Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quyền tiếp cận công lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ ANH

QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ ANH

QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử
Nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Giáo viên hướng dẫn khoa học:

GS.TSKH Đào Trí Úc


HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thế Anh


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU

Chương 1 NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ

Trang
1

7

1.1.

Khái niệm công lý

7

1.1.1.

Khái niệm công lý trong lịch sử tư tưởng nhà nước và pháp luật

7

1.1.2.

Mối liên hệ giữa công lý với một số khái niệm khác

19

1.2.

Khái niệm và nội dung quyền tiếp cận công lý

23

1.2.1.

Khái niệm quyền tiếp cận công lý


23

1.2.2.

Cơ sở pháp lý của quyền tiếp cận công lý

27

1.2.3

Các bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý

31

Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG

39

LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.

Thực trạng hệ thống quy định liên quan đến các quyền và
nghĩa vụ của người dân

2.1.1

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

2.1.2


Việc áp dụng tập quán pháp trong bảo đảm thực hiện quyền tiếp
cận công lý

39
39
44

2.2.

Hệ thống các bảo đảm quyền tiếp cận công lý

47

2.2.1

Vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý

47

2.2.2

Các thủ tục tố tụng

58

2.2.3

Hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý

61


Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP
CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật

3.2.

Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân bảo đảm
thực hiện quyền tiếp cận công lý

3.3

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tư vấn pháp luật.

70
70
74
82


3.4

Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý

86

KẾT LUẬN


90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công lý không phải là một thuật ngữ mới trong các lĩnh vực xã hội nói
chung và pháp luật nói riêng. Ngay từ buổi đầu xuất hiện, khi con người ý
thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, ý niệm về công lý đã xuất
hiện. công lý đã là ước mong, nguyện vọng của con người, được đối xử một
cách công bằng, bình đẳng, ở thời sơ khai, nó được thể hiện ở việc chia các
nguồn lợi phẩm (hoa quả, hoang thú) theo sự đóng góp của các cá nhân trong
buổi đi săn bắt,hái lượm.
“Không thể có hòa bình nếu không có công lý” là câu khẩu hiệu thường
thấy của đồng bào Công giáo. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng thành lập
Ủy ban Công lý và Hòa bình.
Có thể thấy, công lý cũng như cuộc chiến để giành công lý” cũng có lịch sử
thăng trầm riêng của nó, gắn bó một cách mật thiết với lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Trải qua những hình thái kinh tế - xã hội, những chế độ chính trị, chế
độ nhà nước, dù là dã man nhất (chế độ chiếm hữu nô lệ) hay chế độ dân chủ nhất
như hiện nay (chế độ dân chủ tư sản hoặc chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa); dù là
xã hội nguyên thủy nhất hay hiện đại nhất, công lý luôn là cái mang tính tinh
thần nhiều nhất trong ý niệm của con người.
Ở kỷ nguyên hiện đại, tiếp cận công lý không chỉ thuần túy là một
mong ước của con người nữa mà nó còn xuất hiện như là một tiêu chuẩn
quan trọng trong đánh giá đối sự phát triển của một quốc gia, một hệ thống
pháp luật. Bởi đây cũng vừa là quyền của con người và cũng là nghĩa vụ của

nhà nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm
2013 và Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã chỉ ra rõ con đường xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của nước ta.
Trong đó, Nhà nước pháp quyền trước hết cần phải có được một hệ thống
pháp luật đảm bảo được tính công lý, đó là công bằng và lẽ phải theo nghĩa
giản đơn nhất mà ta hiểu được.

1


Tiếp cận công lý là một thuật ngữ chuyên ngành mới trong thời gian gần
đây, được hiểu như là quyền được xét xử công bằng của người dân, tức là gắn
chặt với các hoạt động “xét xử” hay hoạt động “tư pháp”. Trong những năm gần
đây, hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp ở Việt Nam không được đánh giá
cao, thậm chí còn gây mất uy tín trong lòng người dân. Bởi nguyên nhân trước
hết là hệ thống pháp luật chưa bảo đảm được cho người dân thực hiện triệt để
quyền tiếp cận công lý của mình, sau đó là sự suy giảm lòng tin đối với cách
hành xử của các chủ thể của hoạt động tư pháp.
Tòa án từ khi mới thành lập đã có chức năng bảo vệ công lý thông qua
hoạt động xét xử. Nhận thức sâu sắc được vấn đề đó, Hiến pháp 2013 của
Việt Nam đã khẳng định rõ: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý”
tại khoản 3 Điều 102. Hay diễn tả theo cách khác thì Tòa án là người bảo vệ
cuối cùng cho những tự do của người dân mà không phụ thuộc vào địa vị
kinh tế hay địa vị xã hội của họ. Do đó, khi công dân mất niềm tin vào người
nắm công lý của xã hội thì rõ ràng, hậu quả là rất nghiêm trọng.
Với những gì diễn ra trong thời gian gần đây, dư luận xã hội đang bắt đầu
đặt nghi vấn về năng lực, trình độ của đội ngũ tư pháp của nước ta. Ở một số
trường hợp, họ không còn ý nghĩ mang những vụ tranh chấp của mình ra tòa nữa,
mà lại có xu hướng “tự xử” với nhau. Dẫu biết rằng, pháp luật chỉ thể hiện một

phần nhỏ của xã hội vì ngoài pháp luật, còn những thể chế khác nhau điều chỉnh,
tác động lên hành vi của con người (phong tục, tập quán, hương ước, lệ làng…)
và nhiều khi, những thiết chế tương ứng của các thể chế này lại hoạt động có hiệu
quả hơn là các thiết chế tư pháp chính thức theo pháp luật.
Xét theo khía cạnh đó, tiếp cận công lý vừa là một trạng thái của xã hội,
vừa là một đòi hỏi, vừa là nghĩa vụ của nhà nước trong việc tổ chức, thực thi,
bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các chủ thể nói chung (trong đó cũng có
cả nhà nước) mà quan trong nhất là cá nhân (con người) nói riêng được tiến
lại gần hơn lẽ phải và sự công bằng theo đúng nghĩa đên của nó.
Tiếp cận công lý và những vấn đề liên quan không phải là vấn đề riêng
của một quốc gia, một dân tộc hay một lãnh thổ, mà là vấn đề của “toàn cầu”,

