Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Xử lý một cán bộ hội phụ nữ của huyện h làm đơn kiện tỉnh hội phụ nữ, liên đoàn lao động tỉnh a vì chị sinh con thứ ba, nên buộc thôi việc năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.71 KB, 14 trang )

Tiểu luận cuối khoá

MỞ ĐẦU
Người phụ nữ Việt Nam hiện nay vừa là con người của lao động, con
người của nội trợ, con người của chiến sỹ. Trong đó con người lao động và con
người nội trợ ở trong mỗi người phụ nữ Việt Nam mới chính là hình ảnh thường
hằng về họ. Con người chiến sĩ lúc nổi lên thật rạng rỡ, nhưng nhiều lúc vẫn lẩn
vào trong con người lao động và nội trợ và mang cốt cách của hai con người
này. Phong thái bao trùm cốt cách và tâm hồn cơ bản của người phụ nữ Việt
Nam, đấy là sự bình dị, là lòng nhân ái, là ân tình và yêu thương đằm thắm.
Chính những điều đó đã làm cho con người phụ nữ Việt Nam cần cù, tỉ mỉ, nhẫn
nại dẻo dai, tằn tiện, chịu khó, chịu khổ mà lao động đảm đang. Bản thân người
phụ nữ dường như không còn thấy đặt ra nhu cầu hưởng thụ gì to tát, nhưng
chính là vì chồng con, họ hàng rồi làng xóm, vì đất nước - dân tộc. Vì thương
yêu tất cả mà họ lao động cũng chính với tấm lòng trung hậu, và luôn phát huy
bản chất của người phụ nữ Việt Nam " Trung hậu đảm đang ". Trong công tác xã
hội người phụ nữ đã phát huy được hết khả năng của mình, đảm nhận nhiều
cương vị cao trong xã hội và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Nền tảng của sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam là dựa trên nguồn
nhân lực của chính mình, chính vì vậy vấn đề dân số có quan hệ mật thiết, chặt
chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, hệ thống các chính sách
dân số là một bộ phận của chiến lược phát triển xã hội, chiến lược phát triển
kinh tế xã hội phải gắn liền một cách hữu cơ với các chính sách phát triển kinh
tế, văn hoá, dân số, bảo vệ môi trường.
Qua học tập lớp Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước tổ chức, tôi đã
được trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước trên tất cả các mặt
của xã hội nói chung và Quản lý Nhà nước về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
nói riêng. Quản lý Nhà nước về công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình nhằm

-1-



Tiểu luận cuối khoá

mục tiêu ổn định Dân số để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống của từng người, từng gia đình và toàn thể xã hội đưa đất nước ngày càng
phồn vinh giàu đẹp. Bản thân là một người phụ nữ vì vậy để đảm bảo quyền lợi
và nghĩa vụ của phụ nữ tôi chọn đề tài: "Xử lý một cán bộ Hội phụ nữ của
Huyện H làm đơn kiện Tỉnh Hội phụ nữ, Liên đoàn lao động Tỉnh A vì chị
sinh con thứ ba, nên buộc thôi việc năm 2014"

-2-


Tiểu luận cuối khoá

CHƯƠNG I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1.1.

Tên tình huống

Xử lý một cán bộ Hội phụ nữ của Huyện H làm đơn kiện Tỉnh Hội phụ nữ,
Liên đoàn lao động Tỉnh A vì chị sinh con thứ ba, nên buộc thôi việc năm 2014
Địa điểm xảy ra tình huống: tại Huyện H năm 2014.
1.2.

