác nhau.

Bảng 1.2. Chất thải y tế phát sinh theo giƣờng bệnh tại Việt Nam
Tổng lƣợng CTYT

CTYT nguy hại

(kg/GB)

(kg/GB)

Bệnh viện trung ương

0,97

0,16

Bệnh viện tỉnh

0,88

0,14

Bệnh viện huyện

0,73

0,11

Tổng

0,86


0,14

Tuyến bệnh viện

Trong cùng một bệnh viện, các khoa khác nhau sẽ có lượng chất thải
rắn y tế phát sinh khác nhau, trong một bệnh viện đa khoa, khoa hồi sức cấp
cứu, khoa sản, khoa ngoại có lượng CTYT phát sinh lớn nhất [12], [21]
Lượng chất thải rắn y tế phát sinh là cơ sở quan trọng để xác định khối
lượng thu gom, công suất lò đốt. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của một số
công trình nghiên cứu trong nước về tổng lượng CTYT phát sinh trên địa bàn
cả nước có sự sai lệch: Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Huy Nga (Bộ Y tế) là
16,5 tấn/ngày; kết quả nghiên cứu của Lê Doãn Diên 37,5 tấn ngày; của Bộ
Xây dựng là 34 tấn/ngày. Sở dĩ có sự chệnh lệch như vậy vì một số đề tài khi


-7-

nghiên cứu về lượng CTYT phát sinh có xét đến cả chất thải xây dựng, bùn bể
phốt.... Một số đề tài nghiên cứu khác chỉ xét đến lượng CTYT phát sinh khi
cần thiêu đốt. Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế (2001) tại 280 bệnh viện
lượng CTYT phát sinh mỗi ngày khoảng 429 tấn/ngày, trong đó lượng CTYT
nguy hại khoảng 34 tấn/ngày, ước tính tổng lượng khoảng 15 triệu tấn/năm
CTYT, trong đó có khoảng 21.000 tấn/năm CTYT nguy hại. [12], [22].
1.3.2. Thành phần và phân loại chất thải y tế
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trong thành phần CTYT có khoảng 10%
chất thải nhiễm khuẩn và khoảng 5% chất thải độc hại như chất phóng xạ,
chất gây độc tế bào và các hóa chất độc hại khác phát sinh trong quá trình
chẩn đoán, điều trị [53].
Căn cứ vào các đặc điểm lý, hoá, sinh học và tính chất nguy hại, chất

thải trong các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm dựa theo Quyết định số
43/2007/QĐ- BYT ngày 30/11/ 2007 của Bộ Y tế về quản lý CTYT [14]:
* Chất thải lây nhiễm: Nhóm này gồm các loại chất thải:
- Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc
chọc thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn
của dây truyền, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thuỷ
tinh vỡ và các vật sắc nhọn khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
- Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (loại B): Là chất thải bị thấm máu,
thấm dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh
cách ly.
- Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Là chất thải phát sinh
trong các phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính
bệnh phẩm.
- Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể
người; rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.


-8-

* Chất thải hoá học nguy hại: Nhóm này gồm các loại chất thải sau:
- Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
- Chất hoá học nguy hại sử dụng trong y tế
- Chất gây độc tế bào, gồm: vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính
thuốc gây độc tế bào và các chất tiết từ người bệnh được điều trị bằng
hoá trị liệu.
- Chất thải chứa kim loại nặng: thuỷ ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế thuỷ
ngân bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (Cd) (từ pin, ắc
quy), chì (từ tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn
tia xạ từ các khoa chẩn đoán hình ảnh, xạ trị).
* Chất thải phóng xạ: Gồm các chất thải phóng xạ rắn, lỏng và khí phát sinh

từ các hoạt động chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất. Danh mục thuốc
phóng xạ và hợp chất đánh dấu dùng trong chẩn đoán và điều trị ban hành
kèm theo Quyết định số 33/2006/QĐ-BYT ngày 24 tháng 10 năm 2006 của
Bộ trưởng Bộ Y tế.
* Bình chứa áp suất: Bao gồm bình đựng ôxy, CO2, bình ga, bình khí dung.
Các bình này dễ gây cháy, gây nổ khi thiêu đốt.
* Chất thải thông thường: là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hoá
học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ, bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly).
- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ
thuỷ tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gẫy
xương kín. Những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các
chất hoá học nguy hại.
- Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật
liệu đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim.
- Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.


-9-

1.3.3. Quản lý chất thải y tế
Ở nước ta CTYT đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật,
nhưng việc thực hiện chưa nghiêm túc theo quy định, hầu hết CTYT ở các
bệnh viện chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường. Nhiều
bệnh viện không có hệ thống thu gom, xử lý nước thải, hoặc có thì nhiều hệ
thống cống rãnh đã bị hư hỏng, xử lý xuống cấp; rác thải không được phân
loại, chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại chỗ. Thực trạng như sau [18],
[19], [ 24], [38]:
* Về quản lý rác thải:
Kết quả điều tra năm 2002 của Bộ Y tế tại 294 bệnh viện trong cả nước

