I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
DNG TH THU HếA
Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
DNG TH THU HếA
Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TS. NG MINH GII
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Dƣơng Thị Thu Hòa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng phụ lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ...................... 7
1.1.
Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt ................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt..................................................................................... 7
1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt .......... 12
1.2.
Khái quát về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ................... 20
1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự ........................................................................................... 20
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ......................................... 26
1.2.3. Đặc điểm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................... 39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN CẦU GIẤY ........................................................................... 43
2.1.
Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 .... 43
2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm quận Cầu Giấy .................................. 43
2.1.2. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 ................... 44
2.2.
Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt............................................. 45
2.2.1. Bộ máy tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy liên
quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ......................................... 45
2.2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ............................. 46
Chƣơng 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIẾM SÁT ĐIỀU
TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY..... 57
3.1.
Dự báo các tình hình có liên quan đến hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành
phố Hà Nội ........................................................................................ 57
3.1.1. Xu hướng của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới .......................... 57
3.1.2. Những yếu tố khác tác động đến hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới ............... 58
3.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội................... 61
3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp ..................................................... 61
3.2.2. Cần sớm kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và
hoàn thiện đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 .................................................... 67
3.2.3. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách
nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra..... 70
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp trên cơ sở pháp luật tố tụng
hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy với cơ quan
điều tra và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt ........................................................................... 72
3.2.5. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Viện
kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy nói chung và đội ngũ cán bộ
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra............. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐT
: Cơ quan điều tra
KSĐT
: Kiểm sát điều tra
KSND
: Kiểm sát nhân dân
THQCT
: Thực hành quyền công tố
TTHS
: Tố tụng hình sự
VAHS
: Vụ án hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy
đã điều tra, xử lý
81
Bảng 2.2: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã
xử lý
82
Bảng 2.3: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã điều tra, xử lý
83
Bảng 2.4: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Viện kiểm sát
nhân dân quận Cầu Giấy đã xử lý
86
Bảng 2.5: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra đối với việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm 2010
đến năm 2014
89
Bảng 2.6: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm
2010 đến năm 2014
90
Bảng 2.7: Thống kê kết quả kiểm sát tiếp nhận, xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân
quận Cầu Giấy
91
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức
năng hiến định của Viện kiểm sát nhân dân và việc đảm bảo thực hiện chức
năng này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần các nghị
quyết của Đảng, trải qua 55 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát
nhân dân đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, đấu tranh
phòng chống tội phạm; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phục
vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa,
các quyền dân chủ của công dân.
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là một bộ
phận cấu thành của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù mới
thành lập được 18 năm (khi tách huyện Từ Liêm cũ thành huyện Từ Liêm và
quận Cầu Giấy năm 1997) nhưng Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã
đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm trên địa bàn quận nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung.
Tính từ năm 2010 đến năm 2014 Viện kiểm sát nhân dân (KSND) quận
Cầu Giấy đã kiểm sát khởi tố, điều tra 2065 vụ/ 3146 bị can, trong đó các tội
xâm phạm sở hữu (XPSH) có tính chất chiếm đoạt xảy ra 984 vụ với 1314 bị
can chiếm tỷ lệ 47% so với số vụ án thụ lý điều tra [46]. Việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đảm bảo đúng quy định của
pháp luật, việc truy tố, xét xử không có trường hợp nào làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát
điều tra (KSĐT) đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt còn nhiều tồn
tại, hạn chế như việc thu thập chứng cứ trong hồ sơ không đầy đủ, hình sự hoá
1
các quan hệ dân sự, nhầm lẫn trong việc định tội danh... Những tồn tại trên có
nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp do nhận thức của Kiểm sát
viên làm công tác THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt
chưa đầy đủ và thống nhất, các quy định của pháp luật còn thiếu đồng bộ. Mặt
khác, lý luận về công tác THQCT và KSĐT đối với loại tội này chưa được
xem xét, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Với tình hình thực tế
như trên, tác giả chọn đề tài “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)" làm luận văn
thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực hành quyền công tố và KSĐT là một đề tài rộng, thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà làm luật và các nhà khoa học. Do vậy, có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu về chức năng THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra nói chung và đối với một số tội nói riêng.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có các công trình tiêu biểu sau: “Một số hoạt
động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Vũ Thị
Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1998;
"Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn
thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007; “Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra”, Bùi Ngọc Tú, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013...
