Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 77 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN HUYN TRANG

PHáP LUậT Về BảO ĐảM QUYềN CủA NGƯờI LAO ĐộNG
TRONG QUá TRìNH GIảI QUYếT YÊU CầU
TUYÊN Bố PHá SảN DOANH NGHIệP ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN HUYN TRANG

PHáP LUậT Về BảO ĐảM QUYềN CủA NGƯờI LAO ĐộNG
TRONG QUá TRìNH GIảI QUYếT YÊU CầU
TUYÊN Bố PHá SảN DOANH NGHIệP ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN HU CH

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Huyền Trang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ
SẢN DOANH NGHIỆP ........................................................................ 9
1.1.

Phá sản và phá sản doanh nghiệp........................................................ 9


1.2.

Tác động của phá sản doanh nghiệp đến quyền lợi của người
lao động .................................................................................................. 11

1.3.

Sự cần thiết bảo đảm quyền của người lao động trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp .............. 12

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ..................................................18
2.1.

Nhóm quyền tham gia thủ tục phá sản ............................................. 18

2.1.1.

Thực trạng pháp luật .............................................................................. 18

2.1.2.

Thực tiễn thực hiện................................................................................. 22

2.2.

Nhóm quyền liên quan đến quan hệ lao động ................................. 24


2.2.1.

Thực trạng pháp luật .............................................................................. 24

2.2.2.

Thực tiễn thực hiện................................................................................. 28


2.3.

Nhóm quyền lợi hậu phá sản .............................................................. 35

2.3.1.

Thực trạng pháp luật .............................................................................. 35

2.3.2.

Thực tiễn thực hiện................................................................................. 36

2.4.

Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện ...... 38

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM ............................................................................................ 40

3.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật ................................................ 40

3.1.1.

Hoàn thiện pháp luật theo hướng dự báo .............................................. 40

3.1.2.

Hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập và điều kiện
kinh tế, xã hội của nước ta ..................................................................... 41

3.1.3.

Hoàn thiện pháp luật trên cơ sở dung hòa mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và người lao động ...................................................................... 42

3.2.

Các kiến nghị cụ thể ............................................................................. 44

3.2.1.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành ............................................ 44

3.2.2.

Một số biện pháp bảo đảm và tổ chức thực hiện pháp luật ................. 56


KẾT LUẬN ............................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 69


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÊN CỦA KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1.

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2.

BHYT

Bảo hiểm y tế

3.

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp


4.

LĐ-TB&XH

Lao động – Thương binh và Xã hội

5.

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

6.

TAND

Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang trong quá trình tham gia hội nhập vào nền kinh tế
thương mại thế giới, đánh dấu bằng một loạt các sự kiện tích cực: gia nhập và
trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giớiWTO song song với việc tiến hành ký kết nhiều hiệp định thương mại song
phương, đa phương: hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình DươngTPP, Hiệp định thương mại tự do- FTA, ký kết thành lập cộng đồng chung
ASEAN… Đồng nghĩa với việc đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi
trường kinh doanh sôi động, chịu tác động một cách mạnh mẽ từ quy luật
cạnh tranh, trong hoàn cảnh đó, các doanh nghiệp có cấu trúc giản đơn, không
đủ năng lực cạnh tranh sẽ dần dần dẫn tới “mất khả năng thanh toán” các
khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh và đi đến phá sản.

Khi doanh nghiệp phá sản, người lao động bị nợ lương, trợ cấp theo
hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể… là nhóm chủ nợ có lực
lượng khá đông đảo, là đối tượng bị thiệt hại thường xuyên và trước hết tại
các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nhưng khả năng nhận thức và tự
bảo vệ cho những quyền lợi bị xâm phạm của mình lại rất yếu ớt và hạn chế.
Đến nay, pháp luật về phá sản doanh nghiệp và pháp luật về lao động
đã có những bước tiến lớn trong việc ghi nhận cũng như xây dựng các phương
thức đảm bảo quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quy định pháp
luật chưa thực sự rõ ràng; giải quyết phá sản doanh nghiệp vẫn đang là một
vấn đề mới mẻ, thực hiện bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn đang là một vấn
đề còn nhiều vướng mắc và nan giải.