2


“toàn xã hội”. Đặc biệt trong những năm gần đây, vấn đề về tiếp cận công lý
được nghiên cứu, khảo sát dưới nhiều cách thức khác nhau và đã đem lại
những thành công bước đầu trong việc đánh giá được mức độ tiếp cận công lý
của người dân. Việt Nam không đứng ngoài câu chuyện đó, với sự tham gia
của nhiều tổ chức khác nhau, trong và ngoài nước, đã từng bước tiến hành
những bước đầu của tiếp cận công lý. Việc cho ra đời Báo điện tử Công lý của
Tòa án nhân dân tối cao hay việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án “Tăng
cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” do Bộ Tư pháp chủ trì,
phối hợp với các cơ quan pháp luật và tư pháp khác của Việt Nam thực hiện là
các sự kiện thể hiện điều đó.
Vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Quyền tiếp cận công lý ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Nhà
nước và Pháp luật của tôi.
1.2. Tình hình nghiên cứu
Công lý và tiếp cận công lý tuy không phải là một nội dung mới nhưng

trong những năm gần đây, nó mới được chính thức trở thành một đối tượng
nghiên cứu độc lập của nhiều ngành khoa học, trong đó có Luật học.
Với nhận thức về tầm quan trọng của công lý trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến, sau 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), đến bản Hiến pháp năm 2013, các giá trị cơ bản của công lý đã
lần đầu tiên được khẳng định và ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam
vẫn chưa có nhiều những công trình nghiên cứu cặn kẽ, đầy đủ về công lý,
vấn đề công lý.
Đã có một số công trình, tác phẩm nổi tiếng, bàn trực tiếp hoặc gián
tiếp về vấn đề công lý, tôi xin trích lại như sau:
- Cuốn sách: “The Philosophy of Law: A very short introduction” (Triết
học luật pháp) của Raymond Wacks, giáo sư danh dự về Luật và Lý thuyết
pháp luật của Đại học Hồng Kông (bản dịch của Phạm Kiều Tùng, Nhà xuất

3


bản Tri thức, 2011). Tác giả dành toàn bộ chương 4 bàn về Quyền và công lý,
trong đó đưa ra những nét cơ bản về nhận thức về công lý, mối quan hệ giữa
công lý và pháp luật. Ông viết: “Lý tưởng về công lý vừa là một phẩm chất có
tính khoa trương của những hệ thống pháp lý nội địa và còn, trong những
khẳng định về tính phổ biến của nó, mong muốn vượt qua chính luật pháp”.
- Cuốn sách: “Bốn tiểu luận về tự do” của Isaiah Berlin (1909-1997) do
Nguyễn Văn Trọng dịch, Nhà xuất bản Tri thức, năm 2014. Isaiah Berlin là
nhà triết học người Do Thái, là triết gia muốn hướng các nghiên cứu của
mình tới đông đảo độc giả chức không phải chỉ dành riêng cho các nhà
chuyên môn. Ông quan niệm vai trò của triết gia đạo đức học là soi sáng vấn
để để giúp cho công chúng có những phán đoán riêng của họ, chứ không

phải hướng dẫn họ sống thế nào.
- Cuốn sách: “Justice: Whats’s the right thing to do”, hay “Phải trái,
đúng sai” của giáo sư Đại học Harvard Michale J. Sandel (bản dịch Hồ Đắc
Phương, tái bản lần thứ 6, Nhà xuất bản Trẻ, năm 2015). Cuốn sách được
GS.Ngô Bảo Châu nhận xét rằng: “Trang sách chính là cửa sổ mở sang
những cuộc đời khác, những thế giới khác. Và cũng là chỗ để ảnh sáng mặt
trời rọi vào cuộc đời mình”.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số tác phẩm nổi tiếng về công lý và tiếp
cận công lý được xuất bản trong nước như:
- Cuốn sách: “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nhà
xuất bản Sự thật, năm 1962. Đây là cuốn sách gồm tập hợp một số bài viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công lý trong giai đoạn 1921-1926.
- Cuốn sách: “Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của Nhà
triết học Mĩ - John Rawls” của Trần Thảo Nguyên, Nhà xuất bản Thế giới
xuất bản năm 2006. Tác giả tập trung ý nghĩa và khả năng ứng dụng của học
thuyết về công lý của John Rawls tại Việt Nam. Phân tích mệnh đề công lý
như là công bằng của John Rawls, tác giả cho rằng công lý là cái gốc của
công bằng, có ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn công bằng.