cho thấy 94,2% bệnh viện phân loại CTYT tại nguồn phát sinh, chỉ có 5,8%
bệnh viện chưa thực hiện. Có 93,9% bệnh viện thực hiện tách riêng vật sắc
nhọn ra khỏi CTYT, hầu hết các bệnh viện sử dụng chai nhựa, lọ truyền đã
dùng để đựng kim tiêm.
Qua kiểm tra thực tế, việc phân loại CTYT ở một số bệnh viện chưa
chính xác, làm giảm hiệu quả của việc phân loại chất thải. Kết quả nghiên cứu
tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung (2003) [26] cho thấy: cả 6
bệnh viện đều phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh nhưng chưa có
bệnh viện nào phân loại rác đúng theo Quy chế của Bộ Y tế và việc phân loại
phụ thuộc vào hình thức xử lý hiện có của bệnh viện. Kết quả thanh tra, kiểm
tra của Bộ Y tế (2004) về quản lý CTYT ở 175 bệnh viện tại 14 tỉnh, thành
phố, cho thấy số bệnh viện có thùng chứa chất thải chiếm 76%, có bể chứa rác
chiếm 9,6%, có nắp đậy thùng rác hoặc mái che bể chứa rác chiếm 43%, rác
được để riêng biệt chiếm 19,3% trong tổng số bệnh viện, nơi chứa rác thải
đảm bảo vệ sinh chiếm 35,5%; 29% bệnh viện chôn CTR trong bệnh viện; có
3,2% bệnh viện vừa chôn, vừa đốt trong bệnh viện.


- 10 -

Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2007) tại 4 bệnh viện tại Hà Nội, Bệnh
viện Lao và bệnh phổi Trung ương được đánh giá là bệnh viện quản lý rác
thải tốt nhất trong 4 bệnh viện được kiểm tra nhưng Đoàn kiểm tra đã phát
hiện trong buồng bệnh chỉ có thùng đựng rác sinh hoạt, thiếu thùng chứa đờm
của bệnh nhân. Ở Bệnh viện Việt Đức tất cả rác thải đều chứa chung trong
một loại túi đựng rác màu vàng . Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), năm 2006,
tỉ lệ bệnh viện thực hiện phân loại CTYT là 95,6% và thu gom hàng ngày là
90,9%. Phương tiện thu gom CTYT như túi, thùng đựng chất thải, xe đẩy rác,
nhà chứa rác còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn theo yêu
cầu của Quy chế quản lý CTYT. Chỉ có khoảng 50% các bệnh viện trên phân

loại, thu gom đạt yêu cầu theo quy chế [18].
* Về nước thải
Mỗi bệnh viện có thể thải ra khoảng 0.4 – 0.95 m3 nước thải trên một
giường bệnh trong ngày, tùy thuộc vào khả năng cấp nước, dịch vụ bệnh viện,
số lượng bệnh nhân và người nhà… Tuy nhiên, nồng độ chất thải rắn lơ lửng
(SS), chất hữu cơ (như BOD5), và các chất dinh dưỡng (như Nitơ, phốt pho)
trong nước thải bệnh viện có thể không cao như nước thải đô thị. Nồng độ
BOD5 thay đổi từ 80-180 mg/l. [7]
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2004) tại 175 bệnh viện ở 14 tỉnh, thành
phố thì có đến 31,5% bệnh viện không có hệ thống thoát nước thải, chủ yếu ở
các bệnh viện tuyến huyện. Trong số bệnh viện có hệ thống thoát nước thì có
tới 47,4% bệnh viện sử dụng hệ thống thoát nước chung gồm cả nước mưa,
nước thải sinh hoạt, nước thải y tế; chỉ có 21,1% bệnh viện có hệ thống thoát
nước thải riêng biệt; 26,3% bệnh viện có hệ thống thoát nước thải kín; 31,4%
hở và 42,3% vừa kín vừa hở [26].
Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), năm 2006, tỉ lệ bệnh viện có hệ
thống xử lý nước thải tuyến Trung ương là 71%, tuyến tỉnh là 46%, tuyến


- 11 -

huyện là 30% và bệnh viện tư nhân là 85%. Tính chung tỉ lệ bệnh viện có hệ
thống xử lý nước thải là 37% và chỉ có khoảng 30% trong số này đạt tiêu
chuẩn cho phép.[18]
Nhiều nghiên cứu về chất lượng của nước thải bệnh viện đã được thực
hiện và các phát hiện chính được tóm tắt trong bảng 1.3 dưới đây
Bảng 1.3. Các thông số ô nhiễm trong nƣớc thải [7]
BOD5

