1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, chè đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản đem lại
kim ngạch xuất khẩu chính của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu chè năm 2011
đạt gần 200 triệu đô la Mỹ. Trong các nước xuất khẩu chè trên thế giới Việt
Nam đã vươn lên đứng hàng thứ năm. Cây chè đã tạo công ăn việc làm cho
khoảng 400.000 hộ sản xuất của 35 tỉnh trong cả nước. Mặc dù sản lượng
xuất khẩu chè của Việt Nam đã đạt đến mức cao nhưng lại đang vấp phải
những vấn đề nan giải như nghèo nàn về chủng loại, chất lượng chè còn thấp,
lạm dụng chất kích thích tăng trưởng, dư lượng thuốc trừ sâu của một số nhà
sản xuất chè vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Theo hiệp hội chè Việt Nam
(Vitas), hiện 95% khối lượng chè nước ta được xuất khẩu dưới dạng nguyên
liệu thô, chỉ có 5% được xuất khẩu dưới dạng thành phẩm. Chênh lệch giữa
giá bán thành phẩm và nguyên liệu gấp 5-10 lần. Một số khách hàng tại Anh,
mua chè nguyên liệu từ Việt Nam chỉ với giá 1,3 USD/kg, nhưng khi chế biến
thành phẩm, họ bán với giá 9,8 USD/kg. Nguyên nhân chính dẫn đến chất
lượng chè của Việt Nam còn thấp là do có quá nhiều nhà máy chế biến chè
được cấp phép, dẫn đến tình trạng có những vùng nguyên liệu chỉ đủ cung cấp
cho 1 nhà máy, nhưng có tới 7-8 nhà máy tranh mua nguyên liệu, gây lãng phí
tiền của nhân dân, đồng thời tạo ra nhiều vấn đề cạnh tranh không lành mạnh,
cả nước hiện có 690 nhà máy chế biến chè, chưa kể hàng vạn lò thủ công chế
biến chè. Trong khi với diện tích trồng chè 131 nghìn ha như hiện nay, thì
theo tính toán của Hiệp hội chè Việt Nam, chúng ta chỉ cần khoảng 200 nhà
máy chế biến. Các nhà máy thiếu nguyên liệu nên dẫn đến cảnh phải “vơ bèo
vạt tép” để sản xuất.
Ngoài ra, cũng phải đề cập đến quy trình canh tác chè còn có nhiều bất
cập. Từ năm 2006 đến nay, Hiệp hội chè Việt Nam đã rất quyết liệt trong vấn
2
đề này, yêu cầu nông dân, các doanh nghiệp phải tuân thủ quy trình canh tác
chè, không lạm dụng thuốc kích thích để chè tăng trưởng nhanh, ảnh hưởng
đến chất lượng chè. Các chương trình an toàn chè dù được đặt ra vẫn rất nan
giải trong thực hiện. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải có thêm những
nghiên cứu thực tiễn về sử dụng các yếu tố đầu vào của cây chè để giúp các
hộ nông dân vừa nâng cao năng suất, sản lượng chè, vừa nâng cao được chất
lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh mặt hàng này, từ đó sẽ nâng cao tính
cạnh tranh, kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi trung du, có tổng diện tích 3.562,82
km², diện tích đất đồi chiếm 34,1% diện tích tự nhiên, chủ yếu hình thành trên
cát kết, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen
giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương...
có từ độ cao 150 m đến 200 m, nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là
khoảng 25 °C. Với những đặc tính, đặc điểm về khí hậu và thổ nhưỡng như
vậy, Thái Nguyên được xem là nơi phù hợp để phát triển cây công nghiệp và
cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây chè. Do đó, từ nhiều năm trở lại đây tỉnh
đã quy hoạch, phân vùng chuyên canh cây chè.
Để có thể trồng chè đạt hiệu quả kinh tế cao thì việc nghiên cứu tác
động của các yếu tố đầu vào, trang bị kiến thức nông nghiệp cho hộ nông dân,
cung cấp vốn đầu tư cho cây chè là rất quan trọng. Trong những năm qua, đã
có một số tác giả nghiên cứu về cây chè tại Thái Nguyên như nghiên cứu về
chuỗi giá trị cây chè tỉnh Thái Nguyên, biện pháp phát triển sản xuất chè,
nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, biện pháp hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường
khuyến nông, hỗ trợ vay vốn cho hộ nông dân trồng chè. Tuy nhiên, trong
các đề tài nghiên cứu về cây chè trước đây, chưa có đề tài nào nghiên cứu
về ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến hiệu quả kinh tế cây chè một
tỉnh, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nói riêng và tỉnh Thái
Nguyên nói chung.
3
Chè là một mặt hàng khá nhạy cảm trên thị trường, giá cả dễ biến động.
Bên cạnh đó, những năm gần đây giá cả đầu vào tăng mạnh, nhất là giá phân
bón và nhân công. Như vậy, việc tính toán đầu tư sản xuất chè bền vững và
hiệu quả trong mỗi hộ gia đình là vấn đề được ưu tiên hàng đầu.
