Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn, ánh sáng trong thời gian nuôi vỗ đến chất lượng trứng cá dìa siganus guttatus (bloch, 1787)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.76 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

NGÔ VĂN LƯƠNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ, ĐỘ MẶN,
ÁNH SÁNG TRONG THỜI GIAN NUÔI VỖ ĐẾN CHẤT
LƯỢNG TRỨNG CÁ DÌA Siganus guttatus (Bloch, 1787)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHÁNH HÒA - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

NGÔ VĂN LƯƠNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ, ĐỘ MẶN,
ÁNH SÁNG TRONG THỜI GIAN NUÔI VỖ ĐẾN CHẤT
LƯỢNG TRỨNG CÁ DÌA Siganus guttatus (Bloch, 1787)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành:

Nuôi trồng thủy sản

Mã số:

60620301


Quyết định giao đề tài:

1034/QĐ-ĐHNT ngày 07/10/2014

Quyết định thành lập hội đồng:

1044/QĐ-ĐHNT ngày 10/11/2015

Ngày bảo vệ:

24/11/2015

Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ MINH HOÀNG
Chủ tịch Hội đồng:
TS. NGUYỄN TẤN SỸ
Khoa sau đại học

KHÁNH HÒA - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn và ánh
sáng trong thời gian nuôi vỗ đến chất lượng trứng cá dìa Siganus guttatus (Bloch,
1787)” thuộc đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng, yếu tố môi trường và
kích thích sinh sản lên chất lượng trứng của cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787)”
với mã số 106.NN.01-2013.71 do Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
(NAFOSTED) tài trợ từ tháng 3/2014 đến tháng 3/2017 và chủ nhiệm đề tài là TS.
Phạm Quốc Hùng. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung

thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác tính đến thời
điểm này.

Tác giả luận văn

Ngô Văn Lương

iii


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, cho phép tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, Viện
Nuôi trồng Thủy sản, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Nha Trang đã đồng ý cho
tôi thực hiện đề tài này.
Và đặc biệt hơn, tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn của tôi TS. Lê
Minh Hoàng, người đã cho tôi ý tưởng, hướng đi tốt nhất và luôn luôn tận tâm giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Phạm Quốc Hùng, ThS. Phan Văn
Út và ThS. Lê Hoàng Thị Mỹ Dung, những người đã luôn quan tâm và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện cũng như việc hoàn thành luận văn này.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
(NAFOSTED) trong đề tài mã số: 106.NN.01-2013.71. Tôi xin chân thành cám ơn
NAFOSTED đã tài trợ kinh phí để thực hiện đề tài này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, cơ quan, bạn bè đã động viên và
tạo điều kiện tốt cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như tham gia nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Khánh Hòa, ngày 30 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn


Ngô Văn Lương

iv


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... iii
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................iv
MỤC LỤC...................................................................................................................v
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................vii
DANH MỤC CÁC HÌNH.........................................................................................viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.............................................................................ix
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN...........................................................................................x
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN........................................................................................3
1.1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ DÌA ............................................................3
1.1.1. Vị trí phân loại và đặc điểm hình thái..........................................................3
1.1.1.1. Vị trí phân loại .......................................................................................3
1.1.1.2. Đặc điểm hình thái .................................................................................4
1.1.2. Đặc điểm phân bố, sinh thái ........................................................................4
1.1.2.1. Đặc điểm phân bố ..................................................................................4
1.1.2.2. Đặc điểm sinh thái và môi trường sống ..................................................5
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng..................................................................................6
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng..................................................................................7
1.1.5. Đặc điểm sinh sản .......................................................................................8
1.2. Các nghiên cứu về cá dìa trên thế giới và Việt Nam ........................................13
1.2.1. Nghiên cứu về cá dìa trên thế giới.............................................................13
1.2.2. Nghiên cứu về cá dìa ở Việt Nam .............................................................15
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng trứng cá dìa......................................16
1.3.1. Các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến chất lượng trứng cá dìa ....................17

1.3.2. Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến chất lượng trứng cá dìa....................17
1.3.2.1. Nhiệt độ................................................................................................17
1.3.2.2. Ánh sáng ..............................................................................................18
1.3.2.3. Độ mặn ................................................................................................20
1.3.2.4. Thức ăn ................................................................................................22
1.4. Sự phát triển tuyến sinh dục và phôi của cá .....................................................24
v


1.4.1. Sự phát triển tuyến sinh dục của cá xương ................................................24
1.4.1.1. Sự phát triển noãn sào cá xương ..........................................................24
1.4.1.2. Sự phát triển tinh sào cá xương............................................................25
1.4.2. Quá trình phát triển phôi cá xương............................................................26
1.4.3. Sự biến động hệ số thành thục cá xương trong mùa sinh sản .....................27
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................29
2.1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu...................................................29
2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu ......................................................................29
2.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm ........................................................................30
2.3.1. Cá thí nghiệm............................................................................................30
2.3.2. Điều kiện thí nghiệm.................................................................................30
2.3.3. Bố trí thí nghiệm.......................................................................................32
2.3.3.1. Một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt32
2.3.3.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến chất lượng trứng cá dìa.35
2.3.4. Phương pháp xác định các chỉ tiêu ............................................................37
2.3.5. Phương pháp xử lý số liệu.........................................................................40
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.....................................41
3.1. Một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt ..........41
3.1.1. Phát triển của tuyến sinh dục.....................................................................41
3.1.1.1. Phát triển noãn sào ..............................................................................41
3.1.1.2. Sự phát triển tinh sào ...........................................................................43

3.1.2. Hệ số thành thục (GSI) và mùa vụ sinh sản ...............................................45
3.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến các chỉ tiêu sinh sản của cá dìa.47
3.2.1. Ảnh hưởng của ánh sáng đến một số chỉ tiêu sinh sản của cá dìa...............47
3.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến chất lượng trứng cá dìa.................................49
3.2.3. Ảnh hưởng của độ mặn đến sự thành thục của cá dìa ................................50
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .................................................................52
4.1. Kết luận...........................................................................................................52
4.2. Đề xuất............................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................53
PHỤ LỤC.................................................................................................................... a

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của cá dìa .....................................46
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng đến một số chỉ tiêu sinh sản cá dìa .......48
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến thành phần sinh hóa của trứng cá dìa ............49
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ thành thục của cá dìa..............................50
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của độ mặn lên hệ số thành thành thục (%) cá dìa ...................50

vii


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Cá dìa Siganus guttatus................................................................................3
Hình 1.2. Phân bố địa lý của cá dìa trên thế giới (Fishbase.org, ngày truy cập
20/08/2015): màu đỏ là vùng phân bố của cá dìa ....................................4
Hình 1.3. Quá trình phát triển phôi cá dìa ..................................................................11