COD


mg/l

mg/l

mg/l

mg/l

mg/l

1.1 Trung ương 6.97 1.89 4.05 119.8

263.2

2.555

46.1

218.6

1.2 Tỉnh

6.91 1.34 7.48 163.9

314.4

1.71

38.9


210

1.3 Ngành

7.12 1.59 4.84 139.2

279.9

1.44

38.9

246

TT

1

2

Bệnh viện

pH

DO

H2S

mg/l mg/l


P tổng N tổng

SS

Theo tuyến

Theo chuyên khoa

2.1 Đa khoa

6.91

5.61 147.6

301.4

1.57

37.2

238

2.2 Lao

6.72 1.63 2.98 143.3

307.3

1.15


46.1

222.2

2.3 Phụ sản

7.21 1.33 7.73

321.9

0.99

53.2

251.3

1.3

167

* Về xử lý khí thải bệnh viện: Chỉ có một số bệnh viện lớn có hệ thống xử lý
khí thải hoặc có hốt hút hơi khí độc tại các khoa/phòng Xét nghiệm, X quang,
còn đa phần các bệnh viện chưa có hệ thống xử lý khí thải.
1.3.4. Biện pháp xử lý chất thải y tế
*Về xử lý chất thải rắn y tế:
Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam (2004) [2], Việt Nam đã
xây dựng được 43 lò đốt CTYT hiện đại, nâng công suất xử lý lên 28.840
kg/ngày. Công suất thiết kế của một lò đốt khoảng 40kg/h - 50 kg/h. Tuy
nhiên đại đa số các lò đốt chưa sử dụng hết công suất, khi so sánh tổng công

suất của các lò đốt với lượng CTYT phát sinh, đã cho thấy, các lò đốt được


- 12 -

lắp đặt đã đáp ứng đủ khối lượng phát sinh tại thời điểm. Qua đó đã chứng tỏ
rằng vẫn còn một khối lượng lớn CTYT phát sinh chưa được thu gom và xử
lý đúng cách. Thực trạng như sau:
- Thiêu đốt chất thải rắn y tế:
+ Thiêu đốt CTYT bằng lò đốt rác hiện đại: Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh đã xử lý CTYT tập trung với công nghệ nhập của nước ngoài. Một số
bệnh viện đã lắp đặt lò đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thuỵ Sĩ đảm bảo an
toàn về môi trường. Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), cả nước đã có gần 200
lò đốt CTYT (chiếm 73,3%). Trong số các bệnh viện có lò đốt, ở tuyến trung
ương có 5/5 hoạt động thường xuyên và có bảo dưỡng định kỳ theo đúng quy
định; tuyến tỉnh là 79/106 lò. Thiết kế cơ bản của các lò đốt hiện có đều thiếu
hệ thống xử lý khí thải, gây ô nhiễm môi trường, công suất lò đốt sử dụng
chưa hợp lý [18].
+ Thiêu đốt CTYT bằng lò thủ công hoặc đốt ngoài trời: Hiện nay, phần lớn
các bệnh viện trong cả nước, nhất là bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện
thiêu đốt CTYT bằng các lò đốt thủ công không có hệ thống xử lý khí thải
hoặc đốt ngoài trời. Nghiên cứu 6 bệnh viện tuyến tỉnh năm 2003 cho thấy:
chỉ có 2/6 bệnh viện xử lý rác bằng lò đốt chuyên dụng, còn 4/6 bệnh viện
chôn lấp hoặc sử dụng lò đốt thủ công và tuyến huyện là 97/201 lò đốt.[34]
- Chôn lấp chất thải rắn y tế:
Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), đến năm 2006, cả nước vẫn còn
26,7% bệnh viện đang thực hiện chôn lấp CTYT hoặc đốt thủ công ngoài trời,
chủ yếu tập trung ở các bệnh viện tuyến huyện và một số bệnh viện tuyến tỉnh
[18].
* Về xử lý nước thải bệnh viện:

Hiện có khoảng 100-150 trong số 1100 bệnh viện (hay khoảng 10-15%
số bệnh viện) có trạm XLNT bệnh viện đưa vào hoạt động. Tại các bệnh viện


- 13 -

như BV Quân đội 108, BV Bạch Mai, BV Hai Bà Trưng, Hà Nội (Xây dựng
mới), BV Việt-Tiệp, BV Nhi TP Hải Phòng, BV Đa khoa TP Huế, BV Nhi
Thuỵ Điển Hà Nội và BV Uông Bí, BV Nhi Thành phố Hồ Chí Minh ... có
trạm XLNT với công nghệ xử lý sinh học hiếu khí bằng bùn hoạt tính hoặc
kết hợp xử lý bằng phương pháp hóa học, Viện Khoa học Việt Nam nay là
Viện Khoa học và Công nghệ Quốc Gia đã xây dựng và vận hành trạm XLNT
bằng hóa học và sinh học [7]. Một số bệnh viện như Bệnh viện đa khoa và
Bệnh viện Lao Tuyên Quang, Bệnh viện C và Bệnh viện Lao - bệnh phổi Thái
Nguyên, Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La, Trung tâm Y tế huyện Lương Tài Bắc Ninh đang áp dụng công nghệ XLNT bệnh viện theo phương pháp lọc
sinh học ngập nước cải tiến hoặc phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt .
1.4. Tác hại và nguy cơ của chất thải y tế đối với môi trƣờng và sức khỏe
cộng đồng trên thế giới
Chất thải bệnh viện tồn tại ở ba dạng rắn, lỏng, khí và chúng có khả
năng chuyển từ pha này sang pha khác hoặc được cố định vào một pha nào đó
do quá trình biến đổi vật lý, hoá học và sinh học [35]. Mặc dù lượng chất thải
bệnh viện so với tổng lượng thải sản sinh từ sản xuất công nghiệp và sinh
hoạt,… không lớn, nhưng xét về mặt độc hại và nguy hiểm (đặc biệt là rác
thải y tế và nước thải từ khâu điều trị bệnh, phóng xạ…) thì chúng gây ô
nhiễm môi trường đáng kể, ảnh hưởng đến sức khoẻ và quá trình phát triển
lâu dài của con người [49].
CTYT là môi trường có khả năng chứa đựng các loại vi sinh vật gây
bệnh, các chất độc hại như hóa chất, chất gây độc tế bào, chất phóng xạ... Các
tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua các đường: Qua
các vết da bị xây xước hoặc bị thương, qua đường hô hấp (do hít phải), qua