Với mục đích và ý nghĩa như đã trình bày ở trên, trên cơ sở kế thừa và
phát triển các nghiên cứu trước, tác giả chọn đề tài “Ảnh hưởng của các yếu
tố đầu vào đến hiệu quả kinh tế cây chè trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất - kinh doanh chè nhằm đưa ra
những khuyến nghị cho người trồng chè có sự lựa chọn đúng đắn phương
hướng sản xuất - kinh doanh chè đạt hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, đề tài
nhằm đưa ra những cơ sở khoa học đóng góp vào việc hoạch định các
chính sách và chiến lược phát triển cây chè đảm bảo phát huy tối đa các lợi
thế của vùng trong sản xuất, chế biến chè hàng hóa phục vụ cho việc xây
dựng và phát triển thương hiệu chè Thái Nguyên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế sản
xuất - kinh doanh chè.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất - kinh doanh chè trên địa
bàn Thành phố Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
- kinh doanh chè tại Thành phố Thái Nguyên
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ nông dân có sản xuất
chè- kinh doanh chè trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện tại Thành phố
Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi về thời gian: Số liệu sử dụng trong đề tài được tính từ năm
2007 - 2011 và số liệu điều tra tháng 12/2012.
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh chè của các hộ trên địa bàn nghiên cứu, từ đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất - kinh doanh chè của
Thành phố.
4. Ý nghĩa khoa học của Luận văn
Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu, phân tích, so sánh hiệu quả kinh tế
sản xuất - kinh doanh chè của chè tại 5 xã Tân Cương, Phúc Trìu, Phúc
Xuân, Phúc Hà và Quyết Thắng thuộc địa bàn thành Thái Nguyên, từ đó giúp
người dân trồng chè không chỉ trên địa bàn thành phố mà ở các huyện, các
địa phương khác trên địa bàn tỉnh có định hướng phát triển sản xuất - kinh
doanh chè đạt hiệu quả cao, góp phần bảo vệ và phát triển thương hiệu
chè Thái Nguyên, không ngừng nâng cao mức sống của người trồng chè.
5. Bố cục Luận văn
Bố cục của Luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chè trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên
Kết luận và kiến nghị
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực, thực phẩm, thức ăn gia
súc, tơ, sợi và sản phẩm mong muốn khác bởi trổng trọt những cây trồng
chính và chăn nuôi gia súc, gia cầm… (Wikipedia, 2008). Nông nghiệp là một
ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là trong
các thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển và nông nghiệp chiếm tỉ
trọng cao trong nền kinh tế. Hoạt động nông nghiệp không những gắn liền với
các yếu tố kinh tế, xã hội, mà còn gắn với các yếu tố tự nhiên. Nông nghiệp là
tập hợp các phân ngành như trồng trọt, chế nuôi, chế biến nông sản và công
nghệ sau thu hoạch…
Trong nông nghiệp có hai loại chính: thứ nhất, đó là nông nghiệp thuần
nông tức là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có đầu vào hạn chế, không có sự cơ
giới hóa trong sản xuất, sản phẩm đầu ra phục vụ cho chính gia đình của mỗi
người nông dân; thứ hai, nông nghiệp chuyên sâu là lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp được chuyên môn hóa trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp,
gồm cả việc sử dụng máy móc trong trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá
trình chế biến sản phẩm nông nghiệp. Sản phẩm đầu ra dùng chủ yếu vào mục
đích thương mại, làm hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu. Ngày
nay, nông nghiệp hiện đại vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống, nó
không những tạo ra sản phẩm lương thực, thực phẩm phục vụ cho con người
mà còn tạo ra các loại khác như: sợi dệt, chất đốt, cây cảnh, sinh vật cảnh,
chất hóa học, lai tạo giống…
6
1.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội. Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành sản xuất
khác không thể có đó là:
1- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp,
phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc biệt trên
cho thấy ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp.
Thế nhưng ở mỗi vùng mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết - khí hậu
rất khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng
các loại đất ở các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động
nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng
mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng v.v... trên từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với
điều kiện hình thành và sử dụng đất. Do điều kiện đất đai khí hậu không
giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông nghiệp mang tính khu vực rất rõ
nét. Đặc điểm này đòi hỏi quá trình tổ chức chỉ đạo sản xuất nông nghiệp cần
phải chú ý các vấn đề kinh tế - kỹ thuật sau đây:
- Tiến hành điều tra các nguồn tài nguyên về nông - lâm - thuỷ sản trên
phạm vi cả nước cũng như tính vùng để quy hoạch bố trí sản xuất các cây
trồng, vật nuôi cho phù hợp.
- Việc xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật
phải phù hợp với đặc điểm và yêu cầu sản xuất nông nghiệp ở từng vùng.
- Hệ thống các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện từng vùng, từng
khu vực nhất định.
2- Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể
thay thế được. Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất,
nhưng nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong công nghiệp, giao
thông v.v... đất đai là cơ sở làm nền móng, trên đó xây dựng các nhà máy,
7
công xưởng, hệ thống đường giao thông v.v... để con người điều khiến các
máy móc, các phương tiện vận tải hoạt động.