Hình 1.4. Sự phát triển ấu trùng cá dìa (Siganus guttatus) .........................................12
Hình 2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu.................................................................29
Hình 2.2. Bể xi măng 5 m3 nuôi vỗ cá bố mẹ.............................................................30
Hình 2.3. Hệ thống bể sử dụng trong thí nghiệm .......................................................31
Hình 2.4. Xác định chiều dài toàn thân (TL) cá dìa bố mẹ .........................................32
Hình 3.1 Các giai đoạn phát triển của noãn sào cá dìa ...............................................42
Hình 3.2: Buồng trứng cá dìa chưa thành thục sinh dục .............................................43
Hình 3.3: Buồng trứng cá dìa thành thục sinh dục (giai đoạn IV)...............................43
Hình 3.4. Các giai đoạn phát triển tinh sào cá dìa ......................................................44
Hình 3.5. Hệ số thạnh thục (GSI) của đàn cá bố mẹ (cái = 182, đực = 180) ...............45

viii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AF:

Absolute Fecundity

Sức sinh sản tuyệt đối

BW:

Body Weight

Khối lượng toàn thân

ĐC:
GSI:


Đối chứng
Gonado Somatic Index

NT:

Hệ số thành thục
Nghiệm thức

RF:

Relative Fecundity

Sức sinh sản tương đối

SD:

Standard Deviation

Độ lệch chuẩn

SE:

Standard Error

Sai số chuẩn

TL:

Total Length


Chiều dài toàn thân

ix


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Cá dìa là một nhóm cá biển gồm nhiều loài có giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon
và được nhiều người ưa chuộng. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá dìa đã được thực
hiện nhưng sản lượng con giống tạo ra chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của
người nuôi. Nguyên nhân được cho là thiếu hụt thông tin về tập tính sinh sản của cá
dìa, các điều kiện môi trường nhiệt độ, độ mặn, ánh sáng, thức ăn ảnh hưởng đến quá
trình cho đẻ, chất lượng sản phẩm sinh dục và chất lượng ấu trùng khi ương nhất là
trong điều kiện nuôi nhốt. Chính vì vậy, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ,
độ mặn và ánh sáng trong thời gian nuôi vỗ đến chất lượng trứng và phát triển sinh
dục của cá dìa (Siganus guttatus Bloch, 1787)” được thực hiện nhằm góp phần hoàn
thiện quy trình công nghệ sản xuất giống cá dìa.
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định đặc điểm sinh học sinh sản của cá dìa
và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố môi trường khác nhau trong nuôi cá bố mẹ lên
chất lượng trứng và sự phát triển tuyến sinh dục của cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10/2014 – tháng 10/2015 trên đối tượng cá
dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) tại Nha Trang, Khánh Hòa. Cá dìa được thu mua
từ người dân khai thác tự nhiên có kích thước 0,6 – 1,0 kg/con. Cá được nuôi trong
các bể xi măng có thể tích 5 m3/bể và bể composite 500 L/bể. Cá được cho ăn thức ăn
công nghiệp và rong biển. Nghiên cứu xác định đặc điểm sinh học sinh học sinh sản
được sử dụng các phương pháp nghiên cứu cá thông dụng hiện hành. Ảnh hưởng của
các yếu tố môi trường đến chất lượng trứng cá dìa được nghiên cứu gồm 3 chế độ
chiếu sáng 24/0, 16/8, 8/16 L/D và ĐC ánh sáng tự nhiên; 3 mức nhiệt 26, 29, 32oC và
ĐC tự nhiên; 3 mức độ mặn 25, 30 và 35‰. Thời gian thí nghiệm là 5 – 20 ngày, cá
được nuôi từng cặp. Sau 7 – 10 ngày tiến hành kích thích sinh sản bằng HCG 1.500

IU/kg cá cái, cá đực bằng 50% liều cá cái. Các thông số dùng để đánh giá chất lượng
trứng: đặc tính sinh hóa; các chỉ tiêu sinh học sinh sản gồm hệ số thành thục, tỷ lệ
thành thục, tỷ lệ đẻ, thời gian hiệu ứng thuốc, sức sinh sản tuyệt đối, tương đối và thực
tế, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, thời gian phát triển phôi, kích thước trứng, giọt dầu, cá bột...
Nghiên cứu đã thu thập và phân tích tuyến sinh dục của 360 cá thể (182 con cái
và 178 con đực). Khối lượng cơ thể (BW) của cá cái dao động từ 279 – 920 g/con và
cá đực là từ 308 – 600 g/con, chiều dài toàn thân (TL) ở cá cái dao động từ 235 – 352
x


mm và ở cá đực dao động từ 255 – 321 mm. Nghiên cứu đã xác định và mô tả chi tiết
được 6 giai đoạn phát triển buồng trứng và tinh sào ở cá dìa. Mùa sinh sản chính của
cá dìa được xác định từ tháng 4 đến tháng 7 (GSI: 7 – 9% ở cá cái, 6 – 7% ở cá đực)
và mùa sinh sản thứ hai là vào tháng 10, 11 (GSI: 6 - 7% ở cả hai giới). Hệ số thành
thục thấp nhất vào các tháng 8 và tháng 1, 2 dao động 0,6 – 1,8%. Chế độ chiếu sáng
có ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu sinh sản của cá dìa bố mẹ, đạt được tối ưu ở các chế
độ chiếu sáng 24/0 (tỷ lệ thành thục 46 ± 18%); sức sinh sản đạt được cao nhất ở chế
độ chiếu sáng 16/8 giờ (820.182 ± 106.200 trứng/cá cái và 1.315 ± 177 trứng/g cá cái).
Các chỉ tiêu về chất lượng trứng và ấu trùng ở chế độ chiếu sáng 24/0 cho kết quả tốt
ngược lại 2 chế độ chiếu sáng còn lại (16/8 và 8/16) cá không đẻ. Nhiệt độ nuôi không
ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh hóa của trứng cá dìa (P > 0,05) mặc dù hàm lượng
protein và lipid có khuynh hướng cao hơn ở nghiệm thức 29oC (21,21%) và 32oC
(8,15%). Độ mặn cũng không ảnh hưởng đến tỷ lệ thành thục và hệ số thành thục của
cá dìa, tỷ lệ cá đực thành thục sinh dục đạt 2/3 và cá cái chỉ đạt 1/3 trong các đợt kiểm
tra. Hệ số thành thục dao động từ 2,8 – 7,6%, trung bình 4,6%. Cần có những quan sát
thêm để xác định được ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn và ánh sáng lên một số chỉ tiêu
sinh sản của cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt trong thời gian dài hơn.
Từ khóa: cá dìa, Siganus guttatus, sinh sản, ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn.