4


- Bài viết: “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp
quyền” của Vũ Công Giao, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25, năm
2009. Bài viết phân tích khái niệm và đặc điểm của tiếp cận công lý, nền
tảng của tiếp cận công lý và sự tương thích giữa các nguyên tắc của tiếp cận
công lý với các nguyên tắc của nền pháp quyền tại Việt Nam.
- Cuốn sách: “Quyền con người trong thi hành công lý” của Tòa án
nhân dân tối cao, 545 trang, Nhà xuất bản lao động - xã hội, năm 2010. Cuốn
sách gồm 15 chương, cung cấp những thông tin nhằm giúp người đọc mà

chủ yếu là cán bộ tòa án có kiến thức tương đối toàn diện và sâu sắc về các
quyền cơ bản của con người và việc bảo đảm các quyền này trong quá trình
thực thi công lý.
- Báo cáo: “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng
dựa trên ý kiến của người dân năm 2012” của Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc (tháng 7/2013). Chỉ số công lý giới thiệu một hướng tiếp cận mới
để đánh giá kết quả tiến trình cải cách luật pháp và tư pháp đang diễn ra. Chỉ
số công lý năm 2012 được thực hiện trên 21 tỉnh, thành phố, dựa trên 5 trục
nội dung về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý, bao gồm: Khả năng tiếp
cận, Công bằng, Liêm chính, Tin cậy và hiệu quả, Bảo đảm các quyền cơ
bản. Tuy nhiên, khảo sát mới chỉ đưa ra được ý niệm về công lý của người
dân trên cở sở cảm nhận tâm lý học xã hội.
1.3.Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1.Mục tiêu tổng quát
- Làm rõ thêm lý luận khoa học các quan điểm về công lý và quyền tiếp
cận công lý;
- Đánh giá được tương đối thực trạng về thực hiện quyền tiếp cận công
lý hiện nay ở Việt Nam để từ đó, có thể đề ra một số giải pháp nâng cao tính
hiệu quả của hoạt động này.

5


1.3.2.Mục tiêu cụ thể
- Nêu và phân tích, làm rõ các quan niệm chung về công lý và “quyền
tiếp cận công lý” trên phương diện lịch sử nhà nước và pháp luật; so sánh giữa
quan niệm về công lý với các quan niệm khác thường dùng trong pháp luật.
- Nghiên cứu và tìm hiểu, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kết
quả thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay ở Việt Nam.
1.4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Đối tượng của đề tài:
- Hệ thống lý luận về công lý,“quyền tiếp cận công lý”.
- Thực trạng thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay ở Việt Nam.
- Một số giải pháp nâng cao thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
“Công lý” là mô ̣t khái niê ̣m rô ̣ng lớn , do đó , nô ̣i dung của quyề n tiế p
câ ̣n công lý cũng rấ t rô ̣ng . Tuy nhiên, để phù hợp với quy mô của một Luận
văn Tha ̣c s ĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quyền tiếp cận công lý trong tư
pháp, tức là gắ n chă ̣t với viê ̣c xét xử của Tòa án.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử - cụ thể trong việc tìm hiểu,
nghiên cứu các quan điểm về công lý qua các tài liệu sưu tầm được.
- Đề tài sử dụng phương pháp điều tra xã hội học trong việc đánh giá
thực trạng tiếp cận công lý ở một số nhóm đối tượng trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Nguồn số liệu được sử dụng lấy từ các báo cáo về chỉ số công lý của
UNDP, một số cơ quan tư pháp trên địa bàn Hà Nội và qua khảo sát, điều tra
xã hội học của tác giả.
2.Kết cấu nội dung luận văn: bao gồm 3 chương, 8 tiết.

6


Chương 1
NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG LÝ VÀ
QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
1.1. Khái niệm về Công lý
Khái niệm công lý là khái niệm thu hút được nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như trong
suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Trong khoa học pháp lý, công lý cần được

xem xét trên một số khía cạnh như: lịch sử nhà nước và pháp luật; thực hiện
pháp luật; xây dựng pháp luật... Trong khuôn khổ luận văn này, tôi sẽ trình
bày quan điểm phân loại của mình dựa trên những khía cạnh đó.
1.1.1. Khái niệm về công lý trong lịch sử tư tưởng nhà nước và pháp luật
Theo đó, các phân đoạn phát triển của công lý tương ứng với các giai
đoạn phát triển của xã hội. Luận văn căn cứ vào một số bộ luật tiêu biểu hoặc
quan niệm của một số nhà tư tưởng tiêu biểu cho từng thời kỳ phát triển lịch
sử nhà nước để làm cơ sở cho việc phân tích sự biểu hiện của quan niệm về
công lý trong thời kỳ tương ứng.
1.1.1.1. Thời kỳ cổ đại
Trong thời kỳ này xã hội còn sơ khai, ý niệm về công lý cũng mới bắt
đầu được hình thành gắn với sự ra đời của các nhà nước và pháp luật đầu tiên.
a)

Phương Tây cổ đại

Thật thiếu sót nếu đi tìm hiểu một định nghĩa chỉ ở nơi các nhà tư tưởng
hay các triết gia lỗi lạc, đặc biệt ở giai đoạn này ở phương Tây. Bởi văn
minh phương Tây thời cổ đại gắn liền với hệ thống các truyền thuyết, thần
thoại mà ở đó thể hiện sự kiến giải vũ trụ, con người và những khát vọng của
họ. Do đó, việc đi tìm quan niệm về công lý xuất phát từ các câu truyện với
sự tồn tại của các vị thần theo tín ngưỡng của người dân thời cổ đại lúc bấy
giờ là một điều cần thiết.

7


Sớm nhất, người Ai Cập cổ đại có 2 vị thần đại diện cho công lý, đó là
nữ thần Isis và nữ thần Maats. Nữ thần Isis được cho là vị thần tượng trưng
cho Sự thât, Công bằng, Trật tự, Pháp luật Đạo đức và Công lý trong đời