1


Thông qua việc nghiên cứu lý luận, quy định pháp luật hiện hành, đề tài
sẽ cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ rõ nguyên nhân, để từ đó
kiến nghị những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc ghi
nhận và bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận,
thực tiễn và kiến giải hoàn thiện pháp luật để có thể bảo vệ một cách tối đa
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm
vụ như sau:
Pháp luật về bảo đảm quyền lợi người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp liên quan đến hai lĩnh vực: pháp

luật lao động và pháp luật phá sản doanh nghiệp, bởi vậy, để có một cái nhìn
đúng đắn và đầy đủ về vấn đề này, chắc chắn cần phải làm rõ một số nội dung
liên quan đến phá sản doanh nghiệp, bao gồm các nội dung liên quan đến khái
niệm phá sản, hậu quả của hiện tượng phá sản, vai trò điều chỉnh của luật phá
sản… kết hợp đi sâu vào việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong
quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong pháp luật
phá sản và lao động. Nhiệm vụ này sẽ đi theo lộ trình:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phá sản và vấn đề bảo vệ quyền
lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và nhận thức về thực trạng các quy định hiện hành và thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi
của người lao động trong quá trình thực hiện phá sản doanh nghiệp.

2


- Trên cơ sở nhận thức về mặt lý luận kết hợp với nghiên cứu, phân tích
các vụ việc cụ thể, đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định của
pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về bảo đảm quyền của
người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam bao gồm các quyền tham gia thủ tục phá sản, quyền liên
quan đến quan hệ lao động, quyền lợi hậu phá sản... cả về lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, pháp luật phá sản và pháp luật lao động là các lĩnh vực
khá rộng, do vậy luận văn không đi sâu vào phân tích tất cả các nội dung liên
quan đến phá sản doanh nghiệp hay lao động và pháp luật lao động nói chung.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic và tính có hệ thống, luận văn vẫn cần đề cập
tới một số nội dung có liên quan để làm rõ đề tài, dừng lại ở mức độ sơ lược
và khái quát.
Về mặt thực tiễn, luận văn nêu ra các vụ việc điển hình, nhìn nhận và
đánh giá một cách khách quan để có thể đưa ra các kiến nghị chính xác, cụ thể
nhằm giải quyết vấn đề đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Về mặt thời gian, xuất phát từ tình hình thực tế là nền kinh tế Việt Nam
chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, việc đảm bảo quyền
của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp gắn với việc ra đời của những quy phạm liên quan đến phá sản doanh
nghiệp, do vậy luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1993
trở lại đây, kể từ khi ban hành luật phá sản đầu tiên cho đến luật phá sản 2015
nhưng không nhằm mục đích so sánh các văn bản pháp luật phá sản.

3


Về không gian, luận văn giới hạn việc tìm hiểu, so sánh ở mức độ nhất
định với pháp luật của một số quốc gia điển hình như: Cộng hòa Pháp- đại
diện cho hệ thống pháp luật Civil Law, Hoa Kỳ- điển hình của trường phái
Common Law và Trung Quốc- một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, cùng
theo đuổi chủ nghĩa xã hội và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phá sản, pháp luật về phá sản doanh nghiệp hay đảm bảo quyền lợi của
người lao động là vấn đề không mới đối với hầu hết các quốc gia có nền kinh tế
thị trường phát triển. Ở Việt Nam với đặc thù là nền kinh tế chuyển đổi, do đó
phá sản, pháp luật phá sản hay bảo đảm quyền lợi của người lao động được khá
nhiều học giả quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau về các vấn đề này đã ra đời:

- Về phá sản và pháp luật phá sản có một số công trình nghiên cứu như:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Minh Tú năm 2003 về “Nguyên nhân của
việc áp dụng hạn chế pháp luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam”; của tác giả Tạ
Văn Giang năm 2012 về “Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua
thủ tục phá sản”… Các công trình này đã nghiên cứu những vấn đề chung về
phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp, phân tích và so
sánh những đặc điểm cơ bản của luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam và của
một số nước trên thế giới, làm sáng tỏ những vấn đề chung về điều hòa lợi ích
của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản, đưa ra những biện pháp và kiến
nghị nhằm hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực pháp luật
phá sản trong thực tiễn. Do các đề tài này đi theo hướng nghiên cứu khác nên
quyền lợi của người lao động khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ
mới được nghiên cứu ở mức độ sơ bộ, hầu như chỉ dừng lại ở quyền lợi như một
trong các chủ nợ không có bảo đảm khác tức là các lợi ích về kinh tế nói chung
chủ yếu là quyền được thanh toán tiền lương, trợ cấp.

4


Cũng có công trình nghiên cứu khoa học khác đi sâu vào bảo vệ quyền lợi
của người lao động chẳng hạn như luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh
Hải năm 2012: “Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước”. Công trình này đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận của việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, rút ra những nhận xét khoa học và đề xuất các giải pháp
cụ thể nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước- người lao động- người sử
dụng lao động. Tuy nhiên, bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp là hai trường hợp mang những nét đặc thù riêng, chịu
sự điều chỉnh của những quy phạm pháp luật riêng và do đó cần có những công

trình nghiên cứu cụ thể để có thể giải quyết thấu đáo các nội dung trên hai mặt lý
luận và thực tiễn.
Qua khảo cứu các công trình tiêu biểu đã được công bố, cho đến hiện tại,
trên phương diện nghiên cứu nói chung và với phạm vi luận văn thạc sĩ luật học
nói riêng, đề tài bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ và chưa
có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới. Chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề đảm bảo quyền lợi của người
lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Cho đến nay chỉ
mới có sách tham khảo với tựa đề “Chính sách chế độ đối với lao động trong
doanh nghiệp phá sản và giải thể” của nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản
năm 1993 đề cập khá chính xác đến nội dung mà luận văn nghiên cứu, tuy nhiên
cuốn sách chỉ mới dừng lại ở việc tập hợp các nghị định, thông tư của Chính
phủ về chính sách, chế độ đối với lao động trong các doanh nghiệp phá sản,
giải thể chứ không đi sâu phân tích, nghiên cứu, đồng thời các nội dung được

5


tập hợp khá sớm kể từ khi pháp luật phá sản ở nước ta bước đầu được xây
dựng nên đến nay, các nội dung mới chưa được cập nhật đầy đủ.
Việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã được ghi nhận trong pháp luật phá sản,
pháp luật lao động, từ trước cho đến nay và đang dần được hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, do bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay vô cùng phức tạp và nảy sinh rất
nhiều vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động mà chưa được giải
quyết một cách triệt để. Với tư cách là một công cụ kiểm soát và điều chỉnh các
mối quan hệ trong xã hội, pháp luật phải nhanh chóng hoàn thiện và tiên liệu
được các vấn đề có thể xảy ra nhằm giảm thiểu các rủi ro, nguy cơ ảnh hưởng
xấu đến kinh tế, xã hội.

Pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa thực sự bao quát
được tất cả các vấn đề nảy sinh, còn tồn tại nhiều thiếu sót, chưa thống nhất giữa
quy định và thực tiễn áp dụng vì vậy chưa thể là công cụ vững chắc để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của người lao động trong khi luật lao động lại chưa
đủ sức điều chỉnh quan hệ này.
Trên cơ sở đó, luận văn nhằm mục đích phân tích các quy định về đảm
bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản, nhìn nhận vào các hệ quả, những sự việc có thật trong thực tiễn để từ đó
đánh giá và kiến nghị những giải pháp phù hợp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở vận dụng những quan
điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.