Khánh Hòa, ngày 30 tháng 10 năm 2015

NGƯỜI HƯỚNG DẪN

TS. Lê Minh Hoàng

Ngô Văn Lương

xi


MỞ ĐẦU
Cá dìa là đối tượng cá biển thuộc họ Siganidae (Teuthididae) gồm nhiều loài có
giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon và được nhiều người ưa chuộng. Đặc biệt, cá dìa thu
hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nuôi trồng thủy sản và người tiêu dùng
ở nhiều nơi thuộc vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương và Israel. Cá dìa có nhiều ưu điểm
nổi bật như thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, nhu cầu thị trường cao và tiềm năng phát
triển lớn. Mặc dù chủ yếu ăn thực vật nhưng cá dìa vẫn có thể sử dụng được các loại
thức ăn công nghiệp trong điều kiện nuôi nhốt. Nguồn giống cho nuôi thương phẩm có
thể thu gom được từ ngoài tự nhiên, cá dìa cũng có thể được nuôi với nhiều hình thức
đa dạng tương tự như nhiều loài cá biển khác: nuôi trong ao hay lồng, nuôi đơn hay
nuôi ghép (với cá măng). Bên cạnh đó, đối tượng này có tập tính tụ đàn do đó có thể
nuôi được với mật độ cao. Đây cũng là đối tượng có khả năng thích ứng với sự biến
động các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ mặn, ánh sáng) và điều kiện nuôi nhốt. Trong
trường hợp được cung cấp đủ thức ăn (tự nhiên hoặc nhân tạo) và môi trường nuôi
thuận lợi, cá dìa sinh trưởng nhanh và đạt tỷ lệ sống cao. Một số loài cá dìa đã được
sinh sản nhân tạo thành công và phần nào chủ động trong việc cung cấp con giống tuy
nhiên tỷ lệ sống còn khá thấp.
Hiện nay, nguồn cá dìa đáp ứng cho nhu cầu thị trường vẫn hầu hết từ nguồn cá
khai thác từ ngoài tự nhiên dẫn đến nhiều vấn đề đáng quan tâm về bảo vệ nguồn lợi,
bảo tồn và phát triển bền vững. Sản xuất giống và nuôi cá dìa cung cấp cho nhu cầu
thị trường là một hướng đi tích cực. Tuy nhiên, mặc dù nhiều nỗ lực sinh sản nhân tạo

cá dìa được thực hiện ở nhiều nơi trong và ngoài nước nhưng kết quả thu được chưa
nhiều, nguồn giống cung cấp cho thị trường còn thiếu cả về số lượng và yếu về chất
lượng. Nguyên nhân được cho là thiếu hụt thông tin về tập tính sinh sản của cá dìa,
các điều kiện môi trường nhiệt độ, độ mặn, ánh sáng, thức ăn ảnh hưởng đến quá trình
cho đẻ, chất lượng sản phẩm sinh dục và chất lượng ấu trùng khi ương nhất là trong
điều kiện nuôi nhốt.
Các nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá dìa ở nước ta còn rất hạn chế, một số
nghiên cứu mới chỉ đề cập vào phân loại, phân bố và nuôi cá dìa thương phẩm mà
thiếu đi những nghiên cứu sâu về sinh học sinh sản và sản xuất giống loài cá này. Một
1


trong những biện pháp cần thực hiện để góp phần xây dựng quy trình sản xuất giống
cá dìa, cải thiện tỷ lệ sống của ấu trùng là nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện
sinh thái lên sự thành thục sinh dục của cá bố mẹ thông qua đánh giá sâu các chỉ tiêu
về chất lượng trứng, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, tỷ lệ dị hình... Xuất phát từ những vấn đề
trên, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn và ánh sáng trong thời
gian nuôi vỗ đến chất lượng trứng cá dìa (Siganus guttatus Bloch, 1787)” được
thực hiện nhằm góp phần hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống cá dìa.
Nội dung của đề tài:
1. Một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt.
2. Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn và ánh sáng
đến các chỉ tiêu sinh sản của cá dìa.
Mục tiêu của đề tài: Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định đặc điểm
sinh học sinh sản của cá dìa và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố môi trường khác
nhau trong nuôi cá bố mẹ lên chất lượng trứng và sự phát triển tuyến sinh dục của cá
dìa trong điều kiện nuôi nhốt.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Kết quả của đề tài sẽ cung cấp
những cơ sở dữ liệu về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường lên chất lượng trứng cá
dìa. Thành công của đề tài góp phần cung cấp con giống cá dìa có chất lượng cao cho

người nuôi trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa nói riêng và một số nơi có nhu cầu nuôi cá dìa
trên toàn quốc.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ DÌA
1.1.1. Vị trí phân loại và đặc điểm hình thái
1.1.1.1. Vị trí phân loại
Cá dìa là một nhóm cá biển thuộc họ Siganidae (Teuthididae), chúng có hệ thống
phân loại như sau:
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Siganidae
Giống: Siganus
Loài: Siganus guttatus (Bloch, 1787)
Tên tiếng Việt: cá dìa, cá dìa công
Tên tiếng Anh: Golden rabbift fish, Orange-spotted Spinefoot.
Theo Herald (1961), trên thế giới có 30 loài cá dìa được biết đến và nhiều loài
trong số đó là những loài có giá trị kinh tế cao [30].