đường tiêu hóa, tác động gián tiếp do ô nhiễm môi trường, hoặc tiếp xúc với
các tác nhân trung gian như ruồi, muỗi, chuột... Tất cả những người tiếp xúc


- 14 -

với CTYTNH đều là đối tượng có nguy cơ bị tác động bởi CTYT, bao gồm:
Cán bộ y tế và nhân viên vệ sinh bệnh viện; Những người thu gom phế liệu;
Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân; Người dân sống xung quanh bệnh viện.
Ước tính cứ 04 kg rác thải y tế lại có 01 kg rác đã bị nhiễm vi khuẩn nguy
hiểm. [5], [12], [45].
1.4.1. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường:
Một số nghiên cứu đã cho thấy ô nhiễm môi trường chủ yếu là môi
trường nước và không khí [26], [34], [38].
Theo tài liệu thu thập của Trần Thị Minh Tâm (2007): kết quả điều tra
quản lý CTYT tại một số bệnh viện huyện ngoại thành Hà Nội của Bùi Văn
Trường, Nguyễn Tất Hà (1998) cho thấy: các chỉ tiêu trong nước thải như
COD, BOD5, NH4+, Coliform và Fecal coliform ở mức độ ô nhiễm nặng so
với tiêu chuẩn cho phép. [38].
Đào Ngọc Phong và cộng sự (1996) nghiên cứu về ô nhiễm môi trường
và khả năng lây truyền bệnh do nước thải bệnh viện gây ra ở Hà Nội, cho thấy
có hiện tượng tăng trội nhiều bệnh ở các khu dân cư tiếp xúc với nước thải
bệnh viện nhất là các bệnh đường tiêu hoá [25].
Rác không được thu dọn kịp thời sẽ trở thành nơi phát sinh ruồi, muỗi,
chuột, gián, ô nhiễm môi trường không khí do phát sinh mùi hôi thối khó
chịu. Các trung gian truyền bệnh này sẽ tạo ra một nguy cơ lan tràn bệnh dịch
nhanh chóng từ các bệnh viện, từ CTYT không được xử lý đúng cách. Cũng
như vậy, nước thải bệnh viện không được xử lý đảm bảo yêu cầu vệ sinh cũng
sẽ là nguồn phát tán các mầm bệnh vào các nguồn nước (nước mặt, nước
ngầm) [12].

1.4.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khoẻ cộng đồng:
1.4.2.1. Nguy cơ và tác động của vật sắc nhọn


- 15 -

Các vật sắc nhọn không chỉ gây ra vết xước và thường xuyên đâm
thủng da mà còn làm nhiễm khuẩn tại các vị trí gây xước và chọc thủng.
Người ta đặc biệt quan tâm tới bơm kim tiêm vì nó tạo ra phần chất thải chính
là các vật sắc nhọn và thường bị nhiễm khuẩn bởi máu của người bệnh. Ước
tính mỗi năm trên thế giới sử dụng 12.000 bơm tiêm. Hàng năm có khoảng 8 16 triệu người viêm gan B; 2,3 - 4,7 triệu người viêm gan C và 8.000 - 16.000
người nhiễm HIV do tái sử dụng bơm kim tiêm không tiệt trùng. [5]
Ở Nhật Bản, các nghiên cứu về chất thải y tế đã đưa ra các số liệu như
sau [32]: Năm 1987 có 2 bác sĩ trẻ thực tập nội trú ở Khoa Nhi không may bị
nhiễm virút từ các ống tiêm và đã bị chết bởi viêm gan B cấp tính; năm 1986
có 67,3% những người thu gom rác trong các bệnh viện bị tổn thương do các
vật sắc nhọn, 44,4% những người thu gom rác bên ngoài các bệnh viện bị tổn
thương khi thu gom các chất thải bệnh viện.
1.4.2.2. Nguy cơ và tác động của chất thải nhiễm khuẩn
Bảng 1.4. Các loại nhiễm khuẩn, tác nhân gây bệnh và đƣờng lây nhiễm [5]
STT

Dạng nhiễm khuẩn

Tác nhân gây bệnh

Chất truyền

1


Nhiễm khuẩn đường Vi khuẩn tiêu hoá: Vibrio,
Phân và chất nôn
tiêu hoá
Cholera, trứng giun