Diễn biến của tình huống

Chị Nguyễn Thị K là một cán bộ của Hội phụ nữ Huyện H, Tỉnh A. Chị K là
một cán bộ hội còn trẻ, được đào tạo cơ bản, có hệ thống, trong công tác năng nổ,

nhiệt tình và tỏ ra là người có năng lực làm công tác Hội. Chị K đã có hai con gái,
cả hai đều khoẻ mạnh, xinh xắn và học giỏi, chồng chị K là công nhân của một
công ty sản xuất bao bì, anh là người chồng hiền lành biết thương vợ con do vậy
chị K có điều kiện thuận lợi để tham gia công tác xã hội.
Tưởng như công việc sẽ suôn xẻ nếu chị K chỉ dừng lại ở việc nuôi dạy hai
cháu. Nhưng vì sống ở vùng quê còn nhiều hủ tục lạc hậu nhất là tư tưởng trọng
nam, khinh nữ và vì sức ép của gia đình nhà chồng là muốn có một đứa cháu trai
để có người nối dõi và lại sợ chồng không vững vàng trước tập tục lạc hậu của địa
phương nên chị K đã đồng ý với gia đình nhà chồng tiếp tục sinh cháu thứ ba với
hy vọng có người nối dõi để thoả mãn ý nguyện của gia đình nhà chồng. Khi cơ
quan phát hiện việc chị K có thai cháu thứ ba thì đã quá muộn và không thể can
thiệp bằng biện pháp y học được vì sức khoẻ của chị K rất yếu.
Sau khi chị K sinh con, Hội phụ nữ huyện yêu cầu chị K phải nghỉ việc với
lý do: Chị K là một cán bộ làm công tác phong trào nhưng bản thân lại vi phạm
cuộc vận động về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Do vậy, việc để chị K tiếp tục ở
lại Hội phụ nữ công tác là không thể được và vì chị K đã không gương mẫu thực

-3-


Tiểu luận cuối khoá
hiện, lại không thuyết phục được gia đình trong việc thực hiện công tác Dân số Kế hoạch hoá gia đình và xoá bỏ tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ.
Nhận được quyết định buộc thôi việc, chị K đã làm đơn kiện gửi lên Hội phụ
nữ tỉnh và Liên đoàn lao động tỉnh yêu cầu các cơ quan chức năng can thiệp để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Chị K cho rằng mình bị buộc phải thôi việc là rất
vô lý vì Hội phụ nữ huyện, UBND huyện chỉ căn cứ vào vào Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân huyện buộc chị K phải thôi việc trong khi luật pháp không có điều
khoản nào quy định nếu đẻ dầy, đẻ nhiều quá quy định thì sẽ bị luật pháp xử phạt.
Sau khi nhận được đơn khiếu kiện của chị K. UBND tỉnh A đã cử một tổ
công tác xuống làm việc tại huyện H, nơi chị K công tác để xem xét làm rõ nguyên

nhân vì sao chị K buộc phải thôi việc và quyết định buộc thôi việc ấy dựa vào căn
cứ nào.
Tổ công tác đã về huyện H để gặp chị K và gia đình chị để tìm hiểu nguyên
nhân vì sao chị K lại sinh con thứ ba trong khi mình lại là một cán bộ Hội đi tuyên
truyền vận động người khác thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình.
Qua nghiên cứu các văn bản, các Nghị quyết của Hội đồng dân nhân huyện H có đề
cập đến công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình tại địa phương, xem xét việc tổ
chức triển khai thực hiện của UBND huyện đối với các Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân. Sau khi đã thu thập đầy đủ các chứng cứ, tổ công tác thấy lý do chị K bị
buộc thôi việc đúng như tinh thần chị K đã nêu trong đơn. Đối chiếu với chế độ,
chính sách và quy định của pháp luật, tổ công tác thấy rằng việc Hội phụ nữ và
UBND huyện H buộc chị K phải thôi việc vì lý do sinh con thứ ba là không có căn
cứ.
Từ tình huống nêu trên đặt ra cho chúng ta mục tiêu cần phải giải quyết là
đảm bảo tính nghiêm minh trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đồng thời phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.

-4-


Tiểu luận cuối khoá

CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG

2.1.