Hình 1.1. Cá dìa Siganus guttatus

3


1.1.1.2. Đặc điểm hình thái

Cá dìa có hình bầu dục dài và dẹt hai bên. Hai bên đầu có vẩy, đường bên hoàn
toàn. Mỗi bên mõm đều có hai lỗ mũi, miệng bé. Da cá thô nhưng vảy trơn, nhỏ và
nhám. Màu sắc bên ngoài của cá từ màu vàng nhạt đến màu nâu. Vây ngực hình tròn.
Vây bụng ở dưới ngực. Vây đuôi bằng phẳng hoặc hơi chia thuỳ. Cá dìa có 13 tia vây
lưng, 7 tia vây hậu môn và 2 tia vây bụng [24]. Các loài cá dìa có thể phân biệt nhau
bởi các đặc điểm hình thái ngoài bao gồm màu sắc, hình dạng các đốm trên thân cá tuy
nhiên một số loài có sự biến đổi theo môi trường sống do đó gây khó khăn cho việc
phân biệt một số loài bằng mắt thường.
1.1.2. Đặc điểm phân bố, sinh thái
1.1.2.1. Đặc điểm phân bố
Về mặt địa lý, cá dìa phân bố ở vùng nhiệt đới, từ vĩ độ 30o Bắc đến 30o Nam, từ
phía đông Ấn Độ Dương đến tây Thái Bình Dương, bao gồm các nước như quần đảo
Andaman, Australia, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Ryukyus (Nhật Bản),
nam và đông nam Trung Quốc, Đài Loan, Philippines và Palau. Ngoài ra, nhiều loài
trong giống cá dìa phân bố ở vùng biển Địa Trung Hải [33, 42, 45]. Chúng là nguồn
thực phẩm được ưa chuộng của người dân những khu vực này.
Ở Việt Nam cá dìa phân bố ở các vùng ven bờ từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan,
trong đó nhiều nhất tại các vùng biển Quảng Thái (Thừa Thiên Huế), vùng hạ lưu sông
Thu Bồn và các bãi bồi thuộc tỉnh Quảng Nam, vùng hạ lưu sông Hiếu và sông Bến
Hải (Quảng Trị).

Hình 1.2. Phân bố địa lý của cá dìa trên thế giới (Fishbase.org, ngày truy cập
20/08/2015): màu đỏ là vùng phân bố của cá dìa
4


Trong các loài cá dìa nuôi phổ biến, các loài S. canaliculatus, S. guttatus, S.
argenteus được coi là những đối tượng nuôi tốt bởi khả năng thích ứng cao với các yếu
tố môi trường và điều kiện nuôi với mật độ cao [20]. Trong số ba loài này, cá dìa loài
S. guttatus là đối tượng nuôi thích hợp nhất do chúng có thể đạt kích thước trên 1 kg

và sinh trưởng nhanh trong điều kiện nuôi bằng lồng nổi [20].
1.1.2.2. Đặc điểm sinh thái và môi trường sống
Cá dìa thường sống ở vùng cỏ biển hoặc rạn san hô, những nơi có nhiều thức ăn
là rong biển hoặc rêu mọc trên đá. Ấu trùng cá dìa có thể được tìm thấy trong khu vực
rừng ngập mặn, vịnh nước nông hoặc cửa sông [42]. Nhìn chung, trong tự nhiên cá dìa
thường xuất hiện theo bầy đàn lớn trên và xung quanh các thảm cỏ và đáy san hô bằng
phẳng. Chúng cũng có thể được tìm thấy ở các vùng rừng ngập mặn và dìa cảng. Một
số loài như S. guttatus và S. vermiculatus thậm chí có thể xuất hiện tại các vùng cửa
sông, sông hay hồ. Sự xuất hiện của cá dìa còn có liên quan đến chu kỳ trăng được ghi
nhận tại một số vùng thuộc Singapore và Philippines [42].
Khả năng thích ứng với các yếu tố môi trường cá dìa được nghiên cứu trên loài S.
canaliculatus. Lam (1974) nhận thấy, loài cá này có khả năng thích ứng khá tốt với sự
thay đổi của nhiệt độ và độ mặn [42]. Bằng cách hạ độ mặn từ từ, loài cá này có thể
thích ứng với độ mặn nước xuống 5‰. Tương tự, khoảng nhiệt độ chúng có thể thích
ứng được từ 25 lên đến 34oC. Sự thích ứng với độ mặn và nhiệt độ như vậy phản ánh
đúng với sự thay đổi của các yếu tố này ở vùng cá phân bố tự nhiên khi độ mặn và
nhiệt độ trong năm thường dao động lần lượt từ 17 - 37‰ và 23 – 36oC [23]. Nghiên
cứu của Lavina và Alcala (1973) nhận thấy cá dìa có thể chịu đựng được mức độ mặn
thấp tới 14‰ tuy nhiên chúng sẽ chết nếu độ mặn giảm xuống dưới 8‰ [43].
Cá dìa tương đối nhạy cảm với sự thay đổi của oxy hòa tan và pH trong môi
trường nước. Tuy nhiên, khả năng chịu đựng của cá dìa với hai yếu tố này khá tốt, với
mức ngưỡng dưới của hàm lượng oxy hòa tan từ 2 ppm và ngưỡng trên của pH là 9.
Ben-Tuvia và cộng sự (1973) nhận thấy S. rivulatus và S. luridus có thể chịu đựng tốt
với điều kiện vận chuyển mật độ cao, oxy hòa tan thấp do đó có thể vận chuyển với thể
tích nhỏ [11].

5


1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng

Giai đoạn ấu trùng: Ấu trùng cá dìa mới nở có kích thước nhỏ 1,5 – 1,6 mm Ấu
trùng mở miệng 36 giờ sau khi nở, bắt đầu tập ăn vào lúc 60 giờ sau khí nở, noãn
hoàng bị hấp thụ hoàn toàn khi ấu trùng 70 giờ sau khi nở. Trong ba ngày đầu ấu trùng
dinh dưỡng bằng noãn hoàng và giọt dầu, ấu trùng bắt đầu ăn ở 3 ngày sau khi nở ở
nhiệt độ 28 – 30oC.
Ở giai đoạn ấu trùng, cá dìa chủ yếu ăn động vật phù du. Trong sinh sản nhân
tạo, ấu trùng hầu thường sử dụng làm thức ăn đầu tiên cho ấu trùng cá dìa, trong khi
dòng luân trùng nhỏ với kích thước 140 – 200 µm quá lớn so với cỡ miệng của cá
trong 6 ngày đầu. Ấu trùng 25 ngày tuổi có thể ăn được dòng luân trùng lớn cũng như
naupli của Artemia. Trong điều kiện ương nuôi ấu trùng có thể nuôi bằng thức ăn sống
là ấu trùng hầu, luân trùng và naupli Artemia [39].
Giai đoạn con non và trưởng thành: Cũng giống như các loài cá dìa khác, giai
đoạn con non và trưởng thành, cá dìa ăn hoàn toàn thực vật thủy sinh [58]. Chúng ăn
bằng cách rỉa thực vật biển, thường gặm chồi non với đầu hướng xuống vào ban ngày
và buổi tối [27]. Các loại rong biển ưa thích của cá dìa bao gồm Enteromorpha,
Chaetomorpha, Gracilaria, Halophila và Cymodocea. Cá trưởng thành trong điều kiện
nuôi nhốt có thể nuôi bằng thức ăn viên tổng hợp (chứa 42% protein ) [39].
Nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng của cá dìa được đề cập và đều khẳng định cá
dìa cả giai đoạn con non và trưởng thành đều ăn thực vật. Điều này phù hợp với các
đặc điểm hình thái cấu tạo cơ quan tiêu hóa của cá dìa (răng và cơ quan tiêu hóa):
miệng nhỏ; răng trên mỗi hàm thường nhỏ, tù; răng hầu khá phát triển, thành bao tử
dày, ruột rộng, dài, dày vời nhiều nếp gấp [34, 58, 59]. Tuy nhiên, ở giai đoạn ấu
trùng, thức ăn chủ yếu của loài cá này là sinh vật phù du, bao gồm cả thực vật và động
vật phù du [42].
Phân tích về thành phần thức ăn trong dạ dày của loài S. spinus trưởng thành,
John (1968) nhận thấy thành phần thức ăn của loài cá này chủ yếu là tảo đáy như
Padina, Cladophoropsis, Gelidium, Hypnea, Dictyota, Sphacelaria, Ectocarpus và
Jania [37, 38]. Ngoài ra còn 13 loài tảo khác cũng xuất hiện trong dạ dày loài cá này
nhưng chúng không phải là những loài chiếm ưu thế. Nghiên cứu của Tsuda và Bryan
6



