Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi phạm tội trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG HẢI DIỆU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HÀNH VI PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG HẢI DIỆU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HÀNH VI PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm



Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Hải Diệu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI PHẠM TỘI THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................................................................................6
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hành vi phạm tội. ...................................6
1.1.1. Khái niệm hành vi phạm tội. .............................................................................6
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hành vi phạm tội. ......................................................9
1.1.3. Ý Một số ý nghĩa về mặt pháp lý hình sự của hành vi phạm tộ…………...12
1.2. Phân loại các dạng hành vi phạm tội..................................................................14
1.2.1. Hành vi phạm tội dưới dạng hành động (hành vi): .........................................14
1.2.2. Hành vi phạm tội dưới dạng không hành động (bất tắc vi): ...........................14
1.2.3. Phân nhóm dấu hiệu hành vi phạm tội: ...........................................................15

1.3. Mối quan hệ giữa hành vi phạm tội với các dấu hiệu khác thuộc mặt khách
quan của tội phạm. ....................................................................................................19
1.3.1. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hành vi phạm tội với dấu hiệu hậu quả phạm tội. ......19
1.3.2. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hành vi phạm tội với các dấu hiệu khác: phương
tiện, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh. ...................................24
1.3.3. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hành vi phạm tội với mối quan hệ nhân quả. ......26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................33
Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN DẤU HIỆU HÀNH VI PHẠM TỘI TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN XÉT
XỬ CÓ LIÊN QUAN ..............................................................................................34
2.1. Sự thể hiện dấu hiệu hành vi phạm tội theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
hiện hành. ..................................................................................................................34


2.1.1. Sự thể hiện dấu hiệu hành vi phạm tội với tư cách là dấu hiệu định tội theo
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành. .......................................................34
2.1.2. Sự thể hiện dấu hiệu hành vi phạm tội với tư cách là dấu hiệu định khung theo
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành. .......................................................35
2.2. Thực tiễn xét xử có liên quan đến hành vi phạm tội, một số tồn tại và những
nguyên nhân cơ bản...................................................................................................35
2.2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu hành vi phạm tội. ................................................35
2.2.2. Một số tồn tại và những nguyên nhân cơ bản. ................................................51
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................54
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 HIỆN HÀNH LIÊN QUAN ĐẾN DẤU
HIỆU HÀNH VI PHẠM TỘI.................................................................................55
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 hiện hành liên quan đến dấu hiệu hành vi phạm tội. ........................................55
3.1.1. Về phương diện thực tiễn. ...............................................................................55
3.1.2. Về phương diện lập pháp. ...............................................................................56

3.1.3. Về phương diện lý luận. ..................................................................................56
3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện
hành về dấu hiệu hành vi phạm tội liên quan đến việc định tội danh và định khung
hình phạt. ...................................................................................................................57
3.2.1. Phần chung: .....................................................................................................57
3.2.2. Phần các tội phạm cụ thể:................................................................................58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................71


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các tội phạm có dấu hiệu hành vi phạm tội thể hiện dưới dạng hành động
theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. ................................................................34
Bảng 2.2: Các tội phạm có dấu hiệu hành vi phạm tội thể hiện dưới dạng không
hành động theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. ..............................................34
Bảng 2.3: Các tội phạm có dấu hiệu hành vi phạm tội với tư cách là dấu hiệu định
khung theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành. ....................................35
Bảng 2.4: Thống kê số liệu các loại án có dấu hiệu hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt
buộc phải giải quyết tương quan với tổng số vụ án phải giải quyết trong toàn quốc
giai đoạn 2005 - 2014 ................................................................................................36


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần tích cực bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức; góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới

và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ ,công bằng, văn minh.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành tuy đã có những bước phát
triển vượt bậc so với văn bản pháp luật hình sự trước nó, nhưng do sự thay đổi
nhanh chóng của kinh tế - xã hội, sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đòi hỏi gắt gao của
cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền nên không tránh khỏi những bất
cập, hạn chế, thiếu sót cần sớm được hoàn thiện, trong đó có quy định về dấu hiệu
hành vi phạm tội với tư cách là dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung. Điều này
khiến thực tiễn xác định tội phạm, định tội danh và quyết định hình phạt còn chưa
thống nhất và có nhiều điểm bất cập dẫn đến hiện tượng bỏ lọt tội phạm hoặc xử
oan cho người vô tội…
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” với mong muốn
góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, nhằm đáp ứng tốt
hơn đòi hỏi của thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm và
cấu thành tội phạm nói chung đã được quan tâm dưới những góc độ và bình diện
khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu độc lập, riêng rẽ và có hệ thống dấu hiệu
“hành vi phạm tội” trong mặt khách quan của tội phạm theo Bộ luật hình sự Việt
Nam mới chỉ được đề cập gián tiếp thông qua hay việc phân tích chung về tội phạm,