Mục tiêu phân tích tình huống

Qua xem xét sự việc trên đã nảy sinh ra những vấn đề cần phải giải quyết đó

là:
* Việc sinh con thứ ba của chị Nguyễn Thị K là đúng hay sai?
* Hội phụ nữ huyện H yêu cầu chị K nghỉ việc đã đúng với các quy định của
Nhà nước hay chưa?
* Hướng giải quyết như thế nào là hợp lý ?
2.2. Phân tích diễn biến tình huống dựa trên cơ sở nhũng quy định hiện
hành của Nhà nước có liên quan.
* Đối với việc ra quyết định của các cơ quan có thẩm quyền (Hội đồng nhân
dân, UBND huyện)
Trong việc thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, Hội đồng
nhân dân huyện H đã có Nghị quyết số 32/NQ-HĐ, Nghị quyết quy định hình thức
xử lý đối với trường hợp vi phạm chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình ( sinh
con thứ ba ) sẽ bị thôi việc.
Khi nhận được văn bản của Hội phụ nữ huyện H đề nghị xử lý kỷ luật đối
với chị K. UBND huyện H đã xem xét và căn cứ vào Nghị quyết số 32/NQ-HĐ của
Hội đồng nhân dân huyện H đã ra quyết định buộc thôi việc đối với chị K. Quyết
định buộc thôi việc đối với chị K làm cho nhiều người không đồng tình.

-5-


Tiểu luận cuối khoá
Về mặt lý luận chúng ta thấy: Quyết định hành chính là kết quả của sự thể
hiện ý chí, quyền lực đơn phương của cơ quan hành chính Nhà nước, những viên
chức Nhà nước được trao thẩm quyền và của các tổ chức khác khi Nhà nước uỷ
quyền, được ban hành trên cơ sở luật và nhằm thực hiện luật theo trình tự và hình
thức văn bản hoặc văn nói theo quy định của pháp luật. Mục tiêu của quyết định
hành chính là nhằm định ra chính sách, đặt ra, sửa đổi các quy phạm pháp luật hành
chính hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ
thể để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của quyền hành pháp của Nhà nước.

Quyết định hành chính phải đảm bảo được những tính chất cụ thể như sau:
- Có tính ý chí quyền lực Nhà nước là kết quả của sự thể hiện ý chí của các
cơ quan hành chính có thẩm quyền thực hiện nhân danh quyền lực Nhà nước.
- Có tính pháp lý, thể hiện ở hiệu quả pháp lý của nó. Quyết định hành chính
tác động vào đời sống xã hội bằng việc định ra chính sách, đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ
các quy phạm pháp luật hành chính, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật hành chính cụ thể.
- Có tính dưới luật, nghĩa là nội dung của quyết định hành chính phải phù
hợp với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, được ban hành
theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định.
Như vậy, Quyết định hành chính Nhà nước là tín hiệu điều khiển, là thông
tin quy phạm của các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước tác động vào khách thể
để thực hiện mục đích của mình đề ra theo quỹ đạo và ý chí của mình. Bên cạnh
những tính chất cơ bản trên thì quyết định còn phải có được tính hợp pháp và hợp
lý.
Nguyên tắc Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi hoạt động của các
cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó có hoạt động ra quyết định hành chính,
phải phù hợp với pháp luật về nội dung và trình tự ban hành; Nghĩa là mọi quyết
định hành chính được ban hành trên cơ sở, Hiến pháp, pháp luật. Mặt khác các
quyết định hành chính phải đảm bảo tính hợp lý phải đảm bảo tính hợp lý, nghĩa là
-6-