(1973) về sự lựa chọn thức ăn của cá dìa con loài S. argenteus và S. spinus ở Guam
cho thấy chỉ 10 trong số 45 loài tảo ở các vùng rạn san hô được ăn bởi hai loài cá dìa
này. Chúng đều ưa thích ăn tảo sợi hơn các loài tảo khác. Trong môi trường có nhiều
giống tảo mà hai loài cá này ưa thích, chúng sẽ ăn hết loài tảo mà ưa thích nhất sau đó
mới chuyển sang loài thứ hai. Thứ tự ưu tiên các loài tảo mà chúng ăn lần lượt là
Enteromorpha, Feldmannia, Derbesia và Cladophoropsis [60].
Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cá dìa không hoàn toàn chỉ là loài
cá ăn thực vật mà chúng có thể sử dụng được một số loại thức ăn khác. Hiatt và
Strasburg (1960) nhận thấy loài S. argenteus có thể sử dụng được thức ăn là thịt cắt
nhỏ [34]. Quan sát của Helfman (1968) cũng cho thấy trong dạ dày của loài S. lineatus
có một lượng lớn các thành phần thức ăn gồm bọt biển và thịt cá nhỏ [31]. Nhiều tác
giả khác cũng bắt gặp một số loại thức ăn ngoài rong tảo trong dạ dày và ống tiêu hóa
của cá dìa bao gồm: Amphipoda, Copepoda [37, 38], bọt biển [23], trùng có lỗ [34, ấu
trùng cá, ấu trùng giáp xác, Ciliate [43]… mặc dù đôi khi chúng có thể ngẫu nhiên lọt
vào hệ thống tiêu hóa của cá dìa.
Trong điều kiện nuôi nhốt, loài S. canaliculatus được ghi nhận là có thể ăn được
tất cả các loại thức ăn được cung cấp như cỏ lươn (Enhalus sp.), bột sắn, cỏ nước ngọt
(Hydrilla sp.), thức ăn viên của gà, cơm, bột thịt tôm cá…. [23]. Hiện tượng này cũng
được quan sát trên loài S. rivulatus với các loại thức ăn như thịt cá hay động vật thân
mềm cắt nhỏ, bột cá, thức ăn viên, rong biển và rau diếp [11, 12]. Do đó, cá dìa cho
thấy tiềm năng lớn có thể thuần hóa để chuyển sang ăn tạp trong điều kiện nuôi nhốt
mặc dù ngoài tự nhiên chúng hầu như chỉ ăn rong tảo. Điều này có ý nghĩa quan trọng
trong nỗ lực sản xuất giống nhân tạo loài cá này trong điều kiện nuôi nhốt [42].
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Các thông tin khoa học về sinh trưởng của cá dìa trong tự nhiên còn khá ít. Loài
cá dìa S. canaliculatus ở Philippines có thể đạt đến kích thước chiều dài 8 cm trong 3
tháng, 10 cm trong 4,5 tháng và 14 cm trong vòng 7 – 8 tháng [43]. Ở Singapore, cá
dìa S. canaliculatus có thể đạt 120 g/con sau 9 – 11 tháng trong khi ở biển Địa Trung

Hải, loài S. rivulatus có thể đạt 150 g/con sau gần 11 - 12 tháng nuôi [12]. Ở Palau, cá
con loài S. lineatus có thể đạt tốc độ sinh trưởng đến 14 mm/tháng ở vùng gần cảng
giàu thức ăn và 3 mm/tháng trong những vùng gần với tự nhiên hơn như rừng ngập
mặn [23].
7


Đối với loài cá dìa S. guttatus, các thử nghiệm trong điều kiện nuôi nhốt cho thấy
chúng có thể đạt chiều dài tối đa 36 – 38 cm với khối lượng tương ứng đạt 0,75 – 1,10
kg/con trong thời gian 320 ngày [61].
1.1.5. Đặc điểm sinh sản
Phân biệt giới tính: Cũng giống như hầu hết các loài cá dìa khác, không có đặc
điểm phân biệt giới tính bên ngoài của cá đực và cá dìa cái một cách rõ ràng. Tuy
nhiên, theo Helfman (1968), cá dìa có thể phân biệt đực cái bằng chiều dài cơ thể.
Theo đó, cá dìa đực thường dài hơn cá dìa cái [31]. Tuy nhiên, điều này không đúng
trên loài S. canaliculatus khi các đo đạc về chiều dài của cá đực và cái không có sự
khác biệt thống kê [42]. Nhìn chung, cá dìa đực và cái rất khó phân biệt nếu chỉ dựa
vào hình thái ngoài. Việc phân biệt đực cái có thể dễ dàng hơn khi chúng thành thục
sinh dục. Vào mùa sinh sản có thể phân biệt cá dìa đực và cái thông qua các dấu hiệu
như: cá thể đực thường nhỏ hơn cá thể cái; phần bụng của cá dìa cái tròn trịa, kích
thước lớn hơn so với cá dìa đực do chứa trứng bên trong; lỗ sinh dục của cá cái rộng
hơn so với cá đực liên quan đến việc đẻ trứng ra ngoài; khi ấn nhẹ tay vào phần bụng
cá cái thấy có trứng chín, màu vàng chảy ra, trên con đực thấy tinh dịch màu trắng
chảy ra; trong môi trường nước, cá cái thường ít bơi lội hơn so với cá đực bởi khối
lượng cá cái nặng hơn cá đực.
Mùa vụ sinh sản: hầu hết các loài cá dìa có mùa vụ sinh sản xác định mặc dù nó
có thể nổi bật ở loài cá này hơn so với loài cá kia. Bằng việc quan sát và thu vớt con
giống cá dìa ngoài tự nhiên, người ta nhận thấy một số loài cá dìa như S. canaliculatus
có thể có hai mùa sinh sản trong năm. Ở Singapore, cá dìa có thể sinh sản làm hai mùa
trong năm là tháng 2 – 5 và tháng 8 – 10. Ở Philippines hai mùa sinh sản thường là