1


trong các sách chuyên khảo hay các giáo trình, các bài viết, các luận văn, luận án cụ
thể theo ba nhóm như sau:
2.1. Các sách và các giáo trình:
1) GS.TSKH Lê Văn Cảm, Mục IV, phần II, Chương thứ tư - Tội phạm, Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần

chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Tội
phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1991; 3) GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2008, 2010; 4) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Sách chuyên khảo: Cấu thành tội
phạm lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; 5) TS Trịnh Tiến Việt, Bình
luận khoa học - thực tiễn về một số vấn đề của luật hình sự, Nxb Tư pháp Hà Nội,
2004; 6) Tác giả Nguyễn Minh Đức, Một số vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự và
những tình huống trong thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; 7)
GS.TSKH Lê Văn Cảm (Chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; 8) PGS.TS Kiều Đình Thụ, Chương IX, Mặt
khách quan của tội phạm - trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 (Tập thể tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm
chủ biên)…
2.2. Các bài báo khoa học được công bố liên quan đến dấu hiệu hành vi phạm tội:
1) Lê Văn Cảm (2004), Lý luận cấu thành tội phạm trong khoa học Luật
Hình sự, Tạp chí Luật học, Số 2, Tr.17-23; 2) Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề lý
luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm, Số 7, Tr 2-9; Số 8, Tr 7-13, Tạp chí Tòa án
nhân dân, 3) Nguyễn Quốc Hoàn (2007), Hành vi pháp luật và quan niệm về hành
động và không hành động, Số 11, Tr.15-21, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; 4)
Nguyễn Anh Tuấn (2010), Hoàn thiện dấu hành vi trong mặt khách quan của tội
gián điệp, Số 18(179) , Tr. 53-56, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng Quốc
hội); 5) Đặng Thanh Nga (2006), Từ khái niệm hành vi đến khái niệm hành vi phạm
tội, Số 6, Tr.74-78, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; 6) Nguyễn Ngọc Hoà (2006),

2


Kỹ thuật xây dựng cấu thành tội phạm và việc hoàn thiện Bộ luật hình sự, Số 4, Tạp
chí Luật học;…
2.3. Các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ:

1) Lê Thu Trang, Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội
phạm theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà
Nội, 2012; 2) Lê Phương Thuỳ, Mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một
yếu tố cấu thành tội phạm, Luận văn thạc sỹ luật học - Đại học quốc gia Hà Nội,
2011; 3) Nguyễn Thị Ngọc Linh, Hành vi nguy hiểm cho xã hội với tư cách là dấu
hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm , Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa
Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy các công
trình nghiên cứu sâu về cấu thành tội phạm nói chung mà những vấn đề về dấu hiệu
hành vi phạm tội chỉ chiếm một phần nhỏ hoặc được đề cập gián tiếp qua nội dung
các yếu tố cấu thành tội phạm chứ chưa thực sự đi sâu nghiên cứu về vấn đề này.
Do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật cũng như việc đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự có ý nghĩa rất
lớn trên các bình diện lý luận, thực tiễn áp dụng, chính trị - xã hội. Vì những lý do
trên, việc lựa chọn và triển khai đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi
phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” là cần thiết.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của nó - Một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn của hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề xung quanh dấu hiệu hành vi phạm tội, và thực
tiễn áp dụng pháp luật liên quan tới nó dưới góc độ khoa học luật hình sự. Trên cơ sở đó,
chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Đồng thời, đưa ra những kiến giải lập pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu hành vi phạm tội trong thực tiễn xét xử.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu

3


Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề pháp lý cơ bản về dấu

hiệu hành vi phạm tội như: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa, mối quan hệ
của nó với các dấu hiệu cấu thành mặt khách quan khác, sự thể hiện dấu hiệu hành
vi phạm tội trong Bộ luật hình sựnăm 1999 hiện hành, thực tiễn áp dụng dấu hiệu
này trong thực tế, đồng thời cũng đi sâu tìm hiểu các vướng mắc còn tồn tại trong lý
luận cũng như trong thực tiễn áp dụng để đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoàn
thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu hành vi phạm tội trong các
tội phạm cụ thể và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về
vấn đề này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu ở trên, đề tài có các nhiệm vụ chính sau đây:
1) Làm rõ khái niệm và các đặc điểm của dấu hiệu hành vi phạm tội, mối quan
hệ giữa hành vi phạm tội với các dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm;
2) Phân tích sự thể hiện dấu hiệu hành vi phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 hiện hành;
3) Phân tích và đánh giá các ví dụ, bản án điển hình về việc áp dụng dấu hiệu
hành vi phạm tội trong thực tiễn xét xử ở nước ta thời gian vừa qua;
4) Nghiên cứu việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hành vi phạm tội;
5) Đề tài đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hành vi phạm tội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước
ta về công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình
nghiên cứu tác giả có tiếp thu chọn lọc các công trình khoa học đã công bố, các
đánh giá của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia nghiên cứu về vấn đề có liên
quan đến dấu hiệu hành vi phạm tội.

4



5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: phân tích, tổng
hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy
các quy định của pháp luật; khảo sát thực tế… để phân tích các vấn đề khoa học
trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, kết quả nghiên cứu đề tài góp phần hoàn thiện lý luận về dấu hiệu
hành vi phạm tội trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể đã làm rõ được các
vấn đề chung về dấu hiệu hành vi phạm tội, phân tích nó trong tương quan với các
dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm, chỉ ra các mâu thuẫn, bất cập của
quy định hiện hành, chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, đồng
thời cũng chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về vấn đề này.
Về thực tiễn, đề tài đã phân tích và đánh giá các ví dụ, bản án điển hình về
việc áp dụng dấu hiệu hành vi phạm tội trong thực tiễn xét xử ở nước ta trong thời
gian vừa qua; qua đó, đề tài còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, học tập. Đặc
biệt, những đề xuất của đề tài có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự về vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết
cấu ba chương với nội dung sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về dấu hiệu hành vi phạm tội theo luật hình
sự Việt Nam.
Chương 2: Sự thể hiện dấu hiệu hành vi phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 hiện hành và thực tiễn xét xử có liên quan.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành liên quan đến dấu hiệu hành vi
phạm tội.