sống tâm linh của người Ai Cập cổ đại. Và nữ thần Maat được biết đến là
chủ nhân của Phòng phân xử với tính cách thẳng thắn, đánh giá tất cả bằng
sự xem xét tình cảm thận trọng.
Thần thoại Hy Lạp còn lưu giữ đến ngày nay phần lớn thông qua các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, mang tính nhân văn và tư tưởng triết học, giàu
tính duy lý, triết lý. Được cho là sự hòa quyện giữa tư duy cảm tình và tư
duy lý luận, cả hai hòa quyện tạo thành thể thống nhất và tạo nên những tác
phẩm huy hoàng thời cổ đại. Trải qua nhiều biến cố, ngày nay thần thoại Hy
Lạp chỉ còn giới hạn trong quá khứ, văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng
ta không thể phủ nhận được tính giáo dục, triết lý, giá trị sâu sắc và ý tưởng
được thể hiện trong thần thoại Hy Lạp.
Theo truyền thyết, ở thời cổ đại của Hy Lạp, Bầu trời (Uranus) và Mặt
đấy (Gaia) lấy nhau và sinh ra nữ thần Themis, một trong mười hai Titan
(thần) tối cao của đỉnh Olympus. Themis là người làm ra luật định, thiết lập
trật tự và ổn định trên thế gian để đảm bảo công lý. Themis tượng trưng cho
Công lý, là hiện thân của pháp luật và trật tự tự nhiên, khác với luật và trật tự
do con người đặt ra. Themis tham dự các cuộc tranh luận của chư thần, làm
cố vấn cho chư thần trong các dịp đó. Themis thường chủ tọa các cuộc họp
của thường nhân. Những thỏa hiệp kí kết giữa thường nhân đều được sự bảo
trợ của Themis. Sự chính trực, nghiêm minh của bà đã khiến người Hy Lạp
cổ xưa tạc tượng bà tay cầm kiếm, tay cầm cân, mắt bịt một dải băng để
chứng tỏ sự vô tư, không thiên vị của phán quan.
Themis có sáu người con với Zeus, một trong số đó đã kế tục bà trở
thành hiện thân của công lý, đó là nữ thần Dike, thường được gọi là nữ thần

8


của Lẽ phải, Chân lý và Sự thật. Nàng chuyên theo dõi việc tuân thủ quy
định của Zeus dưới trần gian và báo lại cho cha mình biết những trường hợp

vi phạm để Chúa thần giáng sấm sét trừng trị. Nhưng cuộc sống nơi trần thế
mỗi lúc một thêm hỗn loạn, những hạt giống xấu xa từ chiếc hộp Pandora
ngày càng lớn mạnh đến nỗi Dike cai quan không xuể, đành đổi tên thành
Astreae có nghĩa là “tinh cầu” và bay về trời, như một ám chỉ: công lý tuyệt
đối chỉ có thể được tìm thấy ở chân trời xa tắp, nơi người trần không thể nào
vươn tới được.
Khi người La Mã thôn tính Hy Lạp từ thế kỷ II Tr.CN, họ đã xây dựng
nữ thần Công lý của họ, nữ thần Justitia dựa trên hình tượng của nữ thần
Themis và nữ thần Dike. Theo đó, nữ thần Justitia là hiện thân của công lý
trong thần thoại La Mã. Bà là một trinh nữ sống giữa loài người cho đến khi
loài người trở nên hủ bại và tha hóa, buộc bà phải bay lên trời và hóa thân
thành chòm sao Xử nữ (Virgo). Hình tượng nữ thần Justitia thường được
xuất hiện với một vòng nguyện quế trên đầu, ngồi trên ghế, tay cầm một
chiếc gậy dài và một nhành cây. Đôi khi, bà xuất hiện khi một tay cầm thanh
gươm, một tay cầm cuộn giấy giữa hai con sư tử (dinh tổng trấn trong thành
phố Venezia).
Tuy nhiên, không phải ở nơi nào, hình tượng nữ thần tự do cũng xuất
hiện với đôi mắt bị kín. Có nhiều bức tượng và bức tranh vẽ Nữ thần Công lý
không bịt mắt, với lời giải thích rằng, Nữ thần Công lý với quyền năng của
mình, không cần bịt mắt vẫn có thể tránh được sự tác động của các yếu tố
ngoại cảnh và đảm bảo được việc xét xử công bằng, không thiên vị. Điển
hình như tượng thần Themis tại Tòa án tối cao Brisbane, tiểu bang
Queensland, Australia hay thần Themis ở tòa nhà thượng viện Nga.
Qua những hình tượng thần thoại kể trên, chúng ta có thể thấy được, dù
ở các khu vực địa lý, nền văn minh khác nhau nhưng, công lý – ước vọng

9


của con người luôn được thể hiện bởi sự nghiêm minh, khách quan của pháp

luật. Ở đây, công lý dường như tách bạch khỏi công bằng, khi không có sự
xuất hiện của bất kỳ một tầng lớp, hay một giai cấp nào cả. Nó chỉ là quan hệ
giữa cái đúng – sai, cái thiện – ác và pháp luật – sự trừng phạt.
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại, công lý được cho rằng bắt nguồn từ
trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của
công lý và ngược lại, một nền công lý mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật
tự, ổn định. Plato, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, người mà ảnh hưởng của ông
được mô tả một cách tuyệt vời bởi nhà triết học thế kỷ 20 Alfred North
Whitehead: “Nét đặc trưng chung rõ ràng nhất của truyền thống triết học
châu Âu là nó bao gồm một chuỗi những phụ chú cho tác phẩm của Plato”,
đã đưa những quan điểm, tư tưởng của mình về vấn đề công lý trong những
tranh luận về vấn đề đạo đức và pháp luật, đặc biệt trong cuốn Luật pháp, tác
phẩm cuối cùng còn dang dở trước khi ông qua đời.
Trong Quyển IV tác phẩm Luật pháp, khi bàn về cuộc sống đức hạnh,
Platon cho rằng, công lý hay những nguyên tắc tôn giáo cùng những đạo đức
đóng vai trò dẫn dắt cuộc sống của họ:
Này các bạn, Thượng đế, theo truyền thuyết, nắm giữ trong tay
Ngài cái đầu, cái giữa và cái cuối của mọi sự vật, nghĩa là chúng vận
hành theo luật tự nhiên do Ngài xếp đặt trên một đường thẳng cho đến
lúc kết thúc. Công lý luôn đi theo Ngài và sẽ trừng phạt những kẻ không
thực hành đến nơi đến chốn luật của Thượng đế…hắn bị luận phạt vì
công lý không có gì khác hơn là phải thuận nhận mà thôi. [2, tr. 818]
Như vậy, khi nói về pháp luật, Platon nhấn mạnh đến luật tự nhiên, theo
đó, công lý với nghĩa trừng phạt những kẻ vi phạm luật tự nhiên cũng mang
tính tự nhiên. Ngoài ra, sự “thuận nhận” hay “tâm phục khẩu phục” cũng
mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho công lý. Tức là kẻ làm sai cũng nhận thấy cái