tháng 3 – 4 và tháng 8 – 9 [43]. Các quan sát trên cá dìa cho thấy, loài cá này có thể
sinh sản quanh năm [57]. Các quan sát ở Việt Nam cho thấy, cá dìa con kích thước 1,5
– 2,0 cm thường xuất hiện vào tháng 4 – 5 âm lịch ít nhất tại hai khu vực là phá Tam
Giang – Cầu Hai (Thừa Thiên Huế) và đầm Thị Nại (Bình Định) [6].
Bãi đẻ: các thông tin về bãi đẻ của cá dìa mới chỉ được mô tả sơ lược trên một số
loài. Ở Phillipines, loài S. canaliculatus đẻ trứng trên nền đáy của các vùng nước
nông, đặc biệt là trong hay xung quanh rạn san hô. Ở Palau, loài cá này được cho là đẻ
8


trứng ở vùng viền sóng phía ngoài của các rạn san hô [31, 46] trong khi đó loài S.
lineatus thường đẻ ở gần vùng rừng ngập mặn [23].
Kích cỡ và tuổi thành thục sinh dục: một số nghiên cứu về kích cỡ thành thục của
cá dìa được đề cập trên loài S. canaliculatus và S. lineatus. Theo Manacop (1937),
kích cỡ thành thục của loài S. canaliculatus là 11 – 14 cm với con đực và 13 – 21 cm
với con cái. Quan sát này cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu của Lam (1974) và
Helfman (1968) [31, 42]. Ở loài S. lineatus, Drew (1971) đưa ra kích thước thành thục
nhỏ nhất của cá cái khoảng 22 cm [23]. Tuy nhiên, Helfman (1968) lại bắt gặp một số
cá thể cái đẻ trứng ở kích thước từ 14 cm trở lên [31]. Trong điều kiện nuôi nhốt, cá
dìa đực có thể thành thục ở 10 tháng tuổi với kích thước chiều dài 19 cm, khối lượng
200 g, cá cái thành thục ở 12 tháng tuổi với chiều dài 21,5 cm, khối lượng 260 g [39,
57]. Theo Lê Văn Dân (2006), ở điều kiện tự nhiên vùng đầm phá Thừa Thiên Huế,
kích cỡ thành thục sinh dục ở cá đực là 318 g và con cái là 386 g với con cái [1].
Sức sinh sản: Cá cái khối lượng 400 gam, hệ số thành thục 13,8, sức sinh sản
thực tế 0,8 triệu trứng; cá cái khác 520 gam, hệ số thành thục 12,6, sức sinh sản thực tế
1,2 triệu trứng [57]. Cá cái có hệ số thành thục lớn hơn 7 có thể cho đẻ được. Theo
Manacop (1937), sức sinh sản của cá dìa dao động từ 300.000 - 400.000 trứng tùy
thuộc vào kích thước của cá [44].
Mối quan hệ của một số yếu tố với chu kỳ sinh sản của cá dìa: Hoạt động sinh
sản của cá dìa có liên quan đến chu kỳ trăng được mô tả trên các loài S. guttatus, S.

vermiculatus, S. canaliculatus và S. argenteus [24, 42]. Tuyến sinh dục của cá dìa phát
triển đồng bộ và thành thục đẻ với thời kỳ trăng đặc trưng loài trong mùa vụ sinh sản.
Một số nghiên cho thấy S. spinus và S. canaliculatus sinh sản khớp với thời gian trăng
mới. Cá dìa S. doliatus chỉ đẻ xung quanh thời gian của một phần tư trăng đầu tiên
(sau khi trăng mới 1 tuần) trong mùa vụ sinh sản [52]. Trong khi cá dìa S. guttatus và
S. argenteus đẻ vào thời gian một phần tư trăng đầu và cuối. Tương tự, tập tính này
cũng được mô tả trên các loài. Quan sát hoạt động sinh sản của cá dìa S. canaliculatus
Manacop (1937) nhận thấy hoạt động đẻ trứng xảy ra vào ngày ngày thứ 4 – 7 của chu
kỳ trăng mới ở Philippines nhưng vào ngày thứ 15 – 16 ở các vùng khác [44]. Vào thời
gian đó, cá có tập tính tụ đàn cao tại các vùng triều nông, bằng phẳng; khi nước thủy
9


triều bắt đầu lên hoạt động đẻ trứng bắt đầu sau lúc nửa đêm khi thủy triều bắt đầu
xuống và kéo dài cho đến bình minh. Hoạt động sinh sản của cá dìa có liên quan đến
chu kỳ thủy triều: trong tự nhiên, sự sinh sản của cá dìa có liên quan chặt chẽ với thủy
triều, cá thường đẻ vào ban đêm (từ 23 giờ đến 3 giờ sáng) khi thủy triều xuống ở gần
tầng mặt của vùng nước mở [43, 44].
Hoạt động đẻ trứng: Trong điều kiện nuôi nhốt, McVey (1972) nhận thấy khi
chuyển cá thành thục sinh dục hoàn toàn vào bể, hoạt động đẻ trứng diễn ra ngay sau
đó [46]. Cá cái đẩy nhẹ bụng của cá đực để kích thích cá đực phóng tinh trùng, ngay
sau khi cá đực đáp ứng, cá cái đẻ trứng. Hoạt động khuấy nước của cá bố mẹ đóng vai
trò quan trọng đối với sự thụ tinh của trứng và tinh trùng trong điều kiện nuôi nhốt.
Sinh sản tự nhiên trong điều kiện nuôi nhốt cũng được quan sát bởi Propper và cộng sự
(1973) trên loài S. rivulatus. Khi chuyển cá vào bể 2 m3 nuôi vỗ trong hai tuần, sau khi
thay nước mới, cá đẻ trứng khoảng 10 giờ. Trong thời gian sinh sản, khoảng 4 giờ
trước khi đẻ con đực thường đuổi theo và thúc vào vùng bụng con cái, tiếp tục bơi gần
con cái thỉnh thoảng lại thúc lần lượt vào nắp mang, vùng hậu môn và cuống đuôi cho
tới khi con cái đẻ trứng và con đực phóng tinh cùng lúc sau đó. Khoảng 12% tổng số
trứng trong cơ thể cá dìa cái được đẻ ra trong mỗi lần đẻ tự nhiên [57].