2

Nhiễm khuẩn hô hấp

Vi khuẩn lao, vi rút sởi, cầu Chất tiết đường hô
khuẩn
hấp, nước bọt

3

Nhiễm khuẩn mắt

Herpes

Chất tiết ở mắt

4

Nhiễm khuẩn da

Phế cầu khuẩn

Mủ

5


Bệnh than

Trực khuẩn than

Chất tiết qua da

6

AIDS

HIV

Máu, dịch tiết
sinh dục

7

Nhiễm khuẩn huyết

Tụ cầu

Máu

8

Viêm gan A

Vi rút viêm gan A


Phân

9

Viêm gan B và C

Vi rút viêm gan B và C

Máu và dịch cơ thể


- 16 -

Chất thải nhiễm khuẩn có thể chứa hàng loạt những vi sinh vật gây
bệnh. Hiện nay có tới trên 1.000 loại vi khuẩn, 200 loại vi rút, nấm đã được
biết đến gây nguy hại cho sức khoẻ con người qua các đường dưới đây: xâm
nhập vào cơ thể qua các vết xước trên da, qua niêm mạc, do ăn uống, hít thở.
Theo báo cáo của tổ chức Bảo vệ môi trường Mỹ có khoảng 162 - 321
trường hợp nhiễm virus viêm gan B có phơi nhiễm với CTYT so với tổng số
300.000 trường hợp nhiễm virus viêm gan B mỗi năm [12].
1.4.2.3. Nguy cơ và tác động của chất thải hoá học và dược phẩm
Rất nhiều hoá chất và dược phẩm dùng trong các cơ sở y tế là chất
nguy hại (gây độc, dễ cháy, gây sốc phản vệ, độc tính di truyền). Chúng có
thể gây độc cho những người tiếp xúc lần đầu hoặc thường xuyên tiếp xúc
như tổn thương da hoặc bỏng…
Các dược sĩ, bác sĩ gây mê, điều dưỡng, kỹ thuật viên, cán bộ hành
chính có thể có nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da do tiếp
xúc với các loại hoá chất lỏng bay hơi, dạng phun sương và các dạng dung
dịch khác. [5]
1.4.2.4. Nguy cơ và tác động của chất thải là thuốc gây độc tế bào

Những nghiên cứu trên động vật đã chứng tỏ rằng ở liều lượng cao
nhiều loại thuốc gây ung thư và đột biến tế bào, một số gây quái thai, nhiều
thuốc gây khó chịu và kích thích tại chỗ sau khi tiếp xúc với da và niêm mạc.
Bất kỳ chất thải gây độc tế bào nào, nếu đào thải bừa bãi vào môi
trường có thể gây ra các biến đổi về sinh thái học, vì vậy cần có biện pháp
trong việc vận chuyển và tiêu huỷ các chất gây độc tính di truyền [5].
Shiro Shirato cũng đã nêu trong tài liệu khoa học của Nhật Bản, tổng số
hơn 500 trường hợp bị lây nhiễm bệnh có liên quan tới chất thải bệnh viện,
hơn 400 trường hợp bị tác hại sinh học từ các thuốc có độc tố tế bào [12].


- 17 -

1.4.2.5. Nguy cơ và tác động của chất thải phóng xạ
Những bệnh do các chất phóng xạ gây nên được xác định bởi liều
lượng và cường độ lây nhiễm. Nó có thể gây ra hàng loạt các dấu hiệu như
đau đầu, buồn nôn, ngủ gà. Những người làm công tác xử lý các nguồn phóng
xạ có hoạt tính cao cũng có thể bị nhiều tổn thương nghiêm trọng như cắt cụt
một phần của cơ thể, vì vậy những chất thải này cần phải được xử lý nghiêm
ngặt đúng quy định [5].
Những tai nạn nghiêm trọng bởi các chất thải bệnh viện bị nhiễm
phóng xạ đã được ghi nhận bởi các cơ quan truyền thông quốc tế ở thành phố
Brasilia năm 1998, có 4 người chết vì hội chứng phóng xạ cấp tính và 28
người bị bỏng phóng xạ nặng [12].
1.5. Thực trạng tình hình vệ sinh môi trƣờng ngành y tế TP Hải Phòng
Kết quả nghiên cứu của Dương Thị Hương, Đồng Trung Kiên và cộng
sự - Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng (2003) khi điều tra đánh giá tình
hình vệ sinh môi trường tại 11 cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Hải Phòng
cho thấy hầu hết tại các cơ sở y tế trong kiến trúc xây dựng ban đầu chưa chú
trọng tới việc xây dựng hệ thống XLNT và khu vực tập trung xử lý rác thải.

100% cơ sở đều xây dựng gần khu dân cư, có tường rào riêng biệt; 75% cơ sở
có diện tích chật hẹp < 100m2; 50% cơ sở dành phần lớn diện tích khu đất dùng
cho xây dựng; 62,5% cơ sở tỉ lệ diện tích cây xanh/diện tích khu đất là dưới
25%. Tỉ lệ sử dụng giường bệnh thấp ở bệnh viện hạng III (< 50%) nhưng quá
tải ở bệnh viện hạng I và II (> 100%); 87,5% cơ sở y tế thực hiện tốt việc phân
loại kim tiêm và ngâm dung dịch javen ngay tại bàn tiêm; 100% cơ sở chưa
được trang bị các túi, hộp chứa chuyên dùng phục vụ việc phân loại rác lâm
sàng mà chỉ dùng túi nhựa sinh hoạt để chứa đựng rác đã phân loại; việc cung
cấp túi cũng không đủ và thường xuyên. Rác đã phân loại tập trung cùng rác
sinh hoạt tại ga rác chung của đơn vị, không có xử lý riêng. 12,5% cơ sở có sử