Tiểu luận cuối khoá
phải phù hợp với đường lối chính trị, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và thực
tiễn, khả năng Quản lý Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Khi ban hành các quyết định hành chính các cơ quan hành chính Nhà
nước bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý, từ đó đưa ra các văn bản mới có khả
năng thực thi, được xã hội chấp nhận. Nhưng cũng có những trường hợp tính hợp

pháp và hợp lý không đồng nhất với nhau. Lý do chính là do cơ quan ban hành
chưa kịp sửa chữa những văn bản đã lỗi thời không còn phù hợp nữa, hoặc là do cơ
quan ban hành không tính toán hết được những đặc điểm của từng địa phương và
sơ sở nên có thể quyết định phù hợp với nơi này mà không thích hợp với nơi khác.
Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền áp dụng vẫn phải thi hành nghiêm
chỉnh quyết định của cấp trên, đồng thời kiến nghị cơ quan cấp trên bãi bỏ hoặc sửa
đổi cho phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương, cơ sở. Trong mọi trường hợp
tính hợp pháp đều có ưu thế hơn so với tính hợp lý, không thể vì lý do hợp lý mà
coi thường quyết định của cấp trên, tự ban hành những quy định trái với quyết định
đó.
* Tính hợp pháp của quyết định hành chính được thể hiện như sau:
- Các quyết định hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật.
Có nghĩa là các quyết định hành chính không được trái với Hiến pháp, luật và văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Hay nói cách khác là các quyết định hành chính
không được vi phạm luật.
- Các quyết định hành chính phải được ban hành trong phạm vi thẩm quyền
cơ quan hoặc chức vụ. Yêu cầu này đòi hỏi mỗi cơ quan chỉ có quyền hạn ban hành
quyết định giải quyết các vấn đề nhất định do pháp luật giao cho, không lạm quyền
và lẩn tránh trách nhiệm. Việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan Nhà nước
đảm bảo cho cơ quan thực hiện trách nhiệm một cách chủ động.
Quyết định hành chính hợp lý, thì mới có khả năng thực thi cao. Nhưng phải
nhấn mạnh rằng chỉ xem xét quyết định hành chính có hợp lý hay không khi nó hợp
-7-


Tiểu luận cuối khoá
pháp; nghĩa là trước hết nó phải hợp pháp. Không thể vì lý do hợp lý, phù hợp với
nhu cầu của địa phương, cơ sở mà coi thường tính hợp pháp của quyết định.
Từ những căn cứ lý luận nêu trên cho thấy Hội đồng nhân dân huyện H ra
Nghị quyết buộc thôi việc nếu vi phạm chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình

là sai với luật vì không có điều khoản nào trong các bộ luật của Nhà nước ta ban
hành quy định như vậy. Và tương tự như vậy thì UBND huyện H ra quyết định kỷ
luật căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là trái luật pháp.
Qua sự việc trên cho thấy Hội đồng nhân dân Tỉnh A và các cơ quan Nhà
nước cấp tỉnh chưa chủ động và chưa tiến hành một cách thường xuyên trong công
tác thanh tra, kiểm tra.
Phải coi công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ là việc của riêng người quản
lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng là tai mắt của lãnh
đạo. Việc dựa vào quần chúng, dựa vào nhân dân lắng nghe và phân tích dư luận xã
hội có ý nghĩa thiết thực trong việc tổ chức, kiểm tra thực hiện quyết định quản lý
Nhà nước và phát hiện những sai sót trong công tác quản lý. Do không làm tốt
những việc trên nên đã dẫn đến việc ra quyết định sai trái của cấp dưới nhưng
không được phát hiện và xử lý kịp thời.
Từ việc ra quyết định sai trái làm ảnh hưỏng đến quyền lợi hợp pháp của
công dân dẫn đến khiếu kiện của chị K làm cho uy tín, tín nhiệm của Hội đồng
nhân dân, UBND trước quần chúng bị giảm sút vì là đại diện cho chính quyền Nhà
nước ở địa phương mà lại không nắm vững pháp luật. Chỉ từ một việc làm mất tín
nhiệm trên nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ khác của địa phương.
Đối với bản thân chị K là một cán bộ được học hành, đào tạo cơ bản, công
tác tại cơ quan Hội phụ nữ thường xuyên đi tuyên truyền vận động, thuyết phục hội
viên thực hiện công tác kế hoạch hoá gia đình tránh hiện tượng đẻ dầy, đẻ nhiều
con để có điều kiện chăm lo sức khoẻ bản thân và cho các cháu học hành thành đạt
góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Với
-8-