Trong nông nghiệp, đất đai có nội dung kinh tế khác, nó là tư liệu sản
xuất chủ yếu không thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích,
con người không thể tăng thê, theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất
ruống đất là chưa có giới hạn, nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu
của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của loài người về nông sản
phẩm. Chính vì thế trong quá trình sử dụng phải biết quí trọng ruộng đất, sử
dụng tiết kiệm, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản,
tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng
màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí
thấp nhất trên đơn vị sản phẩm.
3- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống - cây trồng và vật
nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất
định (sinh trưởng, phát triển và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố
ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực
tiếp đến phát triển và diệt vọng. Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh,
mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự
phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng.
Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất
trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở
chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Để
chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên
chọn lọc, bồi dục các giống hiện có, nhập nội những giống tốt, tiến hành lai
tạo để tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp với
điều kiện từng vùng và từng địa phương.
4- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển
hình nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt, sản xuất nông nghiệp là
8
quá trình tái sản xuất kinh tế xoắn xuýt với quá trình tái sản xuất tự nhiên,
thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không
hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Tính
thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được, trong quá trình
sản xuất chỉ tìm cách hạn chế nó. Mặt khác do sự biến thiên về điều kiện thời
tiết – khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với điều kiện đó,
dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây
trồng - loại cây xanh có vai trò cực kỳ to lớn là sinh vật có khả năng hấp thu
và tàng trữ nguồn năng lượng mặt trời để biến từ chất vô cơ thành chất hữu
cơ, tạo nguồn thức ăn cơ bản cho con người và vật nuôi. Như vậy, tính thời vụ
có tác động rất quan trọng đối với nông dân. Tạo hoá đã cung cấp nhiều yếu
tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp, như: ánh sáng, ôn độ, độ ẩm, lượng
mưa, không khí. Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi
dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nông sản với chi phí thấp chất lượng.
Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông
nghiệp đòi hỏi phải thực hiện nghiêm khắc những khâu công việc ở thời vụ
tốt nhất như thời vụ gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới tiêu v.v... Việc thực
hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải
có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư - kỹ thuật kịp thời,
trang bị công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây
trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời
kỳ nồng nhàn.
Ngoài những đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp nêu trên, nông
nghiệp nước ta còn có những đặc điểm riêng cần chú ý đó là:
a- Nông nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu, tiến lên xây dựng nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo định hướng XHCN không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cho thấy xuất phát điểm của nền
nông nghiệp nước ta khi chuyển lên xây dựng, phát triển nền nông nghiệp sản
9
xuất hàng hoá là rất thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay
nhiều nước có nền kinh tế phát triển, nông nghiệp đã đạt trình độ sản xuất
hàng hoá cao, nhiều khâu công việc được thực hiện bằng máy móc, một số
loại cây con chủ yếu được thực hiện cơ giới hoá tổng hợp hoặc tự động hoá.
Năng suất ruộng đất và năng suất lao động đạt trình độ cao, tạo ra sự phân
công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tỷ
lệ dân số và lao động nông nghiệp giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Đời
sống người dân nông nghiệp và nông thôn được nâng cao ngày càng xích gần
với thành thị. Trong khi đó, nông nghiệp nước ta với điểm xuất phát còn rất
thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu kém,
lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội, năng
suất ruộng đất và năng suất lao động còn thấp v.v... Từ khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, khẳng định phát triển nền nông nghiệp nhiều thành phần và
hộ nông dân được xác định là đơn vị tự chủ, nông nghiệp nước ta đã có bước
phát triển và đạt được những thành tựu to lớn, nhất là về sản lượng lương
thực. Sản xuất lương thực chẳng những trang trải được nhu cầu trong nước,
có dự trữ mà còn dư thừa để xuất khẩu. Bên cạnh đó một số sản phẩm khác
cũng phát triển khá, như chè, cao su, chè, hạt điều v.v... đã và đang là nguồn
xuất khẩu quan trọng. Nông nghiệp nước ta đang chuyển từ tự cung, tự cấp
sang sản xuất hàng hoá. Nhiều vùng của đất nước đang chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm nông
nghiệp tăng sản phẩm phi nông nghiệp.
Để đưa nền kinh tế nông nghiệp nước ta phát triển trình độ sản xuất hàng
hoá cao, cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện chiến lược phát triển nông
nghiệp và nông thôn. Khẩn trương xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
nông nghiệp và hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn phù hợp. Bổ sung, hoàn
thiện và đổi mới hệ thống chính sách kinh tế nông nghiệp, nhằm tiếp tục giải
phóng sức sản xuất, tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển hàng hoá. Tăng
10
cường đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh cho nông nghiệp và nông thôn.
b- Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới, có pha trộn
tính chất ôn đới, nhất là ở miền Bắc và được trải rộng trên 4 vùng rộng lớn,
phức tạp: trung du, miền núi, đồng bằng và ven biển. Đặc điểm này đem lại
cho nông nghiệp nhiều thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng có những khó khăn
rất lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp.