- 18 -

dụng phóng xạ trong điều trị như Coban 60, Iod 131 nhưng đa số chưa có
kiểm tra về thời gian bán rã, chưa có hệ thống xử lý chất thải lỏng sau khi
điều trị phóng xạ và hóa chất dư. 100% cơ sở y tế chưa thực hiện khám sức
khỏe và quản lý hồ sơ, theo dõi bệnh nghề nghiệp cho nhân viên. Lượng nước
thải tại các Bệnh viện dao động từ 40 – 200 m3/ngày. 25% bệnh viện có khu
xử lý nước thải đã cũ, vận hành không thực hiện được hết các quy trình, chỉ
còn thực hiện bơm nước từ ga nước thải ra đường cống thải chung không có
xử lý khử trùng. 25% bệnh viện đang xây dựng và đã hoàn thiện hệ thống
XLNT; 50% bệnh viện còn lại chưa có hệ thống XLNT. 100% bệnh viện chưa
tổ chức đánh giá mức độ nhiễm bẩn của nước thải trước khi thải ra cống thoát
chung của thành phố. [24]
1.6. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến công tác quản lý chất thải y tế
Các chuyên gia môi trường cho rằng nguyên nhân chính gây trở ngại
cho công tác quản lý môi trường ở các cơ sở y tế là nhận thức của NVYT và
cộng đồng về quản lý CTYT còn hạn chế; kiến thức về quản lý chất thải còn
yếu; định hướng công nghệ chưa rõ ràng; chưa có sự đầu tư đúng mức cũng

như các cơ chế về tài chính chưa hợp lý để tạo điều kiện làm tốt công việc xử
lý CTYT và công tác kiểm tra, giám sát chưa được chú trọng. [36]
1.6.1. Kiến thức của cán bộ, nhân viên y tế về quản lý chất thải y tế
Trong quản lý CTYT, yếu tố con người là rất quan trọng. Cho dù có hệ
thống xử lý chất thải có hiện đại nhưng nếu các cán bộ y tế, những người liên
quan trực tiếp đến công tác quản lý, xử lý chất thải và cộng đồng không nhận
thức rõ tác hại và tầm quan trọng của CTYT đối với công tác bảo vệ môi
trường và sức khoẻ thì hệ thống đó hoạt động cũng không hiệu quả.
Qua kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu
Dung (2003), cho thấy: phần lớn những người được phỏng vấn biết được sự
nguy hại của chất thải lâm sàng, còn những chất thải khác số người biết chỉ


- 19 -

<50%, đặc biệt còn tới 8,8 - 8,9% không biết loại CTNH. Có tới 79,8 - 92,1%
cho rằng đối tượng dễ bị ảnh hưởng của CTYT là NVYT, còn bệnh nhân là
đối tượng rất cần quan tâm để tránh các nguy cơ của chất thải thì chỉ có
26,6% [26].
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Minh Tâm (2007) tại 11 bệnh viện
tuyến huyện tỉnh Hải Dương cho thấy, có từ 43,5% đến 55,8% số cán bộ,
NVYT trả lời không đúng hoặc không biết về quy định mã màu sắc của dụng
cụ đựng CTYT. Phần lớn cán bộ, NVYT đều biết được những tác hại của
CTYT, được biết đến nhiều nhất là khả năng lan truyền bệnh (96,8%), đối
tượng bị ảnh hưởng bởi CTYT đươc biết đến nhiều nhất là bác sỹ, điều
dưỡng, hộ lý [38].
1.6.2. Nguồn lực cho công tác quản lý chất thải
1.6.2.1. Cơ sở pháp lý
Ở nước ta CTYT đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật
do Quốc hội, Chính phủ ban hành và hàng loạt các văn bản quản lý, hướng

dẫn thực hiện của ngành Y tế. Gồm một số văn bản sau:
- Luật Bảo vệ môi trường và các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật.
Điều 39, Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã đưa ra các quy định về bảo
vệ môi trường trong bệnh viện và các cơ sở y tế.
- Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định về Quản lý chất thải nguy hại.
- Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng chính
phủ về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, tại quyết định này có 84 bệnh viện trên cả nước
phải thực hiện biện pháp xử lý triệt để ô nhiễm môi trường.
- Bộ Y tế đã ban hành các văn bản quy định về quản lý, xử lý CTYT và
thường xuyên điều chỉnh quy chế cho phù hợp với xu thế phát triển. Từ


- 20 -

năm 1999, đã ban hành riêng quy chế quản lý CTYT, đến 2007, quy
chế này đã được điều chỉnh để phù hợp với tình hình cấp bách hiện nay
về quản lý CTYT (Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007
của Bộ Y tế).
Ngoài ra còn nhiều các văn bản quy định, hướng dẫn khác đối với công
tác quản lý CTYT như: tiêu chuẩn khí thải lò đốt CTYT, phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải …
1.6.2.2. Về nhân lực
Tại các bệnh viện quy mô lớn, Bệnh viện tuyến trung ương như Bạch
Mai, Việt Đức, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung ương và một số bệnh viện
tuyến tỉnh đều có khoa chống nhiễm khuẩn, có đội ngũ cán bộ được đào tạo
chính quy về quản lý chất thải. Còn hầu hết các bệnh viện, nhất là bệnh viện
tuyến huyện việc thực hiện Quy chế quản lý chất thải đều chưa đầy đủ và
không thường xuyên. Hoạt động giám sát nhà nước về công tác quản lý