10



sai của mình và vui vẻ, chấp thuận mà đồng ý với biện pháp trừng phạt áp
dụng đối với mình. Đấy là sự khác nhau giữa “trừng phạt” theo nghĩa thông
thường và “trừng phạt” của “công lý tự nhiên”. Trừng phạt theo nghĩa thông
thường, có thể hiểu là sự trừng phạt theo quy định của pháp luật, do nhà làm
luật quy định, kẻ làm điều sai có thể không “thuận nhận”.
Tiếp tục dòng tư tưởng này, Pltaon thể hiện một lần nữa trong Quyển V
tác phẩm Luật pháp khi bàn về việc quý trọng linh hồn và những giáo huấn về
một cuộc sống đức hạnh: “Kẻ nhập vào bè xấu phải làm và chịu đựng những
cái mà những kẻ theo bản chất ấy thường nói và làm đối với nhau, cái đau khổ
không phải là công lý nhưng là sự trừng phạt; vì công lý và sự ngay thẳng thì
cao quý, còn trừng phạt là sự đau khổ đi liền với sự bất chính” [2, tr.823]
Trong Quyển X, khi bàn về các tội của những người không tin vào
Thần linh hoặc có những ý tưởng sai lầm về các ngài. Plato thể hiện rõ sự bất
khoan dung của mình đối với những người này. Thái độ này xuất phải bởi
lòng yêu nước của ông, chỉ nhằm chống lại cái mà ông cho rằng sẽ làm tổn
thương nền đạo đức quốc gia. Về việc trừng phạt đối với những loại người
này, Platon nói:
“Mọi vật vốn có linh hồn đã thay đổi và nơi chúng có một nguyên tắc
thay đổi, thay đổi theo luật pháp và vận số: những thay đổi nhỏ về bản chất
dịch chuyển trên mặt đất, nhưng tội nghiêm trọng thì phải xuống địa ngục,
nghĩa là vào chỗ Diêm Vương và những nơi khác của cõi âm, mà nghe tên ai
cũng phải kinh hãi. Và khi hồn thay đổi nhiều, tốt hơn hay xấu đi theo sự
thôi thúc của riêng mình hay chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những hồn khác,
khi nó thông hiệp với đức tính thần linh sẽ trở nên thần linh, nó được đem
vào một nơi khác tốt hơn, vốn cũng linh thiêng và hoàn toàn thánh thiện; còn
nếu hiệp thông với các xấu, nó cũng phải thay đổi vị trí trong cuộc sống. Vì
đó là công lý của các Thần ngự trên trời.

11



Hay tóm lại, “Nếu các người trở nên xấu xa thì sẽ phải vào chốn xấu xa,
còn nếu tốt thì sẽ vào chỗ tốt. Đó là công lý của trời, mà dù các ngươi hay
bất kỳ kẻ bất hạnh nào đó sẽ được vẻ vang khi tránh thoát; và là cái mà
quyền lực ban bố đã đặc biệt ban bố; hãy lưu tâm đến những điều ấy, vì sẽ có
ngày chúng sẽ lưu tâm đến các người”. [2, tr.846]
Ở đây, cũng cùng tư tưởng với các phần trên, Platon cho rằng, công lý
nằm ở chỗ các vị thần. Khi tiếp xúc với tư tưởng này, chúng ta có thể thấy có
điểm giống với tư tưởng của Phật giáo phương Đông về “luật nhân – quả”.
Gieo nhân gì, gặp quả nấy, và cũng tuân theo cái lý tự nhiên, hay công lý tự
nhiên mà thôi.
Còn theo Aristotle, vị triết gia mà ảnh hưởng và uy tín của ông mang
tính quốc tế và vượt lên trên mọi trường phái, thì công lý được chia thành
“công lý cải tạo” - nơi mà toà án với các quyết định của mình nhằm sửa chữa
một lỗi lầm do một bên gây ra đối với bên khác và “công lý phân phối” –
cách thức phân chia thành quả làm ra để công bằng với mỗi người, đúng theo
những gì mà người đó xứng đáng được hưởng. Theo Aristotle, công lý phân
phối chính là mối quan tâm chủ yếu, hàng đầu của các nhà lập pháp. Tuy
nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng luật pháp và công lý là hai khái niệm không
hoàn toàn đồng nhất, thậm chí, trong một số xã hội, luật pháp đôi khi đi
chệch hướng hoặc đối nghịch với công lý.
b) Phương Đông cổ đại
Nền văn minh Lưỡng Hà thời BaBylon cổ đại lại có quan niệm công lý
theo khía cạnh trao đổi, ngang bằng. Điều đó thể hiện rất rõ ở bộ luật
Hammurabi (khoảng năm 1750 tr.cn và hiện là văn bản luật cổ nhất của con
người được bảo tồn khá tốt). Vua là người được các vị thần trao cho trọng
trách giữ gìn công lý trong xã hội. Theo đó, “vì hạnh phúc loài người, thần
Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm, Hammurabi, một vị vua quang minh