Tiểu luận cuối khoá
trách nhiệm là một cán bộ Hội lẽ ra chị K phải gương mẫu trong việc thực hiện
mục tiêu của chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình của Đảng và Nhà nước

nhưng chị K đã không gương mẫu, không vận động thuyết phục được gia đình thấy
rõ được tác hại của việc sinh nhiều con, dẫn đến chính bản thân mình vi phạm làm
ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện uỷ, UBND huyện thực hiện
chỉ tiêu về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình tại địa phương, làm giảm uy tín của cơ
quan Hội đối với hội viên.

-9-


Tiểu luận cuối khoá

CHƯƠNG III
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Thông qua phân tích diễn biến tình huống và những quy định hiện hành của
Nhà nước có liên quan, mục tiêu xử lý tình huống được đưa ra đó là: Xử lý dứt
điểm, hợp tình hợp lý vụ việc, không để kéo dài thời gian khiếu nại của chị Nguyễn
Thị K.
3.2. Xây dựng và lưa chọn phương án xử lý
Để xử lý tình huống trên có lý, có tình phải lựa chọn các phương án giải
quyết sau:
- Một là: Chấp nhận quyết định của UBND huyện H buộc thôi việc đối với
chị K.
- Hai là: Đình chỉ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, để chị K trở lại
tiếp tục công tác và xắp xếp cho chị K công việc phù hợp.
Nếu chấp nhận phương án thứ nhất thì coi như chúng ta đã chấp nhận việc ra
nghị quyết, quyết định sai trái của Hội đồng nhân dân, UBND huyện H và nếu như
vậy thì sẽ bảo vệ được cơ quan cấp dưới. Nhưng sẽ không có lợi vì Hội đồng nhân
dân và UBND huyện H không thấy được sự non kém của mình về kiến thức pháp

luật để phấn đấu vươn lên thực hiện chức năng Quản lý Nhà nước ở địa phương.
Đồng thời dư luận quần chúng cho rằng cơ quan cấp trên bảo vệ, bao che cho việc
làm sai của cơ quan cấp dưới dẫn đến việc thiếu lòng tin vào chính quyền, vào pháp
luật.
Nếu chấp nhận phương án giải quyết thứ hai là đình chỉ Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân huyện, cho chị K tiếp tục làm việc thì sẽ bảo đảm được tính nghiêm
- 10 -


Tiểu luận cuối khoá
minh, có nghĩa là sau khi kiểm tra phát hiện thấy sai trái của cấp dưới cơ quan cấp
trên đã yêu cầu sửa chữa kịp thời không bao che, dung túng. Đồng thời bảo vệ được
quyền lợi hợp pháp của công dân. Từ việc phân tích cái được và chưa được của hai
phương án giải quyết trên, chúng ta sẽ chọn phương án thứ hai vì nó đảm bảo đúng
luật pháp.
3.3. Biện pháp thực hiện.
* UBND tỉnh A phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định buộc thôi việc đối với
chị K của UBND huyện H.
* Tổ chức cuộc họp với UBND huyện H và mời lãnh đạo của Hội phụ nữ
huyện H tham dự để thông báo quyết định xử lý của UBND tỉnh A và phân tích vì
sao UBND tỉnh lại quyết định như vậy, đồng thời cũng nêu nên việc thiếu kiểm tra
đôn đốc của UBND tỉnh và các cơ quan chức năng của tỉnh trong lĩnh vực ban hành
văn bản. Đồng thời phân tích rõ những thiếu sót, khuyết điểm và việc thiếu gương
mẫu của chị K trong việc thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình để
Hội đồng nhân dân, UBND huyện và các ngành chức năng của huyện rút kinh
nghiệm trong việc chuẩn bị ban hành văn bản và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính
sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình có hiệu quả góp phần thực hiện chiến lược
Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Cần lưu ý trong quá trình thực hiện phải áp dụng
đồng bộ hệ thống các chính sách và biện pháp như: Những chính sách và biện pháp
tổ chức giáo dục, kinh tế, tài chính, y tế và biện pháp hành chính, pháp luật. Trong