6


Luận văn vận dụng những phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật, áp dụng vào tình hình cụ thể của nước ta. Các phương
pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý cũng được đặc biệt chú
ý sử dụng trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp các kiến thức
từ pháp luật thực định, phân tích thực tiễn để nhận thức, đánh giá thực trạng
điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương pháp so sánh luật học,
phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử, xã hội học pháp luật, suy
diễn logic... để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở cấp thạc sĩ luật học nghiên

cứu tương đối cụ thể và có hệ thống một số vấn đề lý luận, thực tiễn pháp luật
về bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
Nhận thức chung nhất về quyền của người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trên hai phương diện lý luận và
thực tiễn, xem xét quyền lợi của người lao động từ góc độ đặt trong mối quan
hệ lao động chứ không phải là bất kỳ một quan hệ xã hội nào khác.
Phân tích, đánh giá trên cơ sở đối chiếu các quy định pháp luật với thực
tiễn áp dụng, tìm ra những bất cập trong các quy định về bảo đảm quyền của
người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu về lý luận, thực trạng pháp luật trong nước, kết hợp
nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới, và thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đưa ra một số kiến giải nhằm
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.

7


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
- Chương 1: Khái quát chung về phá sản doanh nghiệp và bảo đảm
quyền lợi người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền lợi người lao động
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam và
thực tiễn thực hiện.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền lợi người lao động

trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.

8


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP

1.1. Phá sản và phá sản doanh nghiệp
Hiện tượng phá sản đã có từ lâu nhưng chỉ tồn tại trong một số hình
thái kinh tế xã hội nhất định, hiện tượng này khá xa lạ trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung nhưng xảy ra một cách đương nhiên và khách quan trong
nền kinh tế thị trường. Do đó, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển, chế định luật “vỡ nợ” hay “phá sản” luôn là một bộ phận không thể
thiếu trong hệ thống pháp luật về kinh doanh.
Một doanh nghiệp sẽ bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi hội đủ
những yếu tố căn cứ nhất định, tòa án có thể dựa trên những căn cứ đó để
tuyên bố doanh nghiệp phá sản kéo theo hàng loạt hậu quả sau đó, tuyên bố
này có thể gây ảnh hưởng xấu thậm chí chấm dứt luôn hoạt động kinh doanh
của con nợ, ảnh hưởng đến uy tín, ảnh hưởng đến cả tài sản của doanh nghiệp
đó. Rõ ràng, việc phá sản sẽ gây hại trực tiếp cho doanh nghiệp đó, ảnh hưởng
đến các chủ nợ, lớn hơn là ảnh hưởng đến cả nhà nước, ảnh hưởng đến nền
kinh tế, do đó nếu không có những cơ sở chắc chắn và quan điểm đúng đắn về
định nghĩa phá sản thì có thể để lại những hậu quả vô cùng to lớn.
Hiện tượng phá sản vốn đã được định nghĩa từ rất sớm. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, “chế định phá sản được hoàn chỉnh và đã được
nâng lên thành luật phá sản của nhà nước La Mã cổ đại” [14]. Ở thời kỳ này,
thuật ngữ phá sản đã được hình thành, bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng

Latinh - có nghĩa là sự khánh tận - tức là mất khả năng thanh toán.

9


Đến nay, hiện tượng phá sản đã trở nên phổ biến, các nhà nước thông
qua việc thực hiện chức năng quản lý của mình đã can thiệp sâu hơn vào quy
trình giải quyết hiện tượng phá sản doanh nghiệp. Ở mỗi quốc gia do điều
kiện kinh tế xã hội khác nhau nên có các quan niệm tương đối khác nhau
trong việc định nghĩa về phá sản.
Theo định nghĩa luật mất khả năng thanh toán năm 2002 của Cộng hòa
liên bang Nga thì thương nhân bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu có đủ
hai yếu tố mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và chậm thanh toán: nếu sau
03 tháng, kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả được các món nợ và
tình trạng phá sản là “tình trạng con nợ không có khả năng thỏa mãn một
cách đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với các nghĩa vụ trả tiền hoặc các
món nợ bắt buộc phải trả khác” [8, tr. 97].
Một số nước bổ sung thêm yếu tố định lượng vào khái niệm tình trạng
phá sản chẳng hạn như quy định việc con nợ không thể thanh toán được một
khoản tiền tối thiểu nào đó nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự giải
quyết tranh chấp có quy mô nhỏ bằng những hình thức khác giúp tiết kiệm
thời gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và nhà nước: luật phá sản của
Singapore năm 1999 quy định con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi không
trả được nợ đến hạn ít nhất là 5.000 đô la Singapore [27], luật phá sản của
Singapore năm 2015 nâng mức này lên 15.000 đô la Singapore [28], còn
trong luật phá sản Mỹ thì số tiền này phải trên 10.000 đô la Mỹ [31].
Ở Việt Nam, các nhà lập pháp ở các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có
cùng một quan điểm về tình trạng phá sản như ở nhiều nước trên thế giới.
Thuật ngữ “phá sản” được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc và theo cách nói
thông thường, phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ

tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn.

10


Tóm lại, pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều coi phá sản là tình
trạng người mắc nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tòa án) tuyên bố phá sản và
thực hiện thanh toán cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật phá sản quy định
trên tổng giá trị tài sản còn lại của con nợ.
Pháp luật phá sản là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về điều
kiện mở thủ tục phá sản; địa vị pháp lý, mối quan hệ giữa các chủ thể tham
gia thủ tục phá sản; trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; điều
kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thanh lý tài sản doanh nghiệp; thi hành
quyết định tuyên bố phá sản; các vấn đề khác phát sinh trong quá trình giải
quyết vụ việc phá sản.
Phá sản là hiện tượng tất nhiên, cần thiết cho nền kinh tế thị trường.
Pháp luật phá sản chính là sự can thiệp có ý thức của nhà nước vào hiện tượng
phá sản nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt
tích cực của nó.
Pháp luật phá sản hiện nay đi theo hướng bảo vệ các nhóm quyền lợi:
trật tự kinh tế- xã hội, khẳng định vai trò của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, quyền lợi hợp pháp của con nợ [9, tr. 23].
1.2. Tác động của phá sản doanh nghiệp đến quyền lợi của người
lao động
Với cách hiểu phá sản doanh nghiệp là hiện tượng mất khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn của các doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp,
một con nợ thường có rất nhiều chủ nợ, đến thời điểm con nợ mất khả năng
thanh toán thì tổng giá trị tài sản còn thường nhỏ hơn tổng giá trị các khoản

nợ, do vậy, tài sản còn lại của con nợ không đủ để thanh toán hết cho các

11


nghĩa vụ, việc không được thanh toán đầy đủ giá trị các khoản nợ sẽ ảnh
hưởng một cách trực tiếp đến quyền lợi của các chủ nợ.
Có thể thấy rằng đời sống của người lao động sẽ có nguy cơ hoặc thực
sự bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi không được trả lương, phụ cấp theo hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể đầy đủ và đúng thời hạn, không
được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT),
trợ cấp thất nghiệp… do doanh nghiệp phá sản nợ đọng quỹ BHXH, và đáng
lo ngại nhất là tình trạng thất nghiệp hậu phá sản.
Bên cạnh đó, hiện tượng phá sản cũng là hiện tượng mang tính chất dây
chuyền, doanh nghiệp này phá sản đồng thời kéo hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp chủ nợ đi xuống thì không chỉ lao động của doanh nghiệp
phá sản mà ngay cả lao động của doanh nghiệp chủ nợ cũng phải chấp nhận
rủi ro chấm dứt hợp đồng lao động nhằm giảm chi phí nhân sự. Số lượng lao
động thất nghiệp tăng lên đồng nghĩa tệ nạn xã hội cũng tăng lên, nền kinh tế
chung của quốc gia đi xuống, đời sống của công dân nước đó cũng không
được đảm bảo…
1.3. Sự cần thiết bảo đảm quyền của người lao động trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn không chỉ đối với cá nhân, tập thể người lao động, mà còn có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc
và toàn nhân loại. Quyền của người lao động là những quyền liên quan đến
người lao động và người sử dụng lao động, phát sinh trong quá trình sử dụng
lao động, hay nói cách khác, quyền của người lao động nằm trong mối quan
hệ lao động. Các quyền của người lao động được ghi nhận trong các Điều ước

quốc tế như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Công ước quốc tế về