Bên cạnh đó có các giáo trình, sách chuyên khảo, các bài viết, bình luận
trên các tạp chí như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra”, sách tham khảo, Lê Hữu Thể (chủ biên), NXB
2
Tư pháp năm 2005; “Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2006; “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử các vụ án kinh tế - chức vụ”, Nguyễn Mạnh Hiền, Tạp chí
Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số xuân 2012; “Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án tham nhũng”, Dương Văn Phùng, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Số Xuân 2013:“Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy” Trấn Thế Vinh, Tạp chí
Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2013….
Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống và chuyên sâu về THQCT và KSĐT đối với các tội
XPSH có tính chất chiếm đoạt trong khi các tội này chiếm tỷ lệ lớn trong quá
trình giải quyết án trên các địa bàn. Điều này một lần nữa khẳng định việc
nghiên cứu đề tài: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)” là một yêu cầu khách
quan, cấp thiết, đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những quy
định của pháp luật về THQCT và KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối
với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy nói
riêng để góp phần làm phong phú thêm lý luận, nhận thức đúng thực tiễn và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và
KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt.
3
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm THQCT
và KSĐT các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm của các tội XPSH có tính chất
chiếm đoạt và hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng.
- Phân tích những căn cứ, đặc điểm của hoạt động THQCT và KSĐT
của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt.
- Khảo sát làm rõ thực trạng THQCT và KSĐT của Viện KSND quận
Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt từ năm 2010 đến
năm 2014; những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và KSĐT
của Viện KSND quận Cầu Giấy nói riêng và các cấp Viện kiểm sát nhân dân
nói chung, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương cũng như
trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT và KSĐT theo
chức năng của Viện KSND đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, kể
từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc điều tra vụ án.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân đối với
các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt xảy ra trên địa bàn quận Cầu Giấy do
Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lý, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ
nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính
sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại
4
hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 02/01/2002,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
tổng hợp các phương pháp như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh…
6. Những điểm mới đóng góp của đề tài
Luận văn là tài liệu chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt
gắn với thực tiễn của một địa phương cụ thể. Vì vậy, luận văn có một số điểm
mới sau:
- Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong hoạt động THQCT và KSĐT
nói chung của Viện kiểm sát nhân dân.
- Nêu lên những điểm đặc trưng của công tác THQCT và KSĐT đối với
các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu, tình hình thực tế, chỉ ra những
tồn tại, khó khăn, vướng mắc; nguyên nhân và đề xuất kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác trên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn trong hoạt động THQCT và KSĐT của của Viện
KSND quận Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, từ đó
có thế tổng kết kinh nghiệm cho toàn ngành. Bên cạnh đó, luận văn góp phần
xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật Hình sự, Luật tố tụng
hình sự, khoa học Điều tra hình sự.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học….nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể phục vụ cho việc tham
5
khảo của cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng
pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn quận Cầu Giấy.
Chương 3: Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
1.1.1.1. Khái niệm
Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội giữa người và người trong
quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Nó ra đời cùng với
các hoạt động kinh tế và được luật hóa thành “quyền sở hữu” khi xuất hiện
nhà nước và pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là
Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu là quyền
cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Các quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Các tội xâm phạm sở hữu (XPSH) là những hành vi có lỗi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện
được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi [38, tr.5]. Các
tội này được quy định tại Chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa
đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt là Bộ luật hình sự), gồm 13 tội được
quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Đó là các tội: tội cướp tài sản (Điều 133),
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều
135), tội cướp giật tài sản (Điều 136), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều
137), tội trộm cắp tài sản (Điều 138), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều
139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), tội chiếm giữ trái
phép tài sản (Điều 141), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), tội hủy hoại
7
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145).
Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia
các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm: (1) các tội có mục đích tư lợi (bao
gồm 10 tội từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS) và (2) nhóm các tội không có
mục đích tư lợi (từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS). Đối với nhóm các tội có
mục đích tư lợi, dựa vào đặc điểm chung của hành vi phạm tội có thể chia
thành nhóm có tính chất chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều
140) và nhóm không có tính chất chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142). Vậy
tính chất chiếm đoạt ở đây được hiểu như thế nào?
Có ý kiến cho rằng “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài
sản đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [38, tr.11]. Quan
điểm này thể hiện được bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhưng đã đồng
nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt.
Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “chiếm của người
làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”[21, tr.212]. Như vậy,
khái niệm chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và
mục đích phạm tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu
hiệu chiếm đoạt cần được hiểu như sau: “chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch
trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của
mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”.