12



và ngoan đạo trẫm, phát huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian ác
không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người
yếu”. Công lý được định ra để “đình chỉ phân tranh làm cho đất nước được
hưởng thái bình, nơi ăn chốn ở của nhân dân được che chở, không có gì phải
lo âu sợ hãi”. Công lý được đặt ra “Để cho người mạnh không hà hiếp kẻ
yếu, để cho những người cô quả có chỗ nương tựa ở thành Babilon, nơi mà
vị thủ lĩnh của nó được thần Anu và thần Enlin khen ngợi, ở đền Exajin mà
nền móng của nó lâu bền cùng với trời đất, để cho toà án trong nước tiện
việc xét xử, để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định, để cho
những kẻ bị thiệt thòi được trình bày chính nghĩa”.
Tư tưởng công lý trong bộ luật này được thể hiện rõ sự gắn kết với việc
giải quyết các vụ kiện tụng: “Nếu có được dân tự do nào đi kiện mà bị thiệt
thòi thì đến trước bức tượng của trẫm tức là đến trước bức tượng của vị vua
công bằng đọc cái cột đá mà trẫm khắc chữ, lắng nghe những lời vàng ngọc
của trẫm, để cái cột đá của trẫm làm rõ vụ án cho người đó để người đó đựơc
xét xử một cách công bằng, để cho lòng được nhẹ nhõm”.
Nhưng việc thể hiện cụ thể công lý trong bộ luật Hammurabi lại có
phần cứng nhắc và khắc nghiệt khi công lý gắn liền với sự trừng phạt, nó là
sự trả thù ngang bằng, nghĩa là họ phải nhận lại một sự đau đớn về thể xác
giống hệt như những gì họ làm cho người khác. Một số các điều luật thể hiện
nguyên tắc đó rất rõ:
Điều 196: Nếu dân tự do làm hỏng mắt của con của bất cứ người dân tự
do nào, thì phải làm hỏng mắt của y.
Điều 197: Nếu dân tự do làm gãy xương của dân tự do, thì phải làm gãy
xương của y.
Điều 200: Nếu dân tự do đánh gãy răng của người dân tự do ngang hàng
với mình, thì phải đánh gãy răng của y.


13


Nguyên tắc công lý thể hiện trong bộ luật lại là việc áp dụng hình phạt
ngang bằng, bắt nguồn từ tập quán trả thù nguyên thủy (Talion), “mắt đền
mắt, răng đền răng”, hay “lấy mắt đổi mắt, lấy răng đổi răng”, hay theo kiểu
thường nghe là “mạng đền mạng”, là một nguyên tắc là ất cứ ai làm cho
người khác bị thương vì lý do gì thì cũng phải bị trừng phạt y như vậy. Đây
là sự trả đũa theo pháp luật tùy theo mức độ nặng nhẹ việc làm ai đó bị
thường. Dù cho những quan điểm, tư tưởng của các nhà khoa học thời kỳ
này tiến bộ đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ xuất hiện ở các giai thoại, tác
phẩm khoa học… thì tính đại diện vẫn khó có thể so bằng bộ luật thành văn
như thế này. Như vậy, rõ ràng khi nhắc đến công lý thời kỳ cổ đại, tính chất
đặc trưng là sự báo thù.
1.1.1.2.Thời kỳ trung đại
Augustine, nhà triết học có ảnh hưởng lớn đầu tiên thời trung cổ, cho
rằng công lý cao hơn nhà nước và là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật
pháp. Luật pháp không công bằng thì không phải là luật pháp.
Thomas Aquinas, nhà triết học và thần học Italia trong truyền thống
kinh viện chủ nghĩa, cũng cho rằng trong thực tế những đạo luật nhân định
có thể công bằng hay không công bằng. Công lý là khái niệm cơ sở, có nội
hàm rộng hơn khái niệm luật pháp. Những giá trị của công lý cung cấp
những tiêu chí quan trọng cơ bản để đánh giá, thẩm định các đạo luật thực
định. Một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập với
các quyền tự nhiên. Bất công chính là những hành vi liên quan đến việc vi
phạm các quyền tự nhiên như các tội giết người, hành hung, trộm cắp, bắt
cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian lận hoặc các hành vi gây ảnh hưởng sai lệch nhất
định đến sự phân phối thịnh vượng, thu nhập. Không có cách phân phối cụ
thể nào được coi là công bằng hoặc không công bằng từ sự lựa chọn của các


14


cá nhân. Sự phân phối lợi ích và chi phí chỉ được coi là công bằng nếu người
đó được tự do lựa chọn trao đổi với người khác.
1.1.1.3.Thời kỳ cận đại
Cũng giống như các vấn đề khác của xã hội, trong thời kỳ này đã xuất
hiện rất nhiều những tư tưởng lỗi lạc về công lý, đặc biệt ở các nước phương
Tây, với nhiều trường phái và nhiều tác giả.
Thomas Hobbes (1588-1679) khi bàn về xã ước (thỏa ước xã hội) đã
nói thân phân con người trước khi có xã ước là “đơn độc, nghèo khổ, đáng
tởm, tàn bạo và ngắn ngủi”, nghĩa là trong tình trạng tự nhiên của mình. Ông
khẳng định rằng luật tự nhiên dạy chúng ta sự cần thiết phải tự bảo tồn: luật
pháp và chính quyền là cần thiết nếu chúng ta cần phải bảo vệ trật tự và an
ninh. Với xã ước, vì thế chúng ta phải từ bỏ sự tự do tự nhiên của chúng ta
để tạo ra một xã hội trật tự. Triết lý của Hobbes, vì thế là hơi độc đoán, đặt
trật tự lên trên công lý.
Trong tác phẩm Khế ước xã hội của Jean Jacques Rousseau (1712 –
1778), - một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn
tới Cách mạng Pháp 1789, ông viết:
Mọi công lý đến từ Đức Chúa Trời, và Ngài là nguồn gốc duy nhất
của công lý; nhưng nếu chúng ta biết cách tiếp nhận nguồn công lý cao
siêu như vậy thì chúng ta sẽ chẳng cần đến chính phủ và luật pháp. Hiển
nhiên là phải có một loại công lý có tính phổ cập đến tất cả mọi người, và
từ lý trí mà ra; nhưng muốn được chúng ta chấp nhận, thì công lý này
phải có tính tương hoán giữa người với người. Cứ theo bản tính của con
người mà nói thì luật pháp của công lý thiên nhiên không có hiệu quả với
con người, vì thiếu tính chế tài; chúng chỉ làm lợi cho kẻ xấu và làm hại
người công bằng, vì người công bằng tôn trọng luật pháp với tất cả mọi
người, trong khi kẻ xấu thì lại bất tuân luật lệ. [ 8,tr.75]