12


các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị và các khuyến nghị của tổ chức Lao động Quốc tế. Các quyền của
người lao động mặc dù được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế,
nhưng đó chỉ là sự ghi nhận mang tính nguyên tắc chung. Các quyền trong
lĩnh vực lao động còn được ghi nhận và bảo vệ bởi rất nhiều văn kiện do tổ
chức Lao động Quốc tế khởi xướng.
Theo các văn bản này, quyền của người lao động gồm các quyền:
quyền làm việc, quyền công đoàn độc lập, quyền không bị ép làm việc không
lương, quyền nam nữ hưởng lương bằng nhau, quyền không bị phân biệt đối
xử, quyền không bị phân biệt đối xử nếu có con cái, quyền được giúp đỡ và
có việc làm thích hợp nếu bệnh tật, quyền được đào tạo, bồi dưỡng có ăn
lương, quyền không bị đuổi việc, quyền được trả lương bằng tiền, quyền
hưởng lương trên hoặc bằng mức tối thiểu, quyền được trả lương nếu chủ sử
dụng lao động bị phá sản…
Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế có thể thấy rằng, các
quyền của người lao động là một trong những quyền hết sức quan trọng của
con người thuộc nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền
của người lao động có vai trò quan trọng đối với người lao động hoặc tập thể
người lao động. Các quyền này không chỉ được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật quốc tế (tuyên ngôn, công ước, khuyến nghị), mà còn được cụ thể
hóa và quy định trong các văn bản pháp luật quốc gia như Hiến pháp, bộ luật,
luật và được thể hiện dưới hai khía cạnh là quyền và nghĩa vụ, bởi để bảo đảm
các quyền của người lao động các quốc gia buộc phải ban hành các quy định
về nghĩa vụ thông qua việc ban hành các chính sách, chương trình để thúc đẩy
việc thực hiện các quyền của người lao động, đồng thời phải đưa ra các quy

định mang tính chế tài xử lý khi các quyền này bị xâm phạm.

13


Quyền của người lao động trong hoàn cảnh doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản từ trước đến nay vẫn được các văn bản pháp luật chuyên ngành
phá sản và lao động của các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm điều
chỉnh bởi khi doanh nghiệp phá sản thì sẽ làm cho khối lượng lớn người lao
động bị thất nghiệp, nhu cầu về việc làm cũng trở nên cấp thiết, việc làm
không ổn định, không thường xuyên và phù hợp dẫn tới thu nhập bấp bênh,
cuộc sống không đảm bảo, tệ nạn và tội phạm xã hội tăng đáng kể, đồng nghĩa
với việc tăng gánh nặng đối với kinh tế, xã hội của quốc gia, khu vực.
Đảm bảo quyền lợi của người lao động chính là một bước trong tiến
trình xây dựng, phát triển nền kinh tế bởi ở bất kỳ một đất nước nào, lực
lượng lao động luôn đông đảo chiếm đa số đặc biệt là ở các quốc gia đang
phát triển. Người lao động có thể là cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý,
những công nhân, thợ kỹ thuật…. họ có ở khắp mọi nơi, làm việc để có được
thu nhập (bao gồm tiền lương, tiền thưởng, các chế độ an sinh…) nhằm mục
đích đảm bảo cuộc sống của mình và đóng thuế cho nhà nước bằng nhiều hình
thức, họ chính là lực lượng tạo ra và cũng chính là lực lượng tiêu thụ hàng
hóa trên thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng bằng nhiều cách.
Tuỳ theo chế độ chính trị - xã hội và định hướng mà pháp luật từng
quốc gia trên thế giới theo đuổi, quan điểm của nhà nước trong việc ưu tiên
bảo vệ lợi ích của nhóm chủ thể nào mà chức năng bảo vệ các nhóm quyền lợi
của pháp luật phá sản có những quy định mang tính đặc thù. Trong pháp luật
phá sản hiện đại, vấn đề bảo vệ quyền lợi người lao động được đặc biệt quan
tâm. Khẳng định quyền của người lao động trong thủ tục phá sản cũng chính
là tôn trọng nhân quyền, mục đích mà bất kỳ một đất nước văn minh nào nói
riêng và nhân loại tiến bộ hiện nay đều đang hướng tới. Pháp luật của hầu hết