5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI PHẠM TỘI THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hành vi phạm tội
1.1.1. Khái niệm hành vi phạm tội
Hành vi và hành vi phạm tội là những thuật ngữ được dùng phổ biến trong
khoa học pháp lý hình sự và khoa học tâm lý pháp lý. Việc làm rõ khái niệm hành
vi và hành vi phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ về mặt lý luận mà còn cả
trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trong Từ điển Tâm lý học do R.J.Corsini chủ biên có viết: “Hành vi là hành
động, phản ứng, những tương tác đáp lại kích thích bên trong và bên ngoài, bao
gồm những cử chỉ thuộc về nội tâm và những quá trình vô thức” [76, tr. 99]. Hành
vi có hai phạm trù: hành vi hiện ra bên ngoài và hành vi diễn ra bên trong. Hành vi
bộc lộ ra bên ngoài là những hành động mà người khác có thể quan sát trực tiếp
được. Hành vi diễn ra bên trong đầu là những gì chúng ta làm mà người khác không
thể quan sát trực tiếp được nhưng có thể nhận biết thông qua suy luận.
Ở Việt Nam hiện nay, khi bàn đến khái niệm hành vi cũng có những ý kiến
khác nhau. Có tác giả cho rằng, hành vi là một bộ phận của hoạt động và luôn được
điều khiển bởi ý thức. “Hành vi là những biểu hiện chỉ bộc lộ ra bên ngoài của hoạt
động và bao giờ cũng gắn liền với động cơ, mục đích”. Tác giả khác cũng cho rằng,
hành vi là bộ phận của hoạt động nhưng hành vi có thể có ý thức và có thể không có
ý thức, nhưng điều quan trọng là hành vi phải mang tính ý nghĩa xã hội. “Hành vi là
những biểu hiện bên ngoài của cá quá trình sinh lý của hoạt động. Nó gắn với động
cơ, nhu cầu và có ý nghĩa xã hội nhất định” [24, tr. 40].
Như vậy, khái niệm về hành vi chưa có một quan điểm thống nhất, bởi mỗi
tác giả khi đưa ra khái niệm hành vi đã nhìn nhận, nghiên cứu hành vi ở những góc
độ khác nhau. Do đó, có những định nghĩa mở rộng khái niệm hành vi và cho rằng,

hành vi là tất cả mọi phản ứng của con người (cả những phản ứng vô thức và có ý

6


thức). Ngược lại, có những định nghĩa thu hẹp khái niệm hành vi và cho rằng hành vi
phải là những phản ứng có ý thức, được điều khiển bởi ý thức. Có những ý kiến lại
khẳng định hành vi là hoạt động hoặc là một bộ phận cấu thành hoạt động… Từ việc
khái quát phân tích trên, có thể hiểu rằng: Hành vi là cách xử sự của con người trong
một hoàn cảnh cụ thể được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định. Tuy
nhiên, cách xử sự của con người trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể đó có thể
được kiểm duyệt bởi ý thức (hành vi có ý thức), nhưng cũng có thể không được kiểm
duyệt bởi ý thức (hành vi vô thức). Như vậy, khi nói đến hành vi của con người là
bao gồm cả hành vi có ý thức và hành vi vô thức. [59, tr. 74-78]
Trong cuốn Từ điển Luật học không đề cập đến thuật ngữ “hành vi pháp
luật” mà chỉ đề cập đến thuật ngữ “hành vi pháp lý” theo đó, hành vi này được giả
thích là: “Hành vi thực hiện một sự kiện thực tế, cụ thể theo ý chí của con người
làm xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật” [6, tr. 324]. Việc giải
thích này đã găn hành vi của con người với các quan hệ pháp luật do đó không bao
quát được những hành vi có ý nghĩa pháp lý nhưng không làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Do đó, để có thể hiểu được quan niệm đầy đủ về
hành vi pháp luật, cần phải hiểu như sau:
Thứ nhất, hành vi pháp luật là xử sự thực tế của con người trong một hoàn
cảnh cụ thể có thể được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định (xử sự
dưới dạng hành động), và cũng có thể được thể hiện bằng việc thiếu vắng những cử
chỉ, lời nói hay những thao tác nhất định (xử sự dưới dạng không hành động).
Thứ hai, khác với các hành vi xã hội khác, một hành vi thực tế nào đó của
con người chỉ được coi là hành vi pháp luật khi đó là những xử sự hợp pháp hoặc
bất hợp pháp. Không phải tất cả các hành vi hay xử sự thực tế của con người đều là
hành vi pháp luật mà chỉ những sử sự thực tế của con người theo quy định của pháp

luật là hợp pháp hoặc trái pháp luật thì mới có thể là hành vi pháp luật. Cách xử sự
của con người trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể được pháp luật dự liệu có
thể là phù hợp với những yêu cầu của pháp luật, hoặc trái với yêu cầu của pháp luật.
Pháp luật chính là tiêu chuẩn, là thước đo để xác định hành vi thực tế nào đó của
con người là hợp pháp hay bất hợp pháp.