Trên cơ sở khái niệm các tội XPSH và khái niệm chiếm đoạt ở trên, có thể
đưa ra khái niệm về các tội XPSH có tính chiếm đoạt như sau:
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi cố
ý chiếm lấy, đoạt lấy tài sản đang do người khác sở hữu hợp pháp làm tài sản
của mình vì mục đích vụ lợi.
8
1.1.1.2. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Để nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các tội XPSH có tính chất
chiếm đoạt, trước hết phải nắm vững các đặc điểm pháp lý đặc trưng của các
tội này (dựa vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và khái niệm các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt) như sau:
- Khách thể của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [37, tr.78]. Nghiên cứu quy
định của BLHS đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 140 và thực tiễn áp
dụng, các tội từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS có khách thể không chỉ là quan
hệ sở hữu mà còn là quyền nhân thân. Còn đối với các tội từ Điều 137 đến
Điều 140 BLHS có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu.
Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người
khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự chiếm
hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Về nguyên tắc tài sản
này là hợp pháp và bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền
và các quyền về tài sản (Điều 163 Bộ luật dân sự).
- Mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã
hội được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí
của người phạm tội [37, tr.93-97]. Hành vi phạm tội có hai hình thức thể hiện
là hành động và không hành động.
Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt có những hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là
hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như tội Cướp tài sản, Bắt cóc nhằm
9
chiếm đoạt tài sản, Cưỡng đoạt tài sản (nhóm 1); hành vi lợi dụng sơ hở của
chủ tài sản để thực hiện tội phạm như tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản,
Trộm cắp tài sản (nhóm 2); hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nhóm 3) hay hành
vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai như tội Cướp giật tài
sản. Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức, đối tượng thực hiện hành vi và điều kiện
khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội
phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, trong nhóm 1, đối với tội
Cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực “ngay tức
khắc” đối với chủ tài sản; đối với tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành
vi đe dọa dùng vũ lực lại nhằm vào con tin từ đó khiến người thân của con tin
(người có tài sản) phải lo sợ, giao nộp tài sản; hoặc cùng là đe dọa dùng vũ
lực đối với chủ tài sản nhưng ở tội Cưỡng đoạt tài sản không có đặc điểm
“ngay tức khắc” như tội Cướp tài sản. Đối với nhóm 2, người phạm tội Trộm
cắp tài sản có thủ đoạn lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; còn ở tội
Công nhiên chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lại có hành vi công khai. Ở
nhóm 3,tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được phân biệt với nhau bởi thủ đoạn gian dối được thực hiện trước
hay sau khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện.
Về hậu quả mà những hành vi nói trên gây ra trước hết là những thiệt
hại gây ra cho quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là
tài sản bị mất. Đối với những tội như Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại về thể chất
(thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe, tinh thần).
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của nhóm tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định: từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
10
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc những tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3,
và 4 của các Điều 134, 135, 136; khoản 3 và 4 các Điều 137, 138, 139, 140.
Ngoài ra tại các Điều 139, 140 Bộ luật hình sự, dấu hiệu chủ thể đặc biệt
được phản ánh trong cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sự, cụ thể ở
điểm d khoản 2 Điều 139: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt
tài sản; điểm b khoản 2 Điều 140: Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tất cả các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố
ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản
đang có người quản lí nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành của mình.
Về động cơ và mục đích phạm tội: người phạm tội mong muốn chiếm
đoạt được tài sản của người khác và dấu hiệu chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc
đối với các tội này. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định
mà dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là khác
nhau. Chúng có thể là hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt hoặc chiếm
đoạt được. Ví dụ: Đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể
được bảo vệ bao gồm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm
quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân.
Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên các
tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành và dấu hiệu chiếm đoạt được thể
hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội
này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như
hành vi phạm tội của các tội này.
11
Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm
cũng là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các
Điều 133, 134, 135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội
cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm
phạm quan hệ sở hữu mới xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu
chiếm đoạt được thể hiện qua hành vi chiếm đoạt được mô tả trong điều luật.