quá trình chỉ đạo thực hiện các chính sách và biện pháp tổ chức giáo dục, kinh tế,
tài chính, y tế và biện pháp hành chính, pháp luật. Trong quá trình chỉ đạo thực
hiện các chính sách và biện pháp Dân số- Kế hoạch hoá gia đình cần chú trọng
quán triệt nguyên tắc tự nguyện, không thô bạo, ép buộc, có nghĩa là phải quan tâm
hàng đầu đến những chính sách và biện pháp giáo dục, tổ chức.
3.4. Kiến nghị
Xuất phát từ sự việc xảy ra tình huống như đã trình bày ở phần trên. Với góc
độ quản lý hành chính Nhà nước, để việc ra các văn bản quy phạm của các cấp có
- 11 -


Tiểu luận cuối khoá
thẩm quyền không trái với Hiến pháp và luật, việc tổ chức thực hiện của các cấp có
tính khả thi cao:
- Đề nghị UBND Tỉnh cho tiến hành rà soát các văn bản đã được ban hành
nếu văn bản nào không đúng quy định thì phải kiên quyết và kịp thời sửa đổi, bổ
xung, hoặc bãi bỏ, đình chỉ thi hành. Văn bản nào đúng thì tiếp tục thực hiện.
- Tăng cường công tác tuyên truyền vận động quần chúng làm cho quần
chúng hiểu và nhận thức đầy đủ, sâu sắc chiến lược Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
của Đảng và Nhà nước ta, qua đó thấy được lợi ích của việc thực hiện Kế hoạch
hoá gia đình mà gương mẫu thực hiện.
- Chăm lo các phương tiện vật chất kỹ thuật, tài chính và cơ sở hạ tầng phục
vụ cho việc thực hiện Dân số - Kế hoạch hoá gia đình.
- Đề nghị mở lớp đào tạo bồi dưỡng về pháp luật cho cán bộ chủ chốt cấp xã
và các ban, ngành trong huyện để nâng cao kiến thức về pháp luật.
- Đối với công chức, viên chức phải chấp hành nghiêm túc các quyết định,
luật pháp của Nhà nước nếu không sẽ phải đưa ra khỏi bộ máy công chức Nhà
nước.
Như vậy chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình cần có sự quan tâm
quản lý, phối hợp chặt chẽ giữa các nhà vạch chính sách kinh tế, đảm bảo cho các

hoạt động của các tổ chức, cá nhân vận hành một cách thống nhất.

- 12 -


Tiểu luận cuối khoá

KẾT LUẬN

Qua sự việc xảy ra ở Hội phụ nữ huyện H, ta thấy nổi lên vấn đề xử lý kỷ
luật cán bộ, công chức vi phạm việc sinh con thứ ba. Việc thực hiện đúng nguyên
tắc, quy trình trong công tác kỷ luật – khen thưởng cán bộ công chức của Hội sẽ
phát huy được trình ddooj, năng lực, nâng cao được năng suất, hiệu quả làm việc
của cán bộ, công chức.
Vụ việc trên cũng là bài học kinh nghiệm cho các cấp ủy, ban lãnh đạo của
Hội phụ nữ H. Ban lãnh đạo cần phải có sự bình tĩnh, tỉnh táo cũng như công bằng
hơn nữa để đảm bảo tính chính trực của một tổ chức.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi đã trình bày một tình huống phát sinh trong
thực tế xảy ra tại hội phụ nữ huyện H. Tuy nhiên do trình độ và năng lực có hạn
nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự quan tâm giúp
đỡ của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp./.
Tôi xin trân trọng cảm ơn./.

- 13 -


Tiểu luận cuối khoá
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 được Quốc hội nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008.

2. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 01/1998/PL-UBTVQH10 ngày
26 tháng 2 năm 1998 về cán bộ, công chức

- 14 -



×