7


Thứ ba, chủ thể của hành vi pháp luật phải có năng lực hành vi pháp luật.
Chính là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận để xác lập và thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý trên thực tế.
Nói tóm lại, có thể hiểu hành vi pháp luật là xử sự hợp pháp hoặc bất hợp
pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật. Hiểu như vậy có thể giúp chúng ta
có thể phân biệt hành vi pháp luật với hành vi được xem là một loại sự kiện pháp lý
làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Trong nhiều trường hợp
hành vi pháp luật cũng đồng thời là hành vi có thể plamf phát sinh, thay đổi, hoặc
chấm dứt quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, có những hành vi pháp luật không làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Chẳng hạn, hành vi tuân theo pháp
luật (không thực hiện hành vi mà pháp luật cấm) trong nhiều trường hợp sẽ không
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Ngược lại, có những hành
vi làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật nhưng lại không phải là
hành vi pháp luật mà chúng chỉ có ý nghĩa như là một sự kiện pháp lý làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ hành vi gây thiệt hại về tài sản của
người khác của đứa trẻ không có năng lực hành vi pháp luật. [30, tr. 17, 18]
Trong các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm, hành vi phạm tội là biểu
hiệu cơ bản nhất của tội phạm nói chung. Các biểu hiện khác thuộc mặt khách quan chỉ
xuất hiện khi có hành vi phạm tội và luôn gắn liền với hành vi. Không có hành vi thì
cũng không có các biểu hiện khác. Do vậy, dấu hiệu hành vi được mô tả trong tất cả
các cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, sự mô tả dấu hiệu này ở các cấu thành tội phạm

không giống nhau hoàn toàn vì còn phụ thuộc một phần vào tính đa dạng, phong phú
của chính hành vi thực tế. Khi mô tả dấu hiệu hành vi của một loại tội phạm cụ thể
không thể không xét đến tính đặc thù của hành vi thực tế được phản ánh trong cấu
thành tội phạm. Mặc dù là một dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các dấu hiệu cấu thành
của tội phạm, nhưng cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể, phân loại thống
nhất về hành vi phạm tội. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách khái quát nhất như sau:
Hành vi phạm tội (hay còn được gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm
pháp luật hình sự) là xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách

8


quan dưới những hình thức nhất định, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. [53, tr. 167]
Hành vi, chính là những biểu hiện được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan qua những hình thức nhất định dưới sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển
của ý chí. Hành vi gây nên những thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Nói một
cách khác, “Hành vi phạm tội chính là cầu nối giữa khách thể và chủ thể”, sẽ không
có tội phạm và người phạm tội nếu như không có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội
- hành vi phạm tội.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hành vi phạm tội
Từ những phân tích trên có thể đưa ra một số đặc điểm của hành vi phạm tội
như sau:
Thứ nhất, hành vi phạm tội phải có tính nguy hiểm cho xã hội.
Đây là đặc điểm có tính chất quan trọng và quyết định nhất trong việc phân
biệt một hành vi là vi phạm pháp luật khác với hành vi phạm tội. Về mặt khách
quan, hành vi phạm tội gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại tới những quan
hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ. Những quan hệ xã hội đó được quy
định trong khoản 1, Điều 8 của Bộ luật hình sự bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống
nhất và sự toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc

phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức chính
trị, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, quyền và những lợi ích
hợp pháp khác của công dân, trật tự xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là, nếu không xâm
phạm những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì hành vi đó dù có nguy
hiểm cho xã hội thì cũng không phải là hành vi phạm tội. Điều đó có nghĩa là quan
hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đóng vai trò quan trọng trong việc
quyết định hành vi nào đó là tội phạm hay không phải là tội phạm. Theo đó, tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào tính chất và tầm
quan trọng của những quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ cũng như
mức độ thiệt hại do hành vi đó gây ra. Tính chất quan trọng của quan hệ xã hội phụ
thuộc vào ý nghĩa của nó đối với giai cấp thống trị và ý nghĩa này có thể thay đổi
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, nó không phải là yếu tố duy nhất
9


phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội mà nó phải kết hợp với các yếu tố khác trong
cấu thành tội phạm như lỗi, động cơ phạm tội của người thực hiện hành vi phạm tội
gây ra cho quan hệ xã hội đó. [66, tr. 11]
Thứ hai, hành vi phạm tội là hoạt động có ý thức và ý chí.
Hành vi của con người là sự thống nhất giữa yếu tố bên ngoài và bên trong.
Điều này có nghĩa, một người bình thường, khỏe mạnh về mặt tâm lý, có lý trí, tự do ý
chí thì hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một sự cư xử phù hợp với lợi ích của mình,
của cộng đồng. Như vậy, đòi hỏi hành vi của con người phải có ý thức và ý chí. Về mặt
ý thức, người đó phải nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm và tính trái pháp luật
của hành vi mà mình gây ra cho xã hội. Về ý chí, hành động của người đó phải được
cân nhắc, suy nghĩ, có kế hoạch, biện pháp để thực hiện những mục đích đó. Không thể
có hành vi khách quan của tội phạm mà những biểu hiện ra bên ngoài của nó không
được ý thức của họ kiểm soát hoặc ý chí của họ điều khiển. Đối với trường hợp người
bị bệnh tâm thần họ mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình
và do đó họ là người không có năng lực trách nhiệm hình sự cho nên dù họ có thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội như gây thương tích, phá hoại tài sản của người
khác thì cũng không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đặc
biệt, đối với những người dưới 14 tuổi không có khả năng nhận thức được đầy đủ tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc không đủ khả năng điều khiển được ý chí thì
theo quy định của pháp luật cũng không bị coi là tội phạm.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì chỉ người nào vào thời điểm thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, có khả
năng nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả
năng điều khiển được hành vi đó thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây chính
là đặc điểm không thể thiếu của hành vi nguy hiểm cho xã hội. [66, tr.12]
Thứ ba, hành vi phạm tội là hành vi thể hiện dưới dạng hành động (hành vi)
hoặc không hành động (bất tắc vi).
Hành động phạm tội là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình
trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Hành động phạm tội