Thời tiết, khí hậu của nước ta có những thuận lợi rất cơ bản. Đó là hàng
năm có lượng mưa bình quân tương đối lớn, đảm bảo nguồn nước ngọt rất
phong phú cho sản xuất và đời sống, có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào
(cường độ, ánh sáng, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23 0C v.v...), tập đoàn
cây trồng và vật nuôi phong phú, đa dạng. Nhờ những thuận lợi cơ bản đó mà
ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm, với nhiều cây trồng và vật nuôi
phong phú, có giá trị kinh tế cao, như cây công nghiệp lâu năm, cây công
nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện thời tiết - khí hậu nước ta
cũng có nhiều khó khăn lớn, như: mưa nhiều và lượng mưa thường tập trung
vào ba tháng trong năm gây lũ lụt, ngập úng. Nắn nhiều thường gây nền khô
hạn, có nhiều vùng thiếu cả nước cho người, vật nuôi sử dụng. Khí hạy ẩm
ướt, sâu bệnh, dịch bệnh dễ phát sinh và lây lan gây ra những tổn thất lớn đối
với mùa màng.
Trong quá trình đưa nông nghiệp nước ta lên sản xuất hàng hoá, chúng ta
tìm kiếm mọi cách để phát huy những thuận lợi cơ bản nêu trên và hạn
chế những khó khăn do điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên gây ra, đảm
bảo cho nông nghiệp phát triển nhanh chóng và vững chắc (Giáo trình
kinh tế nông nghiệp).
1.2. Các lý thuyết liên quan
11
1.2.1. Lý thuyết năng suất theo quy mô
Theo lý thuyết năng suất theo quy mô (Robert S.Pindyck và Daniel
L.Rubinfeld, 1999, trích từ Võ Thị Thanh Hương, 2007), việc đo lường sản
lượng gia tăng tương ứng với sự gia tăng của tất cả các yếu tố đầu vào là vấn
đề cốt lõi để tìm ra bản chất của quá trình sản xuất trong dài hạn. Năng suất
tăng dần theo quy mô khi sản lượng tăng hơn hai lần trong khi các yếu tố đầu
vào tăng gấp đôi (Lê Bảo Lâm và cộng sự, 1999). Đối với các xí nghiệp có
chi phí trung bình dài hạn là cố định cho dù sản lượng tăng, khi đó năng suất
không đổi theo quy mô (David Begg và cộng sự, 1995). Hay nói cách khác, khi
tăng gấp đôi số lượng yếu tố sản xuất được sử dụng thì sản lượng cũng tăng gấp
đôi tương ứng, năng suất không đổi theo quy mô (Lê Bảo Lâm và cộng sự,
1999). Đối với các xí nghiệp có chi phí trung bình dài hạn tăng theo đà sản
lượng tăng (David Begg và cộng sự, 1995), hay tỉ lệ tăng của sản lượng nhỏ hơn
tỉ lệ tăng của các yếu tố sản xuất, khi đó năng suất giảm theo quy mô.
1.2.2. Lý thuyết về tăng trưởng và phát triển nông nghiệp
1.2.2.1. Mô hình Ricardo
Ricardo cho rằng giới hạn của đất làm cho lợi nhuận của người sản xuất
có xu hướng giảm và giới hạn của đất làm cho năng suất lao động nông
nghiệp thấp (David Ricardo, 1823, trích từ Đinh Phi Hổ, 2006). Mô hình cho
thấy nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế là tài nguyên đất nông nghiệp; lợi
nhuận của người sản xuất là nguồn gốc của tích lũy vốn đầu tư và là yếu tố
quyết định mở rộng sản xuất.
1.2.2.2. Mô hình Harrod-Domar
Harrod-Domar cho rằng nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn
sản xuất tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc gia (Roy HarrodEvsey Domar, 1940, trích từ Đinh Phi Hổ và cộng sự, 2006).
12
Harrod-Domar đã chỉ ra rằng vốn đầu tư có nguồn gốc từ tiết kiệm.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là đối với các hộ trồng chè tại Thái
Nguyên, để có vốn mua phân bón, thuốc trừ sâu, thuê lao động chăm sóc chè,
họ đã dùng vốn tích lũy trong kinh doanh để trang trải, đối với những hộ
không có vốn đầu tư, họ sử dụng vốn vay từ định chế chính thức và phi
chính thức.
1.2.2.3. Mô hình Kaldor
Kaldor cho rằng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc
trình độ công nghệ (Kaldor, trích từ Đinh Phi Hổ và cộng sự, 2006). Mô hình
Kaldor cho thấy trong nông nghiệp, nhất là những nước đang phát triển, cần
chú ý phát triển kỹ thuật, đưa phương tiện cơ giới hóa vào canh tác để tăng
năng suất, hiệu quả kinh tế.