1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.2.1. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam từ trước tới nay chưa bao
giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý khái niệm giai đoạn TTHS. Tuy nhiên, Bộ
luật TTHS 2003 đã thể hiện sự phân chia các giai đoạn tố tụng một cách rõ
nét, theo đó quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tương ứng với đó, mỗi giai đoạn
có nhiệm vụ, chủ thể, trình tự, thủ tục, thời hạn cụ thể nhằm phục vụ mục đích
chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, trên phương diện khoa học
luật TTHS, căn cứ vào cơ quan và người tiến hành tố tụng, các nhà nghiên
cứu cũng chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành bản án và quyết định của Toà án. Như vậy, có thể thấy cả trên
phương diện lý luận cũng như quy định của pháp luật, điều tra được coi là
một giai đoạn tố tụng độc lập. Trong quá trình điều tra, một mặt phải đảm bảo
các yêu cầu của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đồng thời phải áp
dụng các phương pháp, thủ thuật chiến thuật, kỹ thuật điều tra để phát hiện,
thu thập chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án hình sự để làm cơ sở cho việc
xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Trên cơ sở nhận thức đó, tác giả đưa ra khái niệm điều tra vụ án hình sự
như sau: Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự do cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng các biện pháp theo quy định của
12
pháp luật nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật của vụ án, chứng
minh tội phạm trước pháp luật, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và
góp phần phòng ngừa tội phạm.
Trong quá trình giải quyết vụ án, giai đoạn điều tra có vai trò hết sức
quan trọng. Bởi lẽ, điều tra vụ án hình sự (VAHS) là giai đoạn thu thập chứng
cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Kết quả điều tra vừa là
cơ sở để Viện kiểm sát (VKS) quyết định truy tố, vừa là cơ sở để Toà án đưa
vụ án ra xét xử. Tác động của kết quả điều tra đối với công tác truy tố, xét xử
không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định,
đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan điều tra (CQĐT).
Trong TTHS thẩm vấn, vị trí của hoạt động điều tra càng quan trọng, những
sai lầm nghiêm trọng làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm trong lịch sử tư
pháp nước ta chủ yếu bắt nguồn từ giai đoạn điều tra [35, tr.198]. Do đó, Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát điều tra (KSĐT)
nhằm bảo đảm mọi hoạt động trong quá trình điều tra đúng pháp luật. Đồng
thời việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và KSĐT trong
Bộ luật TTHS là hết sức cần thiết và mang một ý nghĩa rất lớn trong quá trình
giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo việc điều tra VAHS khách quan, toàn diện,
đúng quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Với phạm vi nghiên cứu của luận văn là THQCT và KSĐT các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận
Cầu Giấy nên trong nội dung này, tác giả chỉ nêu về cơ sở pháp lý của việc tổ
chức và phân định thẩm quyền điều tra ở cấp huyện.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004, ngày 07 tháng 7 năm 2014 Bộ Công an đã ban
13
hành Thông tư số 28/2014/BCA về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra
trong Công an nhân dân, các cơ quan khác của Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định tại Điều 17
Thông tư này thì trong điều tra các VAHS, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
cấp huyện có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết;
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện; tiến hành
điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương
XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (trừ các tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân).
1.1.2.3. Nội dung điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
- Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố VAHS
và quyết định việc khởi tố VAHS.
Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là các thông tin đầu tiên
về tội phạm đến với cơ quan có thẩm quyền. Đây là cơ sở đầu tiên để cơ quan
có thẩm quyền xem xét xác định có phải là vụ án XPSH có tính chất chiếm
đoạt hay không để quyết định đưa hay không đưa vụ việc vào giải quyết theo
thủ tục TTHS.
Để đảm bảo tính chính xác, đòi hỏi các hoạt động liên quan đến việc
tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được
thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục, thời hạn và các yêu cầu pháp lý khác.
Sau quá trình kiểm tra, xác minh, tùy thuộc vào kết quả, cơ quan có
thẩm quyền có thể ra các quyết định sau:
14
+ Có đủ căn cứ xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra trên thực
tế, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án.
+ Có căn cứ xác định không có sự việc xảy ra hoặc có một trong các
căn cứ để không khởi tố VAHS theo quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì
cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố VAHS và kết thúc về mặt
TTHS đối với vụ việc.
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra các vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt.
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, không để
các đối tượng trong vụ án bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án,
nhưng đồng thời nó cũng liên quan đến các chiến thuật điều tra. Các biện
pháp ngăn chặn được áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt bao gồm: Bắt người (với ba trường hợp bắt bị can bị cáo
để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã); Tạm giữ, tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo
lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [28]. Các biện pháp ngăn chặn
này có thể được áp dụng trước hoặc sau khi khởi tố vụ án. Đây là các biện
pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc, thường tác động đến các quyền cơ bản
của con người, vì vậy khi áp dụng đòi hỏi phải đảm bảo tính có căn cứ, đúng
thẩm quyền và trình tự, thủ tục mà luật TTHS quy định. Bên cạnh đó, việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn còn mang tính nghiệp vụ thể hiện thủ thuật,
chiến thuật trong điều tra nhưng không được lạm dụng mà yêu cầu tiên quyết
vẫn là phải đảm bảo tính pháp lý cho hoạt động này.
