Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Nâng cao vai trò của thẩm phán và hội thẩm nhân dân của tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh quảng ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ HUỆ

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ HUỆ

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản

HÀ NỘI - 2015

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Huệ

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM

9

PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.

Khái niệm và vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

9

Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự

9

1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ

16

án hình sự

1.2.

Ảnh hưởng của một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét

19

xử các vụ án hình sự đối với vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân tòa án địa phương
1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội

19

1.2.2. Nguyên tắc độc lập xét xử

22

1.2.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

26

1.3.

27

Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự quy định về vai trò
của Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003

1.3.1. Giai đoạn khởi đầu (1945 - 1959)


28

1.3.2. Giai đoạn hai (1960 - 1992)

33

1.3.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 với Nghị quyết số 51/2001/QH10

36

4


Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

39

HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẦM PHÁN VÀ HỘI
THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

2.1.

Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai

39

trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương
2.2.


Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai

53

trò của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương
2.3.

Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng

60

hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của các Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Thực trạng xét xử các vụ án hình sự và công tác đào tạo, bồi

60

dưỡng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2014
2.3.2. Những nguyên nhân của thực tiễn thực hiện những quy định

76

của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự
Chương 3:

NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC


80

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN VÀ TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG

3.1.

Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự

80

hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
3.1.1. Những bất cập trong chế định Thẩm phán

80

3.1.2. Một số điểm hạn chế trong chế định Hội thẩm nhân dân

83

3.2.

90

Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân

3.2.1. Thẩm phán


90

5


3.2.2. Hội thẩm nhân dân

95

3.3.

98

Những giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân

3.3.1. Thẩm phán

98

3.3.2. Hội thẩm nhân dân

109

KẾT LUẬN

112


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

114

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND

: Hội thẩm nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách
bộ máy nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa (XHCN). Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII,
VIII, IX và X của Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một sô nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng
và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp, tạo bước chuyển biến mới
trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp. Theo đó, việc xây
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung cũng như nâng cao vai
trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm Ngành Tòa án nhân dân (TAND) nói
riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Tòa án là cơ quan duy nhất được pháp luật trao cho quyền năng xét
xử. Chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua và tập trung vào
hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND). Theo đó, Thẩm
phán và HTND giữ vai trò quan trọng trong xét xử - giai đoạn trung tâm của
hoạt động tố tụng nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Chính vì
vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và HTND cũng như cách
thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ cán bộ này là yếu tố mang tính
quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm
của TAND địa phương đã không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng
cao về chất lượng, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, của Nhà nước và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, đội ngũ Thẩm phán và HTND của TAND


8


địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án
nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung.
Bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, vai trò của Thẩm phán và
sự tham gia của HTND trong xét xử vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều điểm hạn
chế như theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị thì: Công tác tư pháp nói
chung chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường
hợp bị lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ
của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
các cơ quan tư pháp; và cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được
yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ Thẩm phán còn thiếu về số lượng,
yếu về trình độ năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm,
thiếu bản lĩnh, sa sút phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh
hưởng đến kỷ cương, pháp luật và hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Nằm trong hệ thống của Ngành TAND trên cả nước, Ngành TAND
tỉnh Quảng Ninh được tổ chức và hoạt động thống nhất theo hai cấp là TAND
cấp tỉnh và các TAND cấp huyện, thực hiện chức năng xét xử trong phạm vi
thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong những năm vừa qua, đội ngũ
Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không ngừng
được bổ sung về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần quan trọng
vào việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án cũng như bảo vệ lợi ích Nhà
nước, xã hội và quyền lợi chính đáng của công dân trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên, vai trò trong xét xử các vụ án nói chung cũng như xét xử các vụ án
hình sự nói riêng của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém ảnh hưởng phần nào đến
chất lượng xét xử của Tòa án.

Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu thực trạng trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán
và Hội thẩm TAND địa phương có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách

9


tư pháp ở nước ta hiện nay và đáp ứng yêu cầu của luận văn thạc sĩ luật học.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" làm luận văn
thạc sĩ luật học học nhằm góp phần thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao chất
lượng xét xử các vụ án hình sự của Tòa án trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, Ngành Tòa án Việt Nam
đang thực sự đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng tăng cường quản
lý và nâng cao vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của TAND để đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Có thể nói, Thẩm phán
và HTND là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt
trong quá trình cải cách tư pháp nói chung cũng như nâng cao hiệu quả hoạt
động của Ngành TAND nói riêng. Xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của
Thẩm phán và HTND trong hoạt động tố tụng hình sự và là một mắt xích
không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay nên đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh
khác nhau và phương diện khác nhau về đề tài cải cách tư pháp và nâng cao
vai trò trong xét xử của đội ngũ Thẩm phán và HTND.
Cho đến thời điểm này, ở nước ngoài chưa có công trình chuyên khảo
nào đề cập đến việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn thuộc lĩnh vực của đề tài.
Ở Việt Nam, từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt là công cuộc cải cách tư pháp, nước ta đã có một số các công trình

nghiên cứu về đề tài cải cách tư pháp và năng lực của đội ngũ Thẩm phán.
Tiêu biểu có thể kể đến như sau:
Ở cấp độ đề tài cấp nhà nước có công trình khoa học Cải cách hệ
thống tư pháp ở Việt Nam, mã số 92-98-353, do ông Nguyễn Văn Yểu làm

10


chủ nhiệm đề tài năm 1993. Tiếp đó là đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình
khoa học xã hội cấp nhà nước 2001-2005): "Cải cách các cơ quan tư pháp,
hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư
pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Bộ Tư pháp chủ trì, được
nghiệm thu năm 2007.
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Đổi mới chế định Hội thẩm trong cải cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay" do nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn
Văn Sản làm Chủ nhiệm, được nghiệm thu năm 1999. Đề tài đưa ra những
kiến nghị về cơ chế tổ chức, hoạt động và những kiến nghị về hoàn thiện pháp
luật nhằm củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.
Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài: Đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Lê Thành Dương, Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2002; Đỗ Thị
Ngọc Tuyết, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa án
Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2006.
Bên cạnh đó, về sách chuyên khảo, bình luận thì có các công trình
khoa học sau: Thông tin Khoa học pháp lý Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư
pháp, Người Thẩm phán nhân dân, 2002; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

Chuyên đề cải cách tư pháp; GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên), Hệ thống tư
pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, 2002;
GS.TSKH. Lê Văn Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Cải cách tư
pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2004; PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Thể chế tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.

11


Vào tháng 7 năm 2009 với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia, Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) đã cho ra mắt cuốn "Sổ tay Thẩm phán". Có thể
nói, cuốn Sổ tay Thẩm phán sẽ đóng góp cho quá trình hình thành nên một hệ
thống cơ quan tư pháp hiệu quả, công bằng và minh bạch; góp phần tăng
cường năng lực thể chế của hệ thống tòa án nói chung cũng như năng lực xét
xử của đội ngũ Thẩm phán nói riêng thông qua việc nâng cao tính chuyên
nghiệp của Thẩm phán khi thực hiện các hoạt động tư pháp của mình. Sổ tay
Thẩm phán cũng đóng góp cho quá trình nâng cao tính độc lập của Ngành
Tòa án Việt Nam, trong đó có tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm
phán. Đặc biệt, ngày 09 tháng 07 năm 2010, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp
Trung ương đã xây dựng đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án,
Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan vai trò của
Thẩm phán và HTND được công bố trên các tạp chí khác nhau như: Tạp chí
TAND, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp... Nhìn chung, các nghiên cứu đã đưa ra những đánh
giá về vai trò của đội ngũ Thẩm phán trong đó có vai trò trong xét xử các vụ
án hình sự, đồng thời đưa ra các khuyến nghị để nâng cao.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,

các luận án, các bài báo khoa học đã được công bố ở Việt Nam trong thời gian
qua, đặc biệt là kể từ khi có Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cho thấy hầu hết các công trình đó là những
công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về tổ chức và hoạt động của hệ thống
Tòa án, còn về vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm thì chưa được khoa
học pháp lý Việt Nam quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về
Thẩm phán và Hội thẩm, Ngành TAND mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vị trí, vai
trò của đội ngũ này trong hoạt động tố tụng hình sự và nghiên cứu về Thẩm
phán và HTND trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án