Đối với Việt Nam hiện nay, lợi thế giá rẻ về nhân công đang mất dần
do tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ tăng năng suất (Nguyễn Hoàng
Bảo, 2006). Trong ngành chè, nhất là ngành chè của tỉnh Thái Nguyên, nếu
cứ tiếp tục sử dụng lao động phổ thông, không ứng dụng kỹ thuật mới vào
canh tác, ít đưa phương tiện cơ giới vào sản xuất và chế biến chè thì rất khó
để tăng năng suất, hiệu quả kinh tế ngành hàng này.
1.2.2.4. Mô hình Sung Sang Park
Park cho rằng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào quá trình tích lũy
vốn sản xuất và quá trình tích lũy trình độ công nghệ. Tích lũy vốn sản xuất
được thực hiện một cách liên tục nhờ vào hoạt động đầu tư, trong khi tích lũy
công nghệ phụ thuộc vào đầu tư phát triển con người (Sung Sang Park, 1992,
trích từ Đinh Phi Hổ và cộng sự, 2006).
Sung Sang Park đã kế thừa và phát triển lý thuyết Harrod-Domar. Lý
thuyết của Park đã nêu thêm một điểm mới là tích lũy công nghệ phụ thuộc
vào đầu tư phát triển con người, hay nói cách khác là tăng vốn con người.
13
Qua mô hình cho thấy, trong nông nghệp cần đầu tư thâm canh, đầu
tư để nâng cao trình độ, tay nghề của người sản xuất để có thể ứng dụng cơ
giới hóa vào canh tác, trồng trọt.
1.2.2.5. Mô hình Tân cổ điển
Trường phái Tân cổ điển cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc
vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào là vốn (K) và lao động (L)
(Alfred Marshall, 1890, trích từ Đinh Phi Hổ và cộng sự, 2006).
Mô hình cho thấy các nước đang phát triển thường lựa chọn cách thức
tăng trưởng theo chiều rộng như lựa chọn công nghệ thâm dụng lao động.
Tuy nhiên, cách thức này lại hạn chế việc nâng cao năng suất lao động. Do đó
đối với những nông hộ trồng cây công nghiệp, nếu có điều kiện thì nâng cao
hệ số vốn/lao động và năng suất lao động sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.2.3. Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế phản ánh mối quan hệ tỷ số giữa đầu ra có ích với
đầu vào được sử dụng. Đầu vào có thể tính theo số lao động, vốn hay thời
gian lao động hao phí, chi phí thường xuyên. Đầu ra thường dùng giá trị
tăng thêm (Lê Dân, 2007).
Hoàng Hùng (2007) cho rằng, hiệu quả kinh tế được xem như là tỷ lệ
giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Nó được tính toán khi kết thúc một
quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo C. Mác, hiệu quả kinh tế là tiết kiệm và phân phối một cách hợp lý
thời gian lao động sống và lao động vật hóa giữa các ngành. Đó chính là quy
luật “tiết kiệm và tăng năng suất lao động” (Lê Thái Bạt, 1996) hay là hiệu
quả. Ông cho rằng “nâng cao năng suất lao động là cơ sở của hết thảy mọi xã
hội” (David Begg, 1992) và sự tăng lên của sức sản xuất hay mức lao động.
David Begg còn cho rằng “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản lượng của một hàng hóa
14
khác. Một nền kinh tế có hiệu quả, một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì
các điểm lựa chọn đều nằm trên một đường giới hạn khả năng sản xuất
của nó ” (David Begg, 1992).
“Hiệu quả kinh tế được biểu hiện là mối quan hệ tương quan so sánh
giữa kết quả sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó ”
(Tôn Thất Chiểu, 1996). Mối quan hệ so sánh này được xem xét cả về
hai mặt số tương đối và số tuyệt đối. Khi phân tích quan điểm này ta thấy
rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi sự so sánh tương đối (phép chia)
giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cách đánh
giá này đã chỉ rõ được mức độ hiệu quả các nguồn lực sản xuất, từ đó có thể
so sánh hiệu quả kinh tế của các quy mô sản xuất khác nhau. Mặc dù vậy,
quan điểm này vẫn chưa thể hiện được quy mô sản xuất nói chung.
Ở nước ta, coi hiệu quả kinh tế không chỉ đơn thuần là thu được lợi
nhuận tối đa mà còn phải phù hợp với yêu cầu của xã hội và đáp ứng
được đường lối chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định rõ “Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn
quan trọng nhất của sự phát triển” (Lê Quốc Doanh, Nguyễn Văn Bộ, Hà
Đình Tuấn, 2003).
- Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế - xã hội phản ánh mặt chất
của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và là đặc trưng cho mọi hình thái xã
hội. Bản chất của hiệu quả kinh tế có thể được hiểu như sau:
Hiệu quả kinh tế là quan hệ so sánh, đo lường cụ thể quá trình sử dụng
các yếu tố sản xuất (đất đai, vốn, lao động, khoa học kỹ thuật, tiến bộ quản
lý…) để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn với chất lượng cao hơn (Tôn
Thất Chiểu, 1996).