CTYT còn chưa đầy đủ, năng lực giám sát và điều tiết còn hạn chế, đội ngũ
thanh tra còn hạn chế, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe [12]
1.6.2.3. Về kinh phí và trang thiết bị xử lý chất thải
Việc đầu tư kinh phí cho xử lý chất thải tại các cơ sở y tế còn gặp rất
nhiều khó khăn. Các cơ sơ y tế phần lớn là các đơn vị sự nghiệp, không có
khả năng tự cân đối kinh phí đầu tư các công trình xử ý chất thải. Kinh phí
cho xử lý chất thải chưa được kết cấu vào chi phí đầu giường bệnh nên khó
khăn trong việc duy trì hoạt động xử lý chất thải.
Việc khoán chi ở bệnh viện đã làm cho các bệnh viện phần lớn chỉ quan
tâm đến việc đầu tư máy móc thiết bị, vật tư chuyên môn, ít quan tâm đầu tư
cho quản lý, xử lý chất thải. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến công tác quản lý, xử lý chất thải tại các bệnh viện còn nhiều
hạn chế và bất cập [17].


- 21 -

Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu
* Chất thải y tế:
- Chất thải rắn y tế: chất thải lây nhiễm, chất thải hóa học nguy hại, chất
thải thông thường.
- Nước thải bệnh viện: nước thải ra từ các hoạt động của bệnh viện.
- Hồ sơ, sổ sách quản lý CTYT của bệnh viện.
* Nhân viên y tế, vệ sinh viên và bệnh nhân là những người phơi nhiễm với
chất thải y tế nguy hại. Chia làm 3 nhóm:
- Nhóm 1: bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, gọi chung là NVYT
- Nhóm 2: hộ lý, nhân viên công ty ICT và Hoàn Mỹ, gọi chung là vệ

sinh viên (VSV)
- Nhóm 3: bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân
* Cơ sở vật chất, trang thiết bị quản lý chất thải:
- Dụng cụ thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế
- Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ 6/2011 đến 10/2012
- Địa điểm: Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp
Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp được thành lập từ năm 1959, là trung
tâm khám chữa bệnh lớn nhất của thành phố và khu vực miền Duyên hải.
Bệnh viện còn là nơi thực hành của Trường Đại học Y Hải Phòng, Học viện
Quân y, Trường Cao đẳng kỹ thuật y tế Trung ương I Hải Dương, Trường
Trung học Y tế Hải Phòng, nơi đào tạo các Bác sỹ chuyên khoa cấp I, cấp II


- 22 -

cho các Trung tâm y tế quận - huyện trong thành phố và các tỉnh bạn. Đồng
thời Bệnh viện còn là Trung tâm nghiên cứu khoa học, phát triển kỹ thuật y tế
chuyên sâu vùng Duyên hải và ngành y tế Hải Phòng [29].
Bệnh viện Việt Tiệp là bệnh viện cấp thành phố nên hiệu suất giường
bệnh lớn, có 950 giường theo kế hoạch, 1070 giường thực kê, trong đó khối
lâm sàng gồm 20 khoa với 957 giường bệnh, nhưng thường xuyên phải tiếp
nhận trên 1150 bệnh nhân nội trú, ngoài ra có từ 2000 - 3000 lượt người hàng
ngày đến khám chữa bệnh, CBCNV, sinh viên, học sinh thực tập, người thăm
nuôi... do đó lượng chất thải phát sinh bao gồm CTYTNH và chất thải sinh
hoạt cũng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, bệnh viện tập trung nhiều nghề độc
hại liên quan đến hóa chất, chất phóng xạ, tia xạ, tiếng ồn, phân, rác thải và
nguồn lây bệnh từ bệnh nhân sang nhân viên y tế là rất cao, đặc biệt là căn
bệnh thế kỷ HIV/ AIDS. Do bệnh viện nằm trong khu vực dân cư có mật độ

dân số cao nên nguy cơ gây nhiễm bệnh ra cộng đồng dân cư sống xung
quanh khu vực bệnh viện là rất lớn.
Với những lý do như vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này tại
Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp để đánh giá công tác bảo vệ môi trường tại đây
sau khi có quyết định số 64/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch xử lý
triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của Chính phủ.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
* Chọn mẫu cho nghiên cứu thực trạng quản lý chất thải y tế:
- Chất thải rắn:
o Chọn toàn bộ.
o Cân định lượng toàn bộ rác thải hàng ngày của bệnh viện một
tuần 3 lần trong 10 tháng


- 23 -

- Nước thải bệnh viện:
o Lấy nước thải tại hố ga sau khi đã qua hệ thống xử lý trong 12
tháng (3 tháng/lần x 12 tháng = 4 lần, tần suất lấy theo Đề án bảo
vệ môi trường của Bệnh viện).
o Làm 8 chỉ số xét nghiệm: BOD5, PO4, NO3, H2S, Amoni,
Coliform, Salmonella và Shigella
* Chọn mẫu cho nghiên cứu các yếu tố liên quan đến quản lý CTYT:
Do không biết một cách chắc chắn tỉ lệ có kiến thức, thực hành đúng về
quản lý CTYT cũng như những nguy hại do CTYT mang lại đối với người
tiếp xúc, mặt khác trình độ của các đối tượng nghiên cứu cũng khác nhau nên
chúng tôi áp dụng cách tính mẫu chung nhất (tỉ lệ 50%) theo công thức sau:


N  Z 12 

/ 2

p 1  p 
d2

Trong đó:.
 N: Cỡ mẫu nghiên cứu
 Chọn p = 0,5
 d: Độ chính xác mong muốn, d = 0,05
 Z21-α/2 = (1,96)2 (Độ tin cậy 95%, α = 0,05).
Thay vào công thức tính được cỡ mẫu N = 384, lấy tròn 400 (cho mỗi
đối tượng nghiên cứu là NVYT, VSV, bệnh nhân để thăm dò các yếu tố liên
quan đến kiến thức, thực hành).
Tuy nhiên số lượng NVYT, VSV có hạn (520 NVYT và 147 VSV), do
đó chúng tôi quyết định chọn cỡ mẫu toàn bộ số lượng các NVYT và VSV
phỏng vấn kiến thức thực hành.
* Phương pháp chọn mẫu phỏng vấn đánh giá kiến thức, thực hành:
- Nhóm 1 (NVYT): Chọn chủ đích toàn bộ NVYT của khối lâm sàng, gồm
20 khoa với tổng số 520 người.


- 24 -

- Nhóm 2 (VSV): Chọn chủ đích toàn bộ hộ lý bệnh viện và nhân viên của
Công ty ICT, công ty Hoàn Mỹ (147 người)
- Nhóm 3 (bệnh nhân): Lập danh sách bệnh nhân đã nhập viện từ 2 ngày trở
lên tại mỗi khoa, sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống để
chọn đủ 400 bệnh nhân (lấy số bệnh nhân chia cho 400 để xác định khoảng

cách chọn).
2.3. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
2.3.1. Các chỉ số về thực trạng quản lý chất thải y tế
* Thực trạng chất thải rắn:
- Tổng lượng chất thải rắn y tế/ngày.
- Khối lượng chất thải y tế (kg)/giường bệnh/ngày.
- Khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại (kg)/giường bệnh/ngày.
- Tỉ lệ chất thải rắn y tế nguy hại/chất thải rắn y tế.
- Công tác thu gom, phân loại, vận chuyển, lưu giữ, xử lý chất thải rắn.
* Thực trạng chất lượng nước thải:
- Uớc tính lượng nước thải/ngày.
- Kết quả phân tích chất lượng nước thải.
2.3.2. Một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế
- Nhân viên trực tiếp quản lý CTYT là những người hàng ngày thực hiện
công việc thu gom, phân loại, vận chuyển, xử lý chất thải y tế tại bệnh
viện.
- Kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT, VSV về quy chế quản lý
CTYT theo Quyết định số 43/2007/QĐ- BYT ngày 30/11/ 2007 của Bộ
Y tế, gồm:
o Kiến thức về phân loại CTYT theo nhóm, mã màu quy định
dụng cụ chứa CTYT.
o Thái độ, thực hành về phân loại CTYT


- 25 -

o Hiểu biết về tác hại của CTYT đối với môi trường, sức khoẻ và
các đối tượng có nguy cơ dễ bị ảnh hưởng bởi CTYT;
- Nhận thức, thái độ, thực hành của bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân
về vệ sinh bệnh viện.

2.4. Kỹ thuật thu thập số liệu
2.4.1. Phỏng vấn trực tiếp đối tượng nghiên cứu
Điền thông tin vào mẫu phiếu in sẵn thống nhất.
Nhóm nghiên cứu phát phiếu đánh giá kiến thức về quản lý CTYTF
cho từng đối tượng trong nghiên cứu, hướng dẫn ghi đầy đủ các thông tin
trong phiếu. Mỗi người đọc kỹ câu hỏi, lựa chọn câu trả lời đúng vào ô thích
hợp. Thời gian đánh giá là 15 phút.
2.4.2. Quan sát trực tiếp quá trình phân loại, thu gom và xử lý CTYT
Trong thời gian nghiên cứu, quan sát trực tiếp quá trình thực hành phân
loại, thu gom CTYT của đối tượng nghiên cứu tại nguồn phát sinh, và quá
trình xử lý CTYT ban đầu tại mỗi khoa.
- Chất thải lây nhiễm: gồm chất thải sắc nhọn, chất thải lây nhiễm không
sắc nhọn (chất thải thấm máu và các dịch sinh học của cơ thể từ các
buồng bệnh cách ly), chất thải lây nhiễm nguy cơ cao (phát sinh từ các
phòng xét nghiệm), chất thải giải phẫu.
- Chất thải hóa học nguy hại: gồm dược phẩm quá hạn, các hóa chất
trong y tế, chất gây độc tế bào, chất thải chứa kim loại nặng (từ nhiệt
kế, huyết áp kế...).
- Chất thải thông thường: gồm chất thải sinh hoạt, các chất thải từ hoạt
động khám chữa bệnh không dính máu và dịch sinh học và hóa chất
độc hại, chất thải sinh hoạt từ khu vực hành chính, lá cây.


×