- Tiến hành các biện pháp điều tra
Sau khi quyết định khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, Cơ
quan điều tra sẽ bắt tay vào tiến hành các biện pháp điều tra. Tùy tính chất
15
từng vụ án và các tình huống xuất hiện khi khởi tố vụ án mà thứ tự các biện
pháp điều tra được tiến hành. Nhưng nhìn chung tất cả các vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt đều phải tiến hành một số biện pháp điều tra sau để thu
thập chứng cứ phục vụ quá trình chứng minh làm sáng tỏ vụ án.
+ Khám nghiệm hiện trường: Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều
tra do Điều tra viên tiến hành tại nơi xảy ra tội phạm hoặc tại nơi phát hiện tội
phạm nhằm phát hiện vật chứng, dấu vết của tội phạm và làm sáng tỏ những tình
tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết VAHS. Khám nghiệm hiện trường có thể
tiến hành trước khi khởi tố VAHS. Ngoài việc xác định, thu giữ dấu vết, vật
chứng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt thì công tác khám
nghiệm hiện trường còn phải xác định, ghi nhận những dấu vết phản ánh việc lục
soát, chiếm đoạt tài sản, đặc điểm, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt…Cá biệt
trong những trường hợp kèm theo hành vi chiếm đoạt tài sản còn có thể có
những hành vi phạm tội khác như giết người, gây thương tích thì công tác khám
nghiệm hiện trường còn phải phát hiện, thu giữ dấu vết, vật chứng phản ánh về
những hành vi phạm tội đó, kể cả việc khám nghiệm tử thi (nếu có). Hoạt động
khám nghiệm hiện trường phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại
Điều 150 BLTTHS.
+ Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Đây là biện
pháp điều tra bằng cách triệu tập và hỏi những người này các tình tiết liên
quan đến vụ án nhằm làm rõ sự thật của vụ án. Việc lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của
Điều 133 đến 137 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS. Lấy lời
khai những người tham gia tố tụng này trong vụ án XPSH có tính chất chiếm
đoạt phải đặc biệt chú ý làm rõ thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; số lượng,
16
chủng loại, đặc điểm tài sản bị chiếm đoạt; nguồn gốc tài sản, những người
biết được nơi cất giữ tài sản…
+ Khởi tố bị can và hỏi cung bị can: Khởi tố bị can là việc cơ quan có
thẩm quyền quyết định khởi tố về hình sự một người khi có căn cứ xác định
người đó thực hiện hành vi phạm tội [15, tr.354]. Quyết định khởi tố bị can là
cơ sở pháp lý cho các hoạt động điều tra và các biện pháp tố tụng khác để xử
lý đối với người phạm tội theo đúng quy định của pháp luật. Việc khởi tố bị
can phải thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại các Điều 126, Điều 127,
Điều 128 Bộ luật TTHS.
Sau khi có quyết định khởi tố bị can, phải tiến hành hỏi cung bị can. Hỏi
cung bị can là biện pháp điều tra bằng cách hỏi trực tiếp người đã bị khởi tố về
hình sự với tư cách là bị can. Để tiến hành hỏi cung bị can cần tiến hành các thủ
tục để triệu tập bị can theo quy định tại các Điều 129, 130 BLTTHS. Việc hỏi
cung bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 131, 132 BLTTHS.
+ Đối chất: Đối chất là biện pháp điều tra bằng cách tiến hành hỏi hai
người cùng một lúc về cùng một vấn đề có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ
mâu thuẫn trong các lời khai của họ. Việc đối chất có thể tiến hành giữa: Bị
can với bị can; Bị can với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, người làm
chứng, người bị hại; Giữa người bị hại với người làm chứng; Giữa những
người làm chứng với nhau... Hoạt động đối chất phải tiến hành theo đúng quy
định Điều 138 BLTTHS.
+ Nhận dạng: Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành bằng
cách đưa người, vật, ảnh để người làm chứng, người bị hại, bị can quan sát
nhận xét có đúng là đối tượng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất
chiếm đoạt mà họ đã biết trước đây hay không. Người nhận dạng có thể là
người làm chứng, người bị hại, bị can... Đối tượng nhận dạng có thể là người
sống (nhận dạng về hình dáng, tiếng nói), tử thi, đồ vật, súc vật, địa điểm, ảnh
17