Hiệu quả kinh tế phải được gắn liền với kết quả của những hoạt động
sản xuất cụ thể trong các doanh nghiệp, nông hộ và nền sản xuất xã hội ở
15
những điều kiện xác định về thời gian và hoàn cảnh kinh tế - xã hội (Tôn
Thất Chiểu, 1996).
Hiệu quả kinh tế phải lượng hóa được cụ thể việc sử dụng các yếu tố
đầu vào (chi phí) và các yếu tố đầu ra (kết quả) trong quá trình sản xuất ở
từng đơn vị, ngành, nền sản xuất xã hội trong từng thời kỳ nhất định các
doanh nghiệp với mục đích là tiết kiệm, lợi nhuận tối đa trên cơ sở khối
lượng sản phẩm hàng hóa nhiều nhất với các chi phí tài nguyên và lao động
thấp nhất. Do đó , hiệu quả kinh tế liên quan trực tiếp đến yếu tố đầu vào và
yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, việc lượng hóa cụ thể các
yếu tố này để xác định hiệu quả kinh tế là vấn đề gặp nhiều khó khăn (đặc
biệt là trong sản xuất nông, lâm nghiệp).
Tóm lại, bản chất của hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất
kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (Vốn, lao động, đất đai…) để đạt được
mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh - mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận.
- Phân loại hiệu quả kinh tế
Mọi hoạt động sản xuất của con người và quá trình ứng dụng kỹ thuật
tiến bộ vào sản xuất đều có mục đích chủ yếu là kinh tế. Kết quả của các
hoạt động đó không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế mà đồng thời tạo ra
nhiều kết quả liên quan tới đời sống kinh tế - xã hội của con người. Những
kết quả đó là: cải thiện điều kiện sống và làm việc, cải tạo môi trường, môi
sinh, nâng cao đời sống tinh thần và văn hóa cho nhân dân, tức là đạt được
hiệu quả xã hội.
Căn cứ vào yêu cầu tổ chức và quản lý kinh tế các cấp, các ngành ..
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004), hiệu quả phân chia thành: Hiệu quả kinh
tế quốc dân, hiệu quả kinh tế vùng lãnh thổ, hiệu quả kinh tế của khu vực
sản xuất và vật chất, chi phí vật chất và hiệu quả kinh tế xí nghiệp, doanh
nghiệp.
16
Nếu căn cứ theo các yếu tố cơ bản của sản xuất và phương hướng tác
động vào sản xuất thì hiệu quả kinh tế bao gồm: Hiệu quả sử dụng lao động
và các yếu tố tài nguyên như đất đai, năng lượng…, hiệu quả sử dụng vốn,
máy móc thiết bị, hiệu quả của các biện pháp khoa học kỹ thuật và quản lý.
Nếu căn cứ vào hiệu quả sản xuất và sử dụng sản phẩm xã hội. Hiệu
quả được chia làm 03 loại: Hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, hiệu
quả kinh tế của khâu lưu thông sản phẩm và hiệu quả kinh tế sử dụng sản
phẩm cuối cùng.
Ngoài ra, hiệu quả còn được xem xét cả về mặt không gian và thời
gian. Về mặt thời gian, hiệu quả đạt được phải đảm bảo lợi ích trước mắt và
lâu dài. Tức là hiệu quả đạt được ở từng thời kỳ, từng giai đoạn không được
ảnh hưởng đến hiệu quả ở các thời kỳ, các giai đoạn tiếp theo. Về mặt không
gian, hiệu quả chỉ có thể coi đạt được một cách toàn diện khi hoạt động của
các ngành, đơn vị, bộ phận đều mang lại hiệu quả và không làm ảnh hưởng
đến hiệu quả của nền kinh tế quốc dân và xí nghiệp.
Như vậy, việc đánh giá hiệu quả phải được xem xét một cách toàn diện,
cả về mặt thời gian và không gian trong mối liên hệ giữa hiệu quả chung
của nền kinh tế quốc dân với hiệu quả của từng bộ phận của các đơn vị, xí
nghiệp; hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và có quan
hệ mật thiết với nhau như một thể thống nhất không tách rời nhau (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2004).
1.2.4. Kiến thức nông nghiệp
Kiến thức nông nghiệp có thể xem như một tổng thể các kiến thức về kỹ
thuật, kinh tế và cộng đồng mà người nông dân có được để ứng dụng vào
hoạt động sản xuất của mình. Theo Đinh Phi Hổ (2007), kiến thức là động
lực mạnh mẽ nhất của sản xuất. Kiến thức nông nghiệp của nông dân phụ
17
thuộc vào mức độ mà họ tiếp cận với các hoạt động cộng đồng ở vùng nông
thôn. Với tất cả các nguồn lực đầu vào giống nhau, hai nông dân với sự khác
nhau về trình độ kỹ thuật nông nghiệp sẽ có kết quả sản xuất khác nhau. Kiến
thức nông nghiệp cũng là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Để sản xuất,
người nông dân phải có đất; có tiền mua các yếu tố đầu vào như giống, phân
bón, thuốc trừ sâu bệnh; và có lao động để tiến hành sản xuất. Tuy
nhiên, nông dân phải có đủ kiến thức mới có thể phối hợp các nguồn lực đó
đạt hiệu quả.