các nước đều ghi nhận quyền của người lao động trong suốt quá trình tố tụng
và bình đẳng với các chủ nợ khác bởi việc đảm bảo quyền của họ là thực sự

14


cần thiết. Pháp luật phá sản ở một số nước theo chủ nghĩa xã hội và đang phát
triển như Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, nhóm người lao động, là những thành phần yếu thế nhưng lại đóng
vai trò chủ chốt trong xã hội và nền kinh tế, quyền lợi của họ lại càng đặc biệt
được bảo vệ.
Quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp ngày càng được phát triển và thừa nhận một cách
rộng rãi, thể hiện ở các quyền như: quyền được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản trong trường hợp doanh nghiệp không trả lương, các khoản nợ khác;
quyền tham gia hội nghị chủ nợ, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp;
quyền giám sát doanh nghiệp được áp dụng thủ tục phục hồi, quyền được ưu
tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác… Ngoài ra, cơ chế
phục hồi của doanh nghiệp cũng là một chế định có mục đích bảo vệ quyền
lợi người lao động, vì nếu doanh nghiệp có thể phục hồi được thì người lao
động cũng thoát khỏi tình trạng thất nghiệp về sau.
Pháp luật phá sản nước nào trên thế giới cũng quy định các quyền để họ
có thể tham gia tự bảo vệ lợi ích của mình. Cần nhận thấy rằng khi một doanh
nghiệp “mất khả năng thanh toán” các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh
doanh thì người lao động bị nợ lương, phụ cấp khác theo hợp đồng lao động
sẽ vừa là chủ nợ và cũng sẽ là nạn nhân. Cơ sở đầu tiên để họ thực hiện quyền
của mình, dù là ở tư cách nào đi nữa, trước hết vẫn là quyền nộp đơn lên cơ
quan tư pháp có thẩm quyền, cụ thể là Tòa án.
Hiện nay, pháp luật phá sản thế giới phân chia chủ nợ thành ba loại: chủ
nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.

Pháp luật cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, áp dụng

15


thủ tục thanh lý toàn bộ tài sản còn lại của doanh nghiệp để trả nợ cho các chủ
nợ. Người lao động trong trường hợp này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản doanh nghiệp với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm.
Người lao động có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện của chính
mình tham gia hội nghị chủ nợ với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm, gián
tiếp giám sát thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp hoặc thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản thông qua
quản tài viên. Nhóm quyền lợi này có thể tạm gọi là quyền tham gia thủ tục
phá sản. Người lao động cũng như các chủ nợ khác trong hội nghị chủ nợ, có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của
mình, có quyền thông qua hay không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay không tồn
tại của con nợ.
Ngoài ra, cũng cần đặc biệt lưu ý về quyền liên quan đến quan hệ lao
động, đặc biệt là quyền được thanh toán tiền lương trong doanh nghiệp phá
sản bởi đây là một vấn đề phức tạp bao gồm nội dung nghĩa vụ thanh toán
như tiền lương, phụ cấp, trợ cấp thôi việc… quyền ưu tiên thanh toán: được
thanh toán sau các chủ nợ có bảo đảm… Về lý thuyết, rất khó để tìm thấy bất
cứ ý kiến nào phản đối quan niệm người lao động được bồi thường tiền lương
và các quyền lợi khác mà họ đáng được hưởng khi doanh nghiệp phá sản.
Nhưng về thực tế thì “người lao động thường là chủ nợ tiếp xúc nhiều nhất
với doanh nghiệp phá sản nhưng họ không thể đánh giá được nguy cơ phá
sản của doanh nghiệp như các đối tượng chủ nợ khác” [26, tr.1], sau khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ thường không còn

tài sản để thực hiện nghĩa vụ với người lao động.
Hậu phá sản doanh nghiệp, vấn đề đặt ra cấp bách nhất là quyền có việc