15


Quan niệm như vậy đồng nghĩa với việc J.J. Rousseau cho rằng, công lý
là luật cơ bản, là luật tự nhiên của xã hội nhưng phải được ghi nhận, thể hiện
qua các quy định pháp luật. dDây cũng chính là đòi hỏi của ông về tính đảm
bảo công lý của pcháp luật.
1.1.1.4.Thời kỳ hiện đại
Trong xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng tập
trung vào việc làm thế nào để xã hội có thể phân phối một cách công bằng
nhất những gánh nặng và phúc lợi của đời sống xã hội.
Trong tác phẩm xuất bản gần đây tại Việt Nam “ Công lý: Đâu là việc
đúng nên làm?, giáo sư Michael Sandel của Đại học Harvard đã đặt ra rất
nhiều giả thuyết, nhiều trường hợp thực tế và đưa những dòng tư tưởng khác
nhau của các học thuyết để xử lý cho những tình huống đó. Từ đó, ông cho
chúng ta nhiều cách nhìn về việc xác định đâu là công lý. Công lý dựa trên
nguyên tắc của hành động hay công lý dựa trên nguyên tắc của kết quả của
hành động đó, vẫn là nhiều vấn đề gây tranh cãi.
Một trong những quan niệm về công lý giai đoạn này được đưa ra bởi
Raymond Wacks, giáo sư danh dự về Luật và Lý thuyết pháp luật ở trường
Đại học Hồng Kông với chuyên môn về các lĩnh vực lý thuyết pháp luật,
nhân quyền và quyền riêng tư. Ông có một số quan điểm về công lý, được
trình bày trong tác phẩm Triết học luật pháp: “Công lý, trong bất kỳ tình
huống nào, không hề là một khái niệm đơn giản”[18, tr.112], “Công lý giữa
những cá nhân cũng không kém phần khó giải quyết so với sự thách thức của
công bằng xã hội: sự tạo dựng những thể chế xã hội và chính trị để chia phần
chiếc bánh một cách công bằng” [18, tr.115].
Lý thuyết tìm kiếm sự thật (The truth-finding theory), một trong những
học thuyết có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực tố tụng tại các quốc gia có hệ

thống pháp luật phát triển, cũng nhấn mạnh rằng mặc dù các cơ chế tố tụng

16


đều hướng tới việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc nhưng công lý và
sự thật khách quan của vụ việc không hoàn toàn đồng nhất. Công lý là một
điều gì đó rộng lớn và có ý nghĩa sâu sắc hơn so với sự thật. Sự thật khách
quan của vụ việc chỉ là một trong những thành tố cơ bản của công lý. John
Rawls (1921-2002), nhà triết học chính trị hàng đầu và đại biểu nổi tiếng của
chủ nghĩa tự do của Mỹ trong tác phẩm “Một lý thuyết về công lý” (A
Theory of Justice) đã đề cập công lí là cái đặc tính đầu tiên của các thể chế
xã hội, cũng hư chân lý là đặc tính của hệ tư tưởng. Cái đặc tính trước tiên ở
đây lại chính là cái lý tính thực tiễn của I.Kant trong Phê phán lý tính thực
tiễn, là tính thứ nhất, hay nó là cái đức hạnh tinh thần, đức hạnh trí tuệ. Đó là
cái ước muốn tối thượng, là một hình thức hoạt động tinh thần nào đó. Do
vậy, với Rawls, cái thiện trước hết và dứt khoát phải là cái đúng, cũng như
thế cái công lý là đúng, là thiện , là sự hoàn thiện tối cao trong những trật tự
khác nhau của nhận thức, chúng giúp cho mỗi người nhận thấy một cách
chính xác lợi ích riêng của mình trong mọi tình huống, chúng bổ sung cho
nhau, tôn vinh nhau và là điều kiện không thể thiếu được của cuộc sống.
Ông cho rằng, công lý là mẫu mực của cuộc sống, là cái tiên thiên của luật
pháp, nó giúp cho luật pháp giữ gìn sự thanh bình của cuộc sống, nó đảm bảo
sự ổn định và phát triển của kinh tế… Công lý như là cái thế thăng bằng của
xã hội, bản thân nó là ở chính giữa, nếu thái quá nó sẽ là bất công, thiếu sót
nó sẽ làm tổn hại xã hội, công lý còn là bình đẳng, nó có khoảng cách như
nhau giữa lợi ích và sự mất mát hay thua thiệt trong quan hệ xã hội. Coi công
lý như là công bằng – một phẩm hạnh trọn vẹn, một đặc tính của các thể chế
xã hội, Rawls đã theo sát ý tưởng của Kant về Lý tính thực tiễn, mà xa hơn
nữa là ý tưởng của Platon và Aristote về luân lý. Với ý nghĩa này, công lý là

niềm tin của luật pháp, là hạt nhân của đạo đức và là điều kiện tiêu quyết của
xã hội công dân.