Kích thích sinh sản cá dìa: trong điều kiện nuôi nhốt, Ayson (1989) cho rằng cá
dìa thành thục có thể đẻ khi được tiêm kích dục tố HCG, các thông số về tỷ lệ thụ tinh,
tỷ lệ nở, tổng số trứng và số ấu trùng đẻ ra giống như cá đẻ tự nhiên không sử dụng
kích dục tố. Đồng thời, cá cái cũng có thể đẻ sau hai tháng được tiêm hormone
LHRHa vào cơ thể. Để đảm bảo 100% cá dìa cái đẻ hàng tháng thì cần thiết phải sử
dụng kích dục tố ngoại sinh.
Quan sát chu kỳ sinh sản của loài S. canaliculatus Lam (1974) nhận thấy cá con
xuất hiện trong mùa sinh sản đạt đỉnh vào tháng 3 – 4 [42]. Sau đó, chúng nhanh
chóng phát triển để đạt đến kích thước trưởng thành trước tháng 12, từ đó, tuyến sinh
dục bắt đầu thành thục nhanh chóng, đạt độ thành thục hoàn toàn trước tháng 1 và 2.
Mùa vụ đẻ sẽ bắt đầu từ đó cho đến hết tháng 4. Sau thời gian này, cá đẻ trứng xong
không thấy xuất hiện và có thể chúng đã chết sau khi đẻ trứng. Quan sát này cũng
được mô tả bởi Lavina và Alcala (1973) trên loài S. canaliculatus tại Philippines [43].
Cá dìa có thể thành thục trong điều kiện nuôi nhốt nếu môi trường thuận lợi và thức ăn
10


đầy đủ về cả số lượng và chất lượng [46], đặc biệt trên các loài S. canaliculatus và S.
rivulatus [39, 57]. Các quan sát thêm của Lam (1974) còn cho thấy, loài S.
canaliculatus thành thục nhanh hơn trong điều kiện nuôi nhốt so với ngoài tự nhiên, và
con đực thành thục sớm hơn con cái trong cùng độ tuổi [42]. Tuy nhiên, trong điều
kiện nuôi nhốt stress có thể là nguyên nhân gây thoái hóa trứng. Lam (1974) nhận thấy
những căng thẳng trong quá trình vận chuyển gây ra bởi các tác động cơ học, thay đổi
nhiệt độ hay suy giảm chất lượng nước là nguyên nhân chính làm thoái hóa trứng và cá
bỏ ăn trên loài S. canaliculatus [42, 56]. Các biểu hiện khi cá bị căng thẳng trong nuôi
vỗ được ghi nhận như cá ít vận động, bỏ ăn, chảy sẹ, cá núp trong các góc khuất…
Chính vì vậy, việc tạo ra môi trường và dinh dưỡng thích hợp đồng thời loại bỏ các
yếu tố gây căng thẳng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành thục
của cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt.
Trứng cá dìa S. guttatus thuộc loại trứng dính, hình cầu, có nhiều giọt dầu, chìm

trong nước. Các trứng đã thụ tinh có đường kính từ 0,42 – 0,70 mm và mất khoảng 18
– 35 giờ để nở ở nhiệt độ 22 – 30oC. Thời gian ấp nở trứng cá dìa có sự biến động phụ
thuộc vào nhiệt độ, loài và vùng phân bố. Ấu trùng cá dìa rất nhỏ, xét về kích thước
loài S. fuscescens cho ấu trùng lớn nhất, tiếp theo là loài S. rivulatus và nhỏ nhất là loài
S. canaliculatus. Ấu trùng mới nở của cá dìa có tập tính hướng quang mạnh [56]. Tỷ lệ
sống của ấu trùng cá dìa rất thấp trong suốt quá trình hấp thụ noãn hoàng.
Các giai đoạn phát triển phôi:

Hình 1: Quá trình phát triển phôi cá dìa

Hình 1.3. Quá trình phát triển phôi cá dìa
11


Giai đoạn 8 tế bào (A); giai đoạn 32 tế bào (B); giai đoạn túi phôi (C); giai đoạn lá
phôi (D); giai đoạn bì phôi (E); giai đoạn thân phôi (F); giai đoạn 6 đốt sống (G); giai đoạn
16 đốt sống (H); giai đoạn 24 đốt sống (I) (Kohno và cộng sự, 1986)

Trứng cá dìa khi chín dạng hình cầu, bám dính mạnh, có nhiều giọt dầu hình cầu,
chìm trong nước [42]. Trứng thụ tinh có đường kính 0,56 ± 0,008 mm. Giống như hầu
hết các loài cá dìa khác thời gian phát triển phôi của loài cá dìa phụ thuộc rất vào nhiệt
độ, có thể kéo dài 18 - 20 giờ ở nhiệt độ 26 - 28oC [41]. Theo Kohno và cộng sự
(1986) các giai đoạn phát triển phôi của cá dìa được tóm tắt như sau: giai đoạn 8 tế
bào: 30 phút sau thụ tinh (A); giai đoạn 32 tế bào: sau 70 phút (B); giai đoạn túi phôi:
sau 85 phút (C); giai đoạn lá phôi: sau 2 giờ (D); giai đoạn bì phôi: sau 5 giờ 45 phút
(E); giai đoạn thân phôi: sau 7 giờ (F); giai đoạn 6 đốt sống: sau 7 giờ 40 phút (G); giai
đoạn 16 đốt sống: sau 11 giờ 20 phút (H); giai đoạn 24 đốt sống: sau 13 giờ (I) [41].
Các giai đoạn biến thái ấu trùng cá dìa:
Ấu trùng mới nổi sống trôi nổi chiều dài cơ thể 1,5 – 1,8 mm [41, 57] với ruột
thẳng, mắt không mầu, miệng chưa hình thành. Ấu trùng mang khối noãn hoàng hình

ovan kích thước 0,7 x 0,24 mm và hai giọt dầu [41]. Ở điều kiện nước nuôi với độ mặn
32‰, nhiệt độ 27 – 30oC, noãn hoàng hoàng được sử dụng hoàn toàn sau 3 ngày nở,
còn giọt dầu tiêu biến hoàn toàn 4 ngày sau khi nở.