10


có thể chỉ là tác động đơn giản xảy ra một lần trong một thời gian ngắn hoặc có thể
là tổng hợp các động tác khác nhau hoặc có thể lặp đi lặp lại nhiều lần trong một
thời gian dài. Ví dụ: Hành động đập, phá, đâm, chém, đầu cơ, cất giữ trái phép vũ
khí… Hành động phạm tội có thể tác động trực tiếp vào đối tượng tác động tác động
của tội phạm như dùng tay bóp chết đứa trẻ hoặc có thể thông qua công cụ, phương
tiện phạm tội trong trường hợp dùng súng để gây thương tích cho người khác. Hành
động phạm tội có thể được thực hiện qua lời nói như: Xúi giục người khác thực hiện
hành vi giết người hoặc việc làm như: Hành động cướp tài sản của người khác.
Đối lập với hành động phạm tội, không hành động phạm tội là hình thức của
hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội
phạm gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm thông qua việc chủ thể không làm một

việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Ví dụ: Trường hợp
A thấy B bị C đâm nhiều nhát trong tình trạng nguy kịch nếu không gọi cấp cứu kịp
thời có thể sẽ chết mà A bỏ mặc trong khi A hoàn toàn có thể cứu giúp B.
Hành động phạm tội và không hành động phạm tội đều là những biểu hiện
của con người ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm soát, ý chí điều khiển
và đều có khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của
tội phạm gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. “Tính gây thiệt
hại này của hành động và không hành động phạm tội là mặt khách quan của tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, có ý nghĩa quyết định tính trái pháp luật hình sự
của tội phạm nói chung cũng như của hành vi khách quan nói riêng” [26, tr. 105].
Đối với hình thức hành động phạm tội, tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở
chỗ, việc đã làm bị luật hình sự ngăn cấm không kể chủ thể thực hiện là ai. Đối với
hình thức không hành động phạm tội, tính trái pháp luật hình sự của hành vi thể
hiện ở chỗ việc phải làm mà chủ thể không làm mặc dù có đủ điều kiện để làm là
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Hay nói cách khác, điều kiện có thể buộc người nào
đó phải chịu trách nhiệm hình sự về không hành động của mình là: Người đó có
nghĩa vụ phải hành động và người đó có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ này.
Trong các loại tội phạm có loại chỉ thực hiện được dưới hình thức hành động như:
Tội cướp giật tài sản (Điều 136 Bộ luật hình sự), tội phản bội Tổ quốc (Điều 78 Bộ
11


luật hình sự), tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự), có loại tội chỉ thực hiện được
dưới dạng không hành động như: Tội không cứu giúp người ở tình trạng nguy hiểm
tới tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự) và tội không tố giác tội phạm (Điều 314
Bộ luật hình sự). Có những tội vừa có thể thực hiện được bằng hành động vừa có
thể thực hiện được bằng không hành động. Ví dụ: Tội hủy hoại tài sản (Điều 143 Bộ
luật hình sự), tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ (Điều 202 Bộ luật hình sự). Như vậy, nếu phân biệt được rõ các cấu thành tội
phạm mà trong đó hành vi được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động

chính là một trong những điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự được chính xác.
Thứ tư, hành vi phạm tội phải là hành vi trái pháp luật hình sự.
Hành vi đã được thực hiện chỉ coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu hành vi đó
thỏa mãn đầy đủ những đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm cụ thể được quy
định trong luật hình sự. Do đó, hành vi khách quan của bất kỳ tội phạm cụ thể nào đều có
tính được quy định trong luật hình sự hay tính trái pháp luật hình sự. Thừa nhận nguyên
tắc quan trọng này trong Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta đều quy định: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự” [42, Điều 8]. Như
vậy, theo pháp luật nước ta, chỉ có Bộ luật hình sự mới là văn bản pháp luật quy định
hành vi nào đó là tội phạm. Còn các hành vi pháp luật khác không phải là tội phạm được
quy định trong các văn bản ngoài pháp luật hình sự. Ví dụ: Vi phạm dân sự sẽ được quy
định trong Bộ luật dân sự, vi phạm hành chính sẽ được quy định trong Bộ luật hành
chính. Đây là một đặc điểm quan trọng khi nói tới hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đó
cũng là một nguyên tắc được nhiều nước trên thế giới thừa nhận với nội dung: “nulliem
crimen sine lege” nghĩa là không có tội phạm nếu không có luật. [8, tr 366]
1.1.3. Một số ý nghĩa về mặt pháp lý hình sự của hành vi phạm tội
Trong cuốn sách chuyên khảo sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa
học luật hình sự - Phần chung” Tiến sỹ khoa học Lê Cảm có viết: [8, tr 336, 337]
“Hành vi phạm tội - cách xử sự trái pháp luật hình sự và nguy hiểm cho xã
hội, tức là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tất cả các tội phạm và nó có
ý nghĩa pháp lý hình sự trên các bình diện sau:

12


1) Hành vi phạm tội luôn luôn được thực hiện dưới một trong hai dạng là:
bằng hành động (hành vi): làm những động tác cơ học bị luật hình sự cấm (ví dụ:
cầm súng bắn chết người, dùng dao chém nạn nhân bị thương,…) hoặc bằng không
hành động (bất tắc vi): không làm những động tác cơ học mà người phạm tội theo
pháp luật có nghĩa vụ phải làm và có thể làm được (ví dụ: một cán bộ hải quan vì đã