Các tỉnh Trung du miền núi Bắc Bộ nói chung hay tỉnh Thái Nguyên nói
riêng, đa số các hộ nông dân có kiến thức nông nghiệp rất hạn chế, nhất là những
hộ đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy qua mô hình lý thuyết của các nhà khoa học
trên, chúng ta phải có biện pháp để nâng cao kiến thức nông nghiệp cho hộ nông
dân, giúp họ có thể phối hợp sử dụng các nguồn lực đầu vào hiệu quả.
1.2.5. Năng suất lao động
Năng suất lao động nông nghiệp được đo lường bởi GDP khu vực
nông nghiệp tính cho một lao động nông nghiệp.
Năng suất lao động nông nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với các nước
trong khu vực. Năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam chỉ khoảng 244
USD, tương đương với 75% của Trung Quốc, 33% so với Indonesia, 25% so
với Thái Lan, 18% so với Philippines và 4% so với Malaysia (World Bank,
2000, trích từ Đinh Phi Hổ, 2007). Với năng suất thấp như vậy thì sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam rất khó cạnh tranh trên thế giới về giá cả, chất lượng.
Nếu không có sự đột phá về năng suất lao động thì nền nông nghiệp không
thể chuyển hẳn sang giai đoạn phát triển cao được.
Năng suất lao động phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố: năng suất đất
(giá trị sản phẩm tính trên 1 ha) và năng suất đất – lao động (diện tích đất
nông nghiệp tính trên 1 lao động).
18
1.2.6. Lý thuyết về thay đổi công nghệ trong nông nghiệp
1.2.6.1. Khái niệm
Công nghệ là phát triển và ứng dụng của các dụng cụ, máy móc,
nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của con
người. Nó thể hiện kiến thức của con người trong giải quyết các vấn đề thực
tế để tạo ra các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu hoặc quy trình tiêu chuẩn
(Wikipedia, 2011). Ngày nay công nghệ được coi là sự kết hợp giữa phần
cứng và phần mềm. Trong đó, phần cứng được xem là máy móc, nhà xưởng,
thiết bị; phần mềm bao gồm ba thành phần: (1) con người: kiến thức, kỹ
năng, tay nghề, kinh nghiệm của người lao động, (2) thông tin: bí quyết,
quy trình, phương pháp, (3) tổ chức: bố trí, sắp xếp, điều phối và quản lý.
1.2.6.2. Tiến bộ công nghệ và chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp
Tiến bộ công nghệ trong năng suất diễn ra thông qua các phát minh,
tức là việc khám phá ra các tri thức mới và áp dụng các tri thức mới vào quy
trình sản xuất trong thực tế 1. Do có tiến bộ công nghệ nên đã thúc đẩy năng
suất tăng nhanh trong nông nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia. Tiến bộ công nghệ không những làm tăng sản lượng mà còn
làm tăng chất lượng sản phẩm. Trong ngành nông nghiệp, đây là điều rất
quan trọng vì tăng số lượng phải đi đôi với tăng chất lượng mới đạt được hiệu
quả, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Sự thay đổi công nghệ sản xuất nông nghiệp cho phép sản xuất ra nhiều
sản phẩm hơn trên một đơn vị diện tích hoặc chi phí sản xuất trên một đơn vị
sản phẩm thấp hơn. Một yếu tố chủ yếu trong quá trình nối kết giữa công
nghệ sản xuất nông nghiệp mới được tạo ra từ các tổ chức nghiên cứu khoa
học với gia tăng năng suất chính là sự phổ biến các công nghệ sản xuất nông
nghiệp mới đó đến nông dân. Dịch vụ thông tin kỹ thuật nông nghiệp cần
được hình thành trên nền tảng đầu tư của Nhà nước. Hệ thống làm cầu nối
11
David Begg (2005) Kinh tế học. Nhà xuất bản Thống kê.
19
giữa các tiến bộ công nghệ từ các tổ chức nghiên cứu và người ứng dụng nó
chính là hệ thống khuyến nông.
Hệ thống khuyến nông Việt Nam phát triển trong giai đoạn gần đây trên
cơ sở kế thừa hệ thống khuyến nông do chế độ thuộc địa xây dựng. Hệ thống
khuyến nông đã trở thành công cụ chính trong việc chuyển giao công nghệ
mới cho nông dân.
Trong quá trình phát triển, hệ thống khuyến nông của các nước đang
phát triển có hai cách tiếp cận chủ yếu: Khuyến nông – nông thôn và viếng
thăm – huấn luyện.