12


một cách chung chung mà chưa được triển khai nghiên cứu độc lập, đánh giá
lý luận và tổng kết thực tiễn trong một công trình khoa học độc lập.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" là đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao vai
trò Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán
và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
- Phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) sự
hiện hành về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong
xét xử vụ án hình sự; đồng thời đánh giá đúng thực tiễn thực hiện, chỉ ra được

những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất được những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò
của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò
của Thẩm phán và Hội thẩm TAND địa phương trong xét xử các vụ án hình
sự trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử tại các TAND trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm trong xét xử các vụ án hình sự tại TAND địa phương.

13


Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự
của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong vòng
5 năm (từ năm 2009 đến năm 2014).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để

tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về vai trò của Thẩm phán và HTND, mà
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn có liên
quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vai trò
của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự.
- Nghiên cứu và đánh giá làm sáng tỏ bức tranh thực tiễn về vai trò
xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian 5 năm gần đây (từ năm 2009 đến năm 2014); chỉ

14


ra những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân cơ bản của những tồn
tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm của TAND địa phương trong xét xử vụ án
hình sự, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến

hành tố tụng đặc biệt là Tòa án, đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa
đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần nâng cao vai trò
của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự, từ đó tạo điều kiện cho
việc giải quyết vụ án hình sự một khách khách quan, có căn cứ và đúng pháp
luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về
vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương
và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân và tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng.

15


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án
hình sự
a) Khái niệm Thẩm phán

Theo quy định tại khoản 1, Điều 102 của Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam năm 2013: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [19]. Theo
đó, Tòa án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải
quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội, "bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [19]. Tòa án thực
hiện chức năng xét xử của mình thông qua Thẩm phán và HTND.
Đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ
rất lâu và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Dưới chế độ Chiếm hữu nô
lệ, Nhà vua là người đại diện cho pháp luật, đồng thời có quyền xét xử. Khi
mà quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp độc lập nhau, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách
biệt của Tòa án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ
chuyên làm nhiệm vụ xét xử - Thẩm phán ra đời. Cho tới ngày nay, Thẩm
phán đã tham gia xét xử vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, đáp ứng được
nhu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội.
Hiện nay, một hệ thống các văn bản pháp luật, Từ điển Luật học đã
làm sáng tỏ được rất nhiều về khái niệm Thẩm phán.

16


Theo từ điển Luật học và khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm TAND năm 2002 đã xác định Thẩm phán là: "Người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án" [45]. Như vậy,
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ người làm việc trong Tòa án, nhân
danh Nhà nước tham gia vào các hoạt động xét xử.
Thẩm phán phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm
khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình
độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác
thực tiễn có năng lực làm công tác xét xử và có sức khỏe đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ được giao (Khoản 1, Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
TAND năm 2002; sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Cũng theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Pháp lệnh này thì Thẩm
phán TAND gồm có:
- Thẩm phán TANDTC;
- Thẩm phán TAND cấp tỉnh bao gồm Thẩm phán TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương;
- Thẩm phán TAND cấp huyện bao gồm Thẩm phán TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các
nghề nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ
chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ
phải có kiến thức trên mọi lĩnh vực, bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công
lý, cho lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Vậy hoạt động xét xử là nghề
nghiệp của Thẩm phán có một số đặc điểm, đặc trưng sau:
Thứ nhất: Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật.
Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, Thẩm phán với
vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực

17


tế, không định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi tư
vấn tranh luận tại phiên tòa phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ
án. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự khách quan đối với phán quyết
của Thẩm phán đều trái với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng

định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét
đứng đắn các bằng chứng thực tế mà mỗi bên đương sự đưa ra trong quá trình
giải quyết vụ án của mình.
Thứ hai: Hoạt động xét xử là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách
quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ chức
và cá nhân.
Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn
bộ kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng
thực tế. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người
Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và nhạy bén
tại phiên tòa, giai đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng.
Để không bị cám dỗ trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh
tinh thần của người Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý
chí. Mục tiêu cuối cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục
đích mà toàn bộ nhân dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu
tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán
quyết đó còn mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng.
Chính vì thế hoạt động xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát.
Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, khi xét xử có sự tham gia của HTND
chính là sự giám sát ở bên trong phiên tòa. Khi xét xử HTND ngang quyền
với Thẩm phán, cùng Thẩm phán đưa ra quyết định đúng pháp luật.
Thứ ba: Hoạt động này đòi hỏi một con người toàn diện, bản lĩnh
vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan.
Đây không những là đặc thù nghề nghiệp Thẩm phán mà còn là các
tiêu chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể

18


có kiến thức rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho công bằng vô tư,

một tâm hồn trong sáng và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và
người Thẩm phán mới tạo dựng được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần
thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã hội thừa nhận, nắm giữ cán cân
công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó. Người Thẩm phán phải
bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí trước bất kỳ sự
việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình ảnh một
nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý.
Thứ tư: Hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố
tụng chặt chẽ do pháp luật quy định.
Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới quyền lợi và
nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu
tình đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ là
điều dễ hiểu. Việc quy định như vậy tránh sự tùy tiện lạm quyền, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của
pháp luật tố tụng, bản án dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Tòa án cấp
trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy, từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niêm
Thẩm phán như sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Với tư cách là người được giao thực hiện chức
năng xét xử của Tòa án, Thẩm phán có vị trí rất quan trọng và có vai trò
không thể thay thế trong việc thực hiện một trong những quyền lực nhà nước,
đó là quyền tư pháp. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN, với chủ trương xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ
và nghiêm minh thì việc củng cố và tăng cường vai trò, địa vị pháp lý của
Thẩm phán gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động và kiện toàn tổ chức của tòa
án là yêu cầu cơ bản và quan trọng hàng đầu hiện nay.

19



b) Vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự
Các quy định của pháp luật hiện hành đã xác định Thẩm phán là người
thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử. Vì vậy, thông qua hoạt động
xét xử Thẩm phán góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp
chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do, danh sự, nhân phẩm và các lợi ích chính đáng của công dân. Có thể
nói, hoạt động của Thẩm phán là một trong các yếu tố quyết định đến chất
lượng hoạt động của tòa án nói riêng cũng như các cơ quan tư pháp nói
chung; ảnh hưởng đáng kể đến tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán
bộ tư pháp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Thẩm phán giữ vai trò chính trong hoạt động xét xử tại Tòa án, nhân
danh Nhà nước công bố một bản án, một quyết định về việc công dân có tội
hay vô tội; giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, các quyết định hành chính,
hành vi hành chính… nó liên quan trực tiếp đến lợi ích, thậm chí đến số phận
và phẩm giá con người. Và để Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, giải quyết
các tranh chấp đúng pháp luật, hợp lý hợp tình, xét xử đúng người, đúng tội
thì đòi hỏi người Thẩm phán phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và trình độ nghiệp
vụ chuyên môn vững vàng. Hơn nữa, Thẩm phán còn phải gương mẫu trong
việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng
các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Chính vì thế, hoạt động của Thẩm phán còn góp phần đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế XHCN; giải quyết các tranh chấp và xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật xảy ra trong xã hội đúng pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của người Thẩm phán rất quan trọng
và là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình xét xử tại Tòa
án. Với tư cách là người đại diện cho quyền lực của Nhà nước trong việc thực
thi quyền lực công lý, Thẩm phán là người hướng dẫn cho các bên đương sự