đồng ý nhận hối lộ nên đã cố ý bỏ qua không kiểm tra hành lý của người phạm tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới khi xuất cảnh, một cán
bộ công an vì sợ trả thù nên đã cố ý lảng tránh không chịu giúp đỡ một cụ già đang
bị tên cướp gây thương tích nặng để cướp tài sản,…)
2) Theo nguyên tắc pháp chế “không có tội phạm nếu không có luật quy
định”, tức là nếu như không có việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong
Bộ luật hình sự hoặc hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm không đáng kể thì cũng không có tội phạm.
3) Nếu phân biệt rõ được các cấu thành tội phạm mà trong đó hành vi được
thực hiện bằng hành động hoặc không hành động chính là một trong những điều kiện
để truy cứu trách nhiệm hình sự được chính xác, vì pháp luật hình sự Việt Nam quy
định một số trường hợp mà chỉ khi nào hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm được thực hiện dưới dạng không hành động có “gây thiệt hại nghiêm trọng” cho
khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, khi thiệt hại ấy được luật quy định là
dấu hiệu bắt buộc đối với một loạt cấu thành tội phạm cơ bản, thì lúc đó hành vi ấy mới
bị coi là tội phạm. Ví dụ: một loạt các cấu thành tội phạm cơ bản được nhà làm luật
quy định tại điều 144, điều 145, điều 229, điều 285,… của Bộ luật hình sự.
4) Đôi khi cùng một hành vi phạm tội (về mặt hình thức) có dấu hiệu của
đồng thời nhiều cấu thành tội phạm độc lập, nhưng do tính chất của mặt khách quan
và mặt chủ quan khi thực hiện hành vi nên nó được thu hút hết vào một tội. Trong
trường hợp này để giải quyết đúng đắn và chính xác vấn đề trách nhiệm hình sự của
người phạm tội, thì cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền cần xem xét đánh giá
một cách tổng hợp, khách quan, đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết cụ thể và
tính chất của vụ án”.

13


1.2. Phân loại các dạng hành vi phạm tội
1.2.1. Hành vi phạm tội dưới dạng hành động (hành vi)

Hành động phạm tội là hành vi khác quan làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội
phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
Loại hành vi được thể hiện dưới hình thức hành động được đa số các học giả
thừa nhận đó là dạng hành vi được thực hiện bằng những cử chỉ, lời nói, động tác
của chủ thể. Hành động phạm tội có thể chỉ là một động tác đơn giản, xảy ra một
lần trong một khoảng thời gian ngắn hoặc tập hợp nhiều động tác khác nhau nhưng
được lặp đi lặp lại liên tục trong khoảng thời gian dài. Ví dụ: hành vi tham ô tài sản,
hành vi trộm cắp tài sản, hành vi cướp giật,…[30, tr. 19]
1.2.2. Hành vi phạm tội dưới dạng không hành động (bất tắc vi)
Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi
tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách
thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải
làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
Hành vi được thể hiện dưới dạng không hành động thường là kết quả của
việc chủ thể không thực hiện nghĩa vụ pháp lý phát sinh trực tiếp từ các quy phạm
pháp luật. Ví dụ các hành vi không cứu giúp người khác trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng, không tố giác tội phạm,… Đây là trường hợp chủ thể không làm
hoặc làm không đầy đủ một việc mà pháp luật quy định phải làm mặc dù có đủ khả
năng và điều kiện để thực hiện. Việc không thực hiện đó đã làm thay đổi trạng thái
bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Với
quan niệm này, cso lẽ cần phải quan niệm không hành động từ khía cạnh cụ thể là:
Một người không thực hiện hành động H ở thời điểm T chỉ trong trường hợp ở thời
điểm đó người đó có cơ hội để thực hiện hành động này. Trong trường hợp này,
việc thiếu vắng hành động được pháp luật quy định nên được xem là không hành
động. Ví dụ thấy người khác trong tính trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều
kiện cứu giúp mà không cứu giúp dẫn đến chết người thì rõ ràng đây là không hành

14



động trong điều kiện có thể hành động. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, không
hành động ở đây là xét ở khía cạnh quy định của pháp luật còn bản thân người thực
hiện hành vi bằng không hành động này ở thời điểm đó, họ có thể thực hiện vô số
các hành động khác, nhưng lại thiếu vắng hành động mà pháp luật yêu cầu. Vì thế,
việc xem xét cái gọi là hành động hoặc không hành động cần phải xuất phát từ các
quy định của pháp luật. Một người sẽ được coi là không hành động hợp pháp nếu
trong điều kiện và hoàn cảnh có thể thực hiện hành động trái pháp luật, họ lại không
tiến hành hành vi đó. Và vì vậy, quan niệm về không hành động trong trường hợp
thực hiện pháp luật dưới hình thức tuân theo pháp luật cũng rơi vào trường hợp này.
Chẳng hạn, một người đi đường, khi gặp đèn đỏ họ không vượt qua. Trường hợp này
cần phải xem đó là không hành động hợp pháp bởi trong tính huống đó họ có thể hiện
hiện một hành vi bất hợp pháp. Thực hiện pháp luật dưới hình thức tuân theo pháp
luật nên quan niệm theo khía cạnh này chứ không phải trong trường hợp “cùng một
lúc một chủ thể đang thực hiện vô số các hành vi không hành động hợp pháp khi anh
ta đang không vi phạm các quy định ngăn cấm của pháp luật”. [30, tr. 19-21]
1.2.3. Phân nhóm dấu hiệu hành vi phạm tội:
Xét về tính chất trái pháp luật, có thể chia hành vi thành hành vi bị cấm tuyệt
đối và hành vi bị cấm tương đối.
Xét về cấu trúc của hành vi, có thể chia hành vi thành hành vi đơn và hành vi kép.
Ngoài ra, còn có thể kể tới hai loại hành vi có cấu trúc đặc biệt là hành vi liên
tục và hành vi kéo dài.
Cụ thể:
Hành vi khách quan của tội phạm vô cùng đa dạng nhưng vẫn có thể nhóm
về một số nhóm theo những tiêu chí riêng nhất định. Trong Sách chuyên khảo “Cấu
thành tội phạm - Lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa cũng có đề
cập cụ thể đến vấn đề này:
Xét về tính chất trái pháp luật, có thể chia hành vi thành hành vi bị cấm tuyệt
đối và hành vi bị cấm tương đối. Trong đó, hành vi bị cấm tuyệt đối là hành vi luôn
luôn mang tính không hợp pháp như hành vi trộm cắp tài sản, hành vi hiếp dâm…;