17


Ông còn cho rằng, không thể có công lý khi tự do của một nhóm cá
nhân bị hy sinh để đem lại lợi ích cho một tập thể lớn hơn. Công lý không
cho phép vì lợi ích của nhiều người, bắt vài người phải hy sinh. Do vậy trong
một xã hội công bằng thì sự bình đẳng về các quyền công dân và các quyền
tự do đối với tất cả mọi người là không thể thay đổi; những quyền được công
lý bảo đảm thì không thể đem ra mặc cả về chính trị hay những tính toán về
lợi ích xã hội.
Theo Từ điển Luật học (1999), “Công lý có nghĩa là lẽ phải, lẽ công
bằng, phù hợp với pháp luật đương thời, không thiên lệch, không tư vị. Chế
độ nào cũng coi tòa án là tượng trưng cho công lý, là cơ quan công lý của
chế độ ấy”. [26,tr.108,109]
Ở Việt Nam hiện nay, trong lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý
được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách
tư pháp của Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định yêu cầu xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý và quyền con người. Chiến lược cũng xác định rõ
mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh và bảo vệ công lý. Hoạt động tư pháp mà trong đó toà án được xác
định giữ vị trí trung tâm và công tác xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải
được tiếp tục cải cách, nâng cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả
cao. Thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp cần tiếp tục được đổi mới
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Các thủ tục,

quy trình tố tụng cần tiếp tục được rà soát, hoàn thiện nhằm tạo một cơ chế
tiếp cận công lý hữu hiệu, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

18


Như vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp là công
lý trong lĩnh vực tư pháp xét xử. Công lý ở đây được hiểu là yêu cầu xử lý
các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm bảo vệ lợi
ích của xã hội và bảo vệ các quyền con người một cách nghiêm minh. Công
lý trong tư pháp xét xử không chấp nhận hiện tượng còn để xảy ra tình trạng
oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố và xét xử. Công lý trong tư pháp
xét xử cũng đòi hỏi sự đồng thuận cao của xã hội đối với cơ chế tố tụng, cơ
quan tư pháp và các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp. Các giá trị cao
cả của lẽ phải, đạo lý, lương tâm, lương tri, đạo đức, sự vị tha, lòng trắc ẩn
và các giá trị tiến bộ xã hội khác cần phải là điểm tựa, là các chuẩn mực để
soi rọi các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp.
1.1.2. Mối liên hệ giữa công lý với một số khái niệm khác
1.1.2.1. Công lý và công bằng
Công bằng, cũng như công lý, đều là những khái niệm trừu tượng và có
nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau. Nhưng tựu trung lại có hai quan điểm
được nhiều người thừa nhận. Thứ nhất, công bằng theo nghĩa là tất cả các đối
tượng có hoàn cảnh, điều kiện như nhau đều được đối xử như nhau trong
những trường hợp nhất định (Công bằng theo chiều ngang). Hay nói cách
khác, đối tượng có hoàn cảnh, điều kiện khác nhau thì cần phải được đối xử
khác nhau (Công bằng theo chiều dọc). Thứ hai, công bằng là việc cá nhân
được nhận thành quả (phân phối, hưởng thụ) ở mức tương xứng với sự đóng
góp của mình.
Trong từ điển bách khoa Triết học (Liên xô cũ):
Công bằng là khái niệm đạo đức- pháp quyền, đồng thời cũng là

khái niệm chính trị- xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó yêu
cầu về sự phù hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với
địa vị của họ trong đời sống xã hội, giữa những quyền và nghĩa vụ của

19


họ, giữa làm và hưởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và
sự trừng phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phù
hợp trong những quan hệ đó dược đánh giá là sự bất công. [24]
Công lý và công bằng, hai khái niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, và có sự đồng nhất một cách tương đối. Trong tiếng Anh, từ Justice
được hiểu theo cả hai nghĩa công lý và công bằng, tức là giống nhau. Nhưng
liệu trong thực tế, công bằng và công lý có đồng nhất với nhau hoàn toàn
không. Quả thật, đảm bảo thực hiện công bằng, công lý luôn là hai mục tiêu
hàng đầu trong mọi thể chế, đặc biệt trong công tác tư pháp.
Công lý, thông thường gắn liền với hoạt động pháp luật nói chung, còn
công bằng thì rộng hơn, gắn với mọi hoạt động xã hội. Tùy trong từng
trường hợp cụ thể mà nhấn mạnh tới vai trò của khái niệm nào hơn. Trong
quan hệ phân phối sản phẩm, dễ hiểu như việc phát quà từ thiện, các trẻ em
đều được một phần quà như nhau, không ai khác ai. Hay trong trường hợp
phân chia lợi nhuận trong một công ty, việc phân chia số lượng khác nhau
đối với từng thành viên dựa trên công sức đóng góp của họ cũng là vấn đề
công bằng, công bằng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng
thụ. Trong các trường hợp này, trọng tâm là công bằng, rõ ràng không đặt ra
vấn đề công lý ở đây. Nhưng khi xử phạt một hành vi vi phạm quy định công
ty đối với công nhân, vấn đề trọng tâm lại là công lý, việc áp dụng các thủ
tục xử phạt, hình thức kỷ luật... đúng hay sai so với quy định của công ty,
quy định của pháp luật. Vấn đề này cũng đúng trong trường hợp người có
thẩm quyền áp dụng các hoạt động tư pháp khác nhau để giải quyết, xử lý vụ

án cụ thể.
Công lý và công bằng nằm trong một mối quan hệ chặt chẽ, chi phối lẫn
nhau. Trong nhiều trường hợp, yếu tố công bằng là nền tảng cần có để đạt
được công lý. Thỏa thuận hợp đồng giữa A và B khiến hai bên đều có quyền

20


×