20


trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại tòa án theo quy
định của pháp luật. Thẩm phán là người điều khiển, dẫn dắt quá trình tố tụng
tại tòa án diễn ra trật tự, tuần tự theo quy định của pháp luật tố tụng, đi đúng
vào trọng tâm và giải quyết các vấn đề còn mâu thuẫn của vụ kiện. Thực hiện
vai trò của người điều khiển phiên tòa, Thẩm phán phải là người tổ chức,
người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại
phòng xử án. Thông qua kết quả xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán đánh giá nội
dung thực chất của vụ án, xem xét các chứng cứ, các lý lẽ, lập luận của mỗi
bên, căn cứ theo các quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết đúng đắn.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy
đủ, chính xác các công việc mà pháp luật quy định đối với chủ tọa phiên tòa,
đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm chính về những vấn đề mà pháp luật
quy định đối với Hội đồng xét xử (HĐXX), thay mặt cho HĐXX công bố
những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng
xử án.
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Thông qua hoạt
động xét xử, Thẩm phán giúp cho những người tham gia tố tụng, những người
tham dự tại phiên tòa hiểu rõ các quy định của pháp luật, qua đó giúp họ hình
thành ý thức pháp luật, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; củng
cố lòng tin vào pháp luật, phát huy tác dụng của công tác phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm trong xã hội. Vai trò của người Thẩm phán thể hiện tập trung
trong quan hệ với Tòa án, những người tham gia tố tụng và những người tiến
hành tố tụng.
* Vai trò của người Thẩm phán trong quan hệ với Tòa án, những
người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng
Thẩm phán và Tòa án có mối liên hệ qua lại, gắn bó mật thiết với

nhau. Mối quan hệ này thể hiện rõ nhất là Thẩm phán Tòa án cấp dưới quan

21


hệ với Tòa án cấp trên theo thủ tục tố tụng quy định. Mối quan hệ này hoàn
toàn độc lập với nhau. Tòa án cấp dưới không chịu sự điều hành của Tòa án
cấp trên. Tòa án cấp trên chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn việc áp dụng thống
nhất pháp luật cho Tòa án cấp dưới.
Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án không thể không nói tới mối
quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án. Thẩm phán cũng là công chức nên
lãnh đạo được coi là cấp trên của Thẩm phán. Mối quan hệ giữa cấp trên và
cấp dưới là quan hệ lệ thuộc và nhạy cảm [14, tr. 3]. Pháp luật quy định Thẩm
phán làm việc theo sự phân công của Chánh án là Thủ trưởng cơ quan nơi
Thẩm phán làm việc.
Trong HĐXX, Hội thẩm tham gia với tư cách đại diện cho quần chúng
nhân dân tham gia vào quá trình xét xử. Trong khi xét xử Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán. Cả HTND và Thẩm phán phải cùng nhau xem xét tính
đúng đắn của vụ án. Chính vì vậy, pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu cần
thiết cho HTND về cả trình độ và kinh nghiệm.
Để Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ, Thư ký phiên tòa với tư cách
là cán bộ Tòa án tham gia vào phiên xét xử tiến hành lập biên bản tại phiên
tòa. Trước khi bắt đầu phiên tòa Thư ký kiểm tra danh sách người được triệu
tập tới Tòa. Trách nhiệm của Thư ký là giúp việc cho Thẩm phán.
Trong một vụ án, Điều tra viên là người đầu tiên tiến hành các hoạt
động nghiệp vụ điều tra các tình tiết có liên quan tới vụ án. Khi được phân
công Điều tra viên chịu trách nhiệm về hoạt động điều tra của mình, kết quả
đó được đưa tới Viện kiểm sát tiến hành truy tố. Bản cáo trạng của Viện kiểm
sát sẽ được đọc tại phiên Tòa. Như vậy, Thẩm phán xét xử phải dựa trên kết
quả điều tra của Điều tra viên và bản cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát.

Thẩm phán lập hồ sơ xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Xét mối quan hệ giữa Thẩm phán và những người tham gia tố tụng thì
Thẩm phán giữ vị trí trung tâm theo đó Thẩm phán không thiên vị đối với bất

22


kỳ ai, đối xử bình đẳng với họ, tạo điều kiện cho họ được thực hiện các quyền
công dân của mình. Thẩm phán phải nắm chắc nguyên tắc một người chỉ được
coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
* Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
Hoạt động của TAND rất phong phú, đa dạng bao gồm các hoạt động
như giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trình dự án
luật nhưng hoạt động xét xử là một chức năng đặc thù của Tòa án, thể hiện
tính quyền lực nhà nước. Đồng thời xét xử là chức năng chuyên biệt của
Thẩm phán, là nghề Thẩm phán.
Thẩm phán là người được pháp luật trao cho thẩm quyền thay mặt Tòa
án thực hiện quyền lực tư pháp thông qua hoạt động xét xử [22, tr. 1]. Thông
qua các hoạt động xét xử, Thẩm phán góp phần to lớn vào việc bảo vệ trị an
xã hội, trừng trị nghiêm khắc kịp thời và hiệu quả mọi hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Thẩm phán là người cầm cân nảy mực, minh oan và bảo vệ chính
nghĩa, qua hoạt động xét cử còn thể hiện uy tín của người Thẩm phán và chất
lượng hoạt động của Tòa. Để thực hiện tốt chức năng xét xử này, pháp luật
quy định các quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể cho Thẩm phán TAND.
1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử
vụ án hình sự
a) Khái niệm Hội thẩm nhân dân
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, nguyên tắc đại diện của
nhân dân tham gia xét xử đã trở thành nguyên tắc hiến định. Kể từ đó, quyền
của nhân dân tham gia xét xử luôn được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến

pháp sau này. Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm [19, Điều 103]
Theo quy định tại khoản 2, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), HTND được xác định là:

23


" Người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án" [46].
Hội thẩm phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết
và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và
có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao [45, Điều 5, khoản 2].
HTND ở nước ta gồm có:
- Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương;
- Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh [45, Điều 2, khoản 2].
Có thể nói, bản chất của việc ghi nhận sự tham gia của Hội thẩm vào
quá trình xét xử của TAND là sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc", góp
phần đảm bảo nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động
xét xử của Tòa án; đồng thời thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì
dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Qua thực tế tham gia xét
xử ở các TAND, các Hội thẩm nhân dân đã đóng góp một phần quan trọng
trong việc giúp Tòa án đưa ra các phán quyết đúng đắn, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

b) Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự
Việc tham gia xét xử của HTND là một yêu cầu khách quan của nền
tư pháp và chế định Hội thẩm là một yếu tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và
tính thực thi đối với các phán quyết của Tòa án nhằm bảo đảm công lý. Trên
cơ sở quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức TAND năm
2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011) đã quy định cụ thể hóa vai trò của HTND.
Thứ nhất, Hội thẩm là những người do nhân dân cử hoặc bầu ra thông
qua việc tham gia vào quá trình xét xử mà thực hiện quyền tư pháp do nhân

24


dân giao phó, giúp nhân dân quản lý có hiệu quả lĩnh vực tư pháp. Cũng chính
vì HTND do nhân dân cử hoặc bầu ra nên vị trí của Hội thẩm tương đối độc
lập trong quá trình tham gia xét xử và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ hai, ở nước ta pháp luật là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Chế định Hội thẩm không chỉ giúp nhân dân tham gia có hiệu quả
vào hoạt động xét xử mà còn giúp nhân dân kiểm tra hoạt động áp dụng pháp
luật và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Trong công tác xét xử, muốn
việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của đông
đảo quần chúng nhân dân thì các thành viên trong HĐXX không chỉ là người
có trình độ cao về mặt pháp luật mà còn phải có kiến thức và kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm xã hội sâu sắc. Vì vậy, việc quy định chế độ xét xử có
HTND tham gia là hết sức quan trọng. Hội thẩm với tư cách là những người
có trình độ, có uy tín được cộng đồng dân cư tín nhiệm bầu ra. Trong quá
trình tham gia xét xử, HTND sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; họ
sẽ đưa ra tiếng nói từ phía xã hội, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan,
phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ, Hội thẩm là
những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, khu

dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến thức thực tế
phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Chính vì thế, Hội thẩm
hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh cũng như nguyên nhân của các vụ án. Mặt khác,
thực tế cuộc sống luôn vận động và thay đổi, pháp luật không phải lúc nào
cũng theo kịp cuộc sống. Xuất phát từ việc tiếp xúc và thấu hiểu tâm tư
nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận xã hội, HTND có vai trò
trong việc đưa pháp luật tới gần với thực tiễn. Hay nói cách khác, sự tham gia
xét xử của HTND làm cho các bản án, quyết định của Tòa án mang tính
"chính trị" hơn. Trong một số trường hợp, HTND còn có kiến thức sâu về một
số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm lý xã hội… Các kiến thức sinh
động đó sẽ có ích trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán,
giúp cho quá trình xét xử đúng đắn và hiệu quả. Nói như vậy không có nghĩa

25


×