16


làm. Đây là yếu tố cơ bản để bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng
thời cũng là yếu tố để bảo đảm nhân phẩm và lòng tự trọng của người lao
động. Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định trong pháp luật quốc tế,
cụ thể, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận: “Mọi
người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm...” [30, Điều 23]; Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội cũng xác định các yếu tố
của “quyền có việc làm” [25, Điều 6]. So với quyền của người lao động khi
doanh nghiệp phá sản, quyền có việc làm hẹp hơn, tuy nhiên, đây lại là một
quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất trong lĩnh vực lao động việc làm và hậu
phá sản. Quyền có việc làm chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực hiện
các quyền khác của người lao động nói riêng và các quyền của con người nói
chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá..... Chỉ khi quyền có
việc làm được đảm bảo thực hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý
nghĩa. Luật việc làm 2013 của Việt Nam đã bước đầu thể hiện sự quan tâm
sâu sắc đến vấn đề này.

17


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

Nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các quy luật
trong nền kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung- cầu,
không chỉ các doanh nghiệp sử dụng lao động mà chính người lao động cũng
lao đao để tìm chỗ đứng và tồn tại. Trong bối cảnh đó, Đảng và nhà nước ta
đã xác định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, phát
huy nhân tố vì con người, trước hết là người lao động “Phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và coi đây
là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất
nước” [5, tr. 41], phải tăng cường bảo vệ người lao động, trọng tâm là các
doanh nghiệp. Có thể thấy bảo vệ người lao động đã trở thành một nguyên tắc
cơ bản và quan trọng trong chủ trương xây dựng pháp luật lao động hiện
hành, đồng thời được ghi nhận một cách nghiêm túc trong pháp luật phá sản
Việt Nam xuyên suốt từ trước đến nay. Bảo đảm quyền lợi của người lao
động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt
Nam được thể hiện trong quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật
trên phương diện ba nhóm quyền:
2.1. Nhóm quyền tham gia thủ tục phá sản
2.1.1. Thực trạng pháp luật
- Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ trả lương và các khoản nợ
khác cho người lao động đúng hạn, người lao động được coi như chủ nợ không

18


có bảo đảm và có các quyền và nghĩa vụ như chủ nợ không có bảo đảm.
Nhằm thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với người lao động,
luật phá sản của các nước cũng như tại Việt Nam đều ghi nhận quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động. Khi doanh nghiệp
hoặc mất khả năng thanh toán tiền lương và các loại trợ cấp cho người lao

động hoặc chậm thanh toán sau một khoảng thời gian nhất định kể từ ngày
đến hạn thanh toán thì người lao động có thể buộc doanh nghiệp thực hiện
các nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập
thể bằng cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đến cơ
quan có thẩm quyền giải quyết.
Luật phá sản Việt Nam trước đây quy định người lao động không được
tự nộp đơn mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn. Cơ
chế cử người đại diện được quy định khá phức tạp gây ra nhiều khó khăn cho
người lao động, hạn chế và gần như vô hiệu hoá quyền nộp đơn của người lao
động trong doanh nghiệp.
Hiện nay, quyền của người lao động trong thủ tục phá sản ngày càng
được khuyến khích và tăng cường hơn nữa, luật phá sản năm 2014 quy định
không chỉ đại diện tập thể người lao động là công đoàn cơ sở, công đoàn cấp
trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở mà chính
người lao động cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu hết
thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ
khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán.
Trên quan điểm tạo điều kiện và khuyến khích người lao động đứng ra
tự bảo vệ cho quyền lợi của mình, luật phá sản Việt Nam khẳng định người
lao động, đại diện người lao động khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

19


×