15


còn hành vi bị cấm tương đối là hành vi chỉ có tính không hợp pháp khi chủ thể
không thực hiện những yêu cầu nhất định như hành vi kinh doanh, hành vi vận
chuyển hàng hóa qua biên giới… Trong ví dụ này, hành vi kinh doanh hay hành vi
vận chuyển hàng hóa qua biên giới có thể là hành vi hợp pháp và cũng có thể là
hành vi không hợp pháp. Do vậy, khi mô tả dấu hiệu hành vi thuộc loại bị cấm
tương đối đòi hỏi phải mô tả đồng thời các điều kiện làm chi hành vi đó có tính
không hợp pháp (Trong Bộ luật hình sự Việt Nam, dấu hiệu hành vi thuộc loại này
chỉ được gắn thêm nhóm từ trái phép mà không có mô tả gì hơn).
Xét về hình thức thể hiện, hành vi có thể thể hiện dưới dạng hành động - thực
hiện một việc mà luật cấm và không hành động - không thực hiện một việc mà luật
yêu cầu phải thực hiện. Trong các tội phạm có tội phạm mà hành vi chỉ có thể là
hành động; có tội phạm mà hành vi có thể là hành động hoặc không hành động và
có tội phạm mà hành vi chỉ có thể là không hành động. Đối với các tội mà hành vi
chỉ có thể là không hành động thì việc mô tả hành vi trong cấu thành tội phạm cần
phải chú ý đến đặc điểm đặc biệt của dạng hành vi này. Vấn đề trách nhiệm hình sự
chỉ đặt ra cho không hành động khi chủ thể có nghĩa vụ pháp lý phải hành động và
có điều kiện thực hiện nghĩa vụ đó. Do vậy, khi mô tả dấu hiệu hành vi (không hành
động) trong cấu thành tội phạm phải thể hiện được nghĩa vụ pháp lý phải hành động
và điều kiện thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ: Điều 102 Bộ luật hình sự đã thể hiện phần
nào điều này khi mô tả: Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp… Tương tự như vậy, Điều
152 Bộ luật hình sự quy định: Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng
thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng… [27, tr. 57, 58]
Tuy nhiên, nghĩa vụ pháp lý có thể được thể hiện qua dấu hiệu chủ thể. Với việc
mô tả đặc điểm đặc biệt của chủ thể, luật có thể thể hiện được nghĩa vụ của chủ thể.

Xét về cấu trúc của hành vi, có thể phân hành vi thành hành vi đơn và hành
vi kép. Trong đó, hành vi kép được hiểu là hành vi gồm nhiều hành vi riêng biệt
khác nhau. Những hành vi này có thể chỉ xâm hại một khách thể trực tiếp nhưng

16


cũng có trường hợp xâm hại nhiều khách thể trực tiếp khác nhau. Ví dụ: ở tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể thực hiện hai hành vi là hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt nhưng chỉ xâm hại một khách thể trực tiếp là quan hệ sở hữu; còn ở tội
cướp tài sản, chủ thể thực hiện hai hành vi là hành vi dùng vũ lực… và hành vi
chiếm đoạt. Hai hành vi này xâm hại hai khách thể trực tiếp khác nhau là quyền
nhân thân và quyền sở hữu. Khi mô tả hành vi ở tội có hành vi kép trong cấu thành
tội phạm, nhà làm luật cần chú ý đến đặc điểm đặc biệt của hành vi kép. Họ có thể
mô tả tất cả các hành vi riêng biệt trong cấu thành tội phạm và khi đó dấu hiệu hành
vi bao gồm tất cả các hành vi riêng biệt đó. Nhưng trong cấu thành tội phạm có thể
chỉ có một hành vi riêng biệt được mô tả và khi đó dấu hiệu hành vi chỉ là một hành
vi riêng biệt còn hành vi riêng biệt khác được mô tả dưới dạng mục đích của chủ
thể. Việc mô tả như vậy là cho phép và cần thiết cho việc quy định thời điểm hoàn
thành khác nhau ở các tội phạm khác nhau phù hợp với đặc điểm của từng tội và
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong Bộ luật hình sự Việt Nam,
tội cướp tài sản là ví dụ về trường hợp dấu hiệu hành vi trong cấu thành tội phạm
chỉ là một hành vi riêng biệt - hành vi dùng vũ lực…; còn hành vi chiếm đoạt tài sản
chỉ được mô tả dưới dạng mục đích chiếm đoạt. Trái lại, trong cấu thành tội phạm
tội hiếp dâm, dấu hiệu hành vi bao gồm cả hai hành vi riêng biệt là hành vi dùng vũ
lực… và hành vi giao cấu. [27, tr. 59]
Cần phân biệt hành vi kép trên đây với hành vi đơn đa dạng. Hành vi đơn đa
dạng là hành vi đơn nhưng trong cấu thành tội phạm, nhà làm luật mô tả hành vi đó
dưới một số dạng có tính thay thế lẫn nhau. Ví dụ: Trong cấu thành tội phạm tội
tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy, dấu hiệu hành v i được mô tả dưới các dạng

làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ… Các dạng hành vi này
đều có giá trị ngang nhau và mỗi dạng đều được coi là hành vi của tội phạm này.
Khi mô tả dấu hiệu hành vi đơn đa dạng phải tuân thủ các yêu cầu sau:
Các dạng hành vi đó phải cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội,
tương đương nhau và đều phù hợp với tội danh;