Hình 1.4. Sự phát triển ấu trùng cá dìa (Siganus guttatus)
A. Ấu trùng mới nở; B. 6 giờ sau khi nở; C. 13 giờ sau khi nở; D. 24 giờ sau khi nở; F. 2
ngày tuổi; G. 8 ngày tuổi; H. 13 ngày tuổi; I. 17 ngày tuổi (Kohno và cộng sự 1986)

12


Theo Kohno và cộng sự (1986), vây lưng và vây bụng xuất hiện khi ấu trùng có
chiều dài toàn thân (TL) 3,39 mm, dây sống cong hoàn tất khi ấu trùng 6,5 mm và
hoàn thiện các vây khi ấu trùng dài 8 mm (TL). Hàm và răng hầu bắt đầu phát triển khi
ấu trùng đạt 4,0 – 8,0 mm và hoàn thiện biến thái ấu trùng khi đạt 8,0 mm (15 - 16
ngày sau khi nở) đồng thời thay đổi tập tính ăn [41].
1.2. Các nghiên cứu về cá dìa trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về cá dìa trên thế giới
Những nỗ lực trong sinh sản nhân tạo loài cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt đầu
tiên được ghi nhận bởi Manacop (1937) trên loài S. canaliculatus và Fujita và Ueno
(1954) trên loài S. fuscescens [44].
Cá dìa có thể sinh sản thành công trong điều kiện nuôi nhốt bằng phương pháp
kích thích sinh sản tự nhiên hay nhân tạo. Kích thích sinh sản bằng hormone được áp
dụng thành công trên loài S. guttatus và S. canaliculatus bằng tiêm HCG [39, 42, 56].
Sự đáp ứng của cá dìa S. guttatus với hormone HCG có sự phụ thuộc lớn vào giai
đoạn phát triển của noãn bào. Các phân tích mô học cho thấy chỉ những cá thể cái có
trứng đường kính trên 0,47 mm và nhân di chuyển về cực động vật thì không cần tiêm
hormone [39]. Thụ tinh nhân tạo bằng cách vuốt tinh và trứng cũng được thực hiện
thành công trên hai loài S. canaliculatus và S. rivulatus [44].
Kể từ Hội thảo nuôi cá dìa tại Hawaii, nhiều nỗ lực đã được thực hiện trong quá

trình sinh sản và ương ấu trùng đến giai đoạn biến thái nhưng chỉ rất ít trong số đó đạt
được thành công. Trong hầu hết các nghiên cứu, ấu trùng chết trong những giai đoạn
đầu của quá trình biến thái [18, 56, 61]. Trong các nghiên cứu khác, tỷ lệ sống đến
giai đoạn biến thái thường thấp hơn 1%. Tỷ lệ sống 9% được ghi nhận một lần trên
loài S. vermiculatus và 16% trên loài S. lineatus. Đây là những báo cáo đầu tiên cho
đẻ và ương thành công cá dìa S. guttatus đến giai đoạn hoàn tất biến thái.
Cá dìa là một đối tượng nuôi thủy sản chủ yếu đối với một số nước thuộc khu
vực Thái Bình Dương [42] và một vài loài thuộc giống cá dìa được nuôi theo hình
thức truyền thống ở Philippines nhưng việc nuôi thương mại loài này vẫn chưa được
hình thành. Năm 1985, Juario và cộng sự nghiên cứu cho đẻ và ương nuôi ấu trùng cá
dìa ở Trung tâm Phát triển nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), Indonesia nhưng tỷ lệ
13


sống rất thấp và chưa thể xây dựng qui trình sản xuất giống loài cá này. Đến năm
2006, Komatsu và cộng sự (2006) nghiên cứu quá trình thành thục của cá dìa và cho
thấy rằng hormone GnTHa có tác dụng tốt trong việc thúc đẩy quá trình sinh tinh ở cá
dìa đực. Gần đây hơn, Rachmansyah và cộng sự (2007) báo cáo đã ương nuôi ấu trùng
được ấu trùng cá dìa ở Indonesia trong năm 2007 nhưng tỷ lệ sống của quá trình ương
nuôi vẫn còn thấp, nhỏ hơn 2% khi ương đến 35 ngày tuổi [53].
Đến nay một số lượng khá lớn các loài cá biển đã được nghiên cứu sản xuất
giống nhân tạo thành công. Tuy nhiên, so với tiềm năng mặt nước có thể phát triển
nuôi cá biển của các nước, sản lượng và giá trị cá biển nuôi trên thế giới hiện nay chỉ
chiếm một tỉ lệ không lớn trong tổng sản lượng nuôi thủy sản. Nhiều loài cá biển có
giá trị kinh tế vẫn đang được nuôi với nguồn giống khai thác tự nhiên hoặc đang trong
quá trình nghiên cứu sản xuất giống.
Cá dìa có thể thành thục trong điều kiện nuôi nhốt nếu điều kiện môi trường
thuận lợi và được cung cấp thức ăn đầy đủ và chất lượng [39, 57]. Solechnik (1984)
quan sát thấy sự thành thục lần đầu của cá dìa S. guttatus cái nuôi nhốt ở cỡ 34 cm,
200 g/con. Juario và cộng sự (1985) cho thấy trong điều kiện nuôi nhốt, cá dìa đực có

thể thành thục ở 10 tháng tuổi với kích thước chiều dài 19 cm, con cái thành thục ở 12
tháng tuổi với chiều dài 21,5 cm [39, 57].
Trong điều kiện nhân tạo, cá dìa thường được kích thích sinh sản bằng liệu pháp
hormone. Những con có noãn bào đạt cỡ ≥0,46 mm sẽ đẻ sai khi tiêm hormone với
liều 2000 IU HCG/kg cá; những con có noãn bào ≤0,43 mm không đẻ hoặc chỉ đẻ sau
vài lần tiêm [39]. Trứng cá dìa S. guttatus thuộc loại trứng dính, có nhiều giọt dầu,
chìm trong nước. Các trứng đã thụ tinh có đường kính từ 0,42 – 0,70 mm và mất
khoảng 18 – 35 giờ để nở ở 22 – 30oC.
Những nỗ lực nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá dìa trong điều kiện nuôi nhốt đã
được tiến hành từ lâu [44], nhất là sau khi có hội nghị về nuôi cá dìa tại Hawaii năm
1972. Tuy nhiên, kết quả ương nuôi từ giai đoạn ấu trùng đến kết thúc quá trình biến
thái không được thành công lắm. Ở hấu hết các nghiên cứu, ấu trùng cá dìa chết ở giai
đoạn đầu [18, 56, 61] hoặc nếu được thì tỷ lệ sống rất thấp, chưa đến 1%. Trong các
năm từ 1981 đến 1983, Juario và cộng sự đã nâng được tỷ lệ sống khi ương nuôi ấu
trùng cá dìa đến hết giai đoạn biến thái lên từ 1,9% đến 12,8% nhưng kết quả không
14


×