17


Tránh hiện tượng gộp các dạng hành vi thành tội danh để tội danh bao quát
hết các hành vi. Ví dụ: Ghép hành vi dụ dỗ, hành vi ép buộc, hành vi chứa chấp với
nhau để có tội danh: Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên
phạm pháp. Trong những trường hợp này, chúng ta phải tìm được tội danh chung.
Nếu không tìm được thì phải tách các dạng hành vi đó thành các hành vi đơn dạng
của các tội danh khác nhau.
Về kỹ thuật lập pháp cần chú ý cách mô tả dấu hiệu hành vi có tính chất đặc
biệt khi xây dựng cấu thành tội phạm cắt xén. Khi xây dựng cấu thành tội phạm cắt
xén, nhà làm luật không mô tả hành vi của tội phạm là dấu hiệu hành vi mà dưới
dạng như là mục đích, tính chất của hành vi hoạt động. Như vậy, dấu hiệu hành vi
được mô tả trong các cấu thành tội phạm là hành vi hoạt động và nó được hiểu là
hành vi bất kỳ nhằm thực hiện hành vi của tội phạm được phản ánh trong cấu thành
tội phạm cắt xén. Tội danh của tội có cấu thành tội phạm cắt xén cũng phải thêm tập
hợp từ “hoạt động”. Ví dụ: Điều 79 Bộ luật hình sựquy định tội hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân: “Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức
nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì…”. Hành vi khách quan của tội phạm này là
hành vi thành lập hoặc hành vi tham gia tổ chức mà tổ chức đó có mục đích lật đổ
chính quyền nhân dân. Nhưng trong cấu thành tội phạm, dấu hiệu hành vi được mô
tả không phải là những hành vi này mà là hành vi hoạt động nhằm thực hiện các
hành vi đó - hành vi thành lập hoặc tham gia…
Ngoài các cách phân loại hành vi như trên, luật hình sự còn có thể nói đến

hai loại hành vi có cấu trúc đặc biệt là hành vi kéo dài và hành vi lặp lại (còn được
gọi là hành vi liên tục). Tuy nhiên chỉ có hành vi lặp lại là có ý nghĩa liên quan đến
dấu hiệu hành vi trong cấu thành tội phạm. Theo đó, dấu hiệu hành vi trong cấu
thành tội phạm phải được hiểu có thể là tổng nhiều hành vi thực hiện cụ thể cùng
loại, xảy ra kế tiếp nhau, xâm hại cùng khách thể và đều bị chi phối bởi cùng ý định
phạm tội cụ thể. [27, tr. 60, 61]

18


1.3. Mối quan hệ giữa hành vi phạm tội với các dấu hiệu khác thuộc mặt khách
quan của tội phạm
1.3.1. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hành vi phạm tội với dấu hiệu hậu quả phạm tội
Hậu quả phạm tội là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và
áp dụng pháp luật hình sự. Nó được thể hiện trên nhiều phương diện: Xác định tội
phạm, phân loại tội phạm, đánh giá tính chất tội phạm, xác định các tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nghiệm hình sự, quyết định hình phạt… và là một vấn
đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau
xung quanh khái niệm hậu quả phạm tội.
Theo cuốn từ điển thuật ngữ luật học định nghĩa: “Hậu quả của tội phạm là
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”
[28, tr. 181]. Theo đó thì thiệt hại này có thể là thiệt hại về mặt vật chất, tinh thần,
các biến đổi xã hội nguy hiểm khác xâm phạm tới quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ.
Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TS. Võ Khánh
Vinh chủ biên quan niệm: “Hậu quả của tội phạm là thiệt hại (Sự thay đổi nguy
hiểm) do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”
[74, tr. 196].
GS.TSKH. Lê Cảm viết: “Hậu quả phạm tội là sự thiệt hại cụ thể nhất định
và đáng kể do hành vi phạm tội gây ra cho các lợi ích (khách thể) cho các quan hệ

xã hội được bảo vệ bằng pháp luật hình sự” [8, tr. 367].
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa lại cho rằng: “Hậu quả của tội phạm là sự gây
thiệt hại cho khách thể của tội phạm và thường thể hiện qua sự biến đổi tình trạng
bình thường của bộ phận cấu thành khách thể hay còn gọi là đối tượng tác động của
tội phạm” [25, tr. 153].
Có thể nói, về tên gọi vẫn chưa có sự thống nhất, có quan điểm dùng thuật
ngữ “hậu quả của tội phạm”, có quan điểm sử dụng thuật ngữ “hậu quả phạm tội”
hay “hậu quả nguy hiểm cho xã hội”, song dù theo cách nào thì vấn đề cốt lõi được
nhấn mạnh tới ở tất cả các quan điểm đó là hậu quả là sự gây thiệt hại do hành vi

19


×