1.2.7. Lý thuyết về các yếu tố đầu vào cơ bản trong nông nghiệp
1.2.7.1. Vốn trong nông nghiệp
Vốn trong sản xuất nông nghiệp là toàn bộ tiền đầu tư, mua hoặc thuê
các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp. Vốn trong nông nghiệp
được phân thành vốn cố định và vốn lưu động. Vốn sản xuất nông nghiệp có
đặc điểm là tính thời vụ do đặc điểm của tính thời vụ trong sản xuất nông
nghiệp và đầu tư vốn trong nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro vì kết quả sản
xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Do chu kỳ sản xuất của
nông nghiệp dài nên vốn dùng trong nông nghiệp có mức lưu chuyển chậm.
Vốn trong nông nghiệp được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau: Vốn
tích lũy từ bản thân khu vực nông nghiệp, vốn đầu tư của ngân sách, vốn từ
tín dụng nông thôn và nguồn vốn nước ngoài.
1.2.7.2. Nguồn lao động nông nghiệp
Nguồn lao động nông nghiệp bao gồm toàn bộ những người tham gia
vào sản xuất nông nghiệp. Nguồn lao động nông nghiệp là yếu tố sản xuất đặc
biệt tham gia vào quá trình sản xuất không chỉ về số lượng người lao động
mà còn cả chất lượng nguồn lao động. Đặc biệt là yếu tố phi vật chất của lao
động như kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm lao động được xem như yếu tố ảnh
20
hưởng quan trọng đến gia tăng sản lượng. Do đó, đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn lao động chính là đầu tư làm gia tăng giá trị yếu tố đầu vào
đặc biệt này.
Nhìn chung, nguồn lao động nông nghiệp Việt Nam chất lượng không
cao do kỹ năng, kiến thức, tay nghề còn hạn chế, vì vậy thời gian tới cần
đầu tư nâng cao chất lượng nguồn lao động mới tạo sự gia tăng mạnh về
năng suất lao động. Để nâng cao chất lượng nguồn lao động hay nói cách
khác nâng cao vốn con người thì lao động đó phải được giáo dục và đào tạo,
đó là kiến thức để tạo ra sự sáng tạo, một yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế.
1.2.7.3. Đất nông nghiệp
Bao gồm đất canh tác cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đồng cỏ
dùng cho chăn nuôi, diện tích mặt nước dùng sản xuất nông nghiệp. Đất
đai là nguồn tài nguyên nhưng có giới hạn, do đó cần có sự quản lý chặt chẽ
và sử dụng các phương pháp để nâng cao năng suất trên một đơn vị diện tích.
Đất có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
1.2.7.4. Công nghệ
Như đã nêu phần trên, công nghệ được xem là đầu vào quan trọng làm
thay đổi phương pháp sản xuất, tăng năng suất lao động. Ứng dụng công
nghệ mới vào sản xuất sẽ nâng cao quy mô sản lượng, chất lượng sản phẩm,
tiết kiệm lao động, chi phí sản xuất thấp, do đó tác động gia tăng lợi nhuận,
hiệu quả.
1.2.7.5. Nước tưới
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nước tưới được xem là yếu tố quan trọng,
việc tưới nước đúng phương pháp, kỹ thuật có tác dụng nâng cao năng suất
cây chè (Đỗ Ngọc Quỹ, Đỗ Thị Ngọc Oanh, 2008). Để xây dựng một chế độ
21
tưới hợp lý cần tính toán đến yêu cầu sinh lý của cây, điều kiện thời tiết khí
hậu, lượng mưa từng vùng, đặc điểm của đất.
1.2.7.6. Phân bón
Theo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc
(2009), lượng phân bón và kỹ thuật bón phân đã trở thành một biện pháp
quyết định đến năng suất cây công nông nghiệp. Đối với cây chè, có thể sử
dụng những loại phân bón sau: phân hóa học hay phân NPK, phân hữu cơ.
Tuy nhiên, sử dụng phân NPK, phân hữu cơ hợp lý, đặc biệt là phân NPK sẽ
đạt năng suất cao (Đỗ Ngọc Quỹ, Đỗ Thị Ngọc Oanh, 2008).
1.2.8. Lý thuyết về giá sản phẩm, giá trị tổng sản phẩm, lợi nhuận, thu
nhập lao động gia đình, tỉ suất lợi nhuận
1.2.8.1. Giá thực tế sản phẩm
Giá bán thực tế của một đơn vị sản phẩm thu hoạch là giá bán mà người
sản xuất thu được ngay tại trang trại của mình.
1.2.8.2. Giá trị tổng sản phẩm
Giá trị tổng sản phẩm sẽ bằng giá bán thực tế mỗi đơn vị sản phẩm nhân
với sản lượng thu hoạch được.
1.2.8.3. Tỉ suất lợi nhuận (PCR)
Nhằm đánh giá hiệu quả về lợi nhuận của chi phí đầu tư trên đất. Nó
được xác định bởi % của lợi nhuận so với chi phí sản xuất.
P x 100
PCR =
TC
Trong đó:
PCR: tỉ suất lợi nhuận (%)
P: lợi nhuận trên 1 đơn vị diện tích
TC: tổng chi phí trên 1 đơn vị diện tích
Chỉ tiêu này được xem là hiệu quả kinh tế theo như khái niệm trên.
22
1.3. Các nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam
Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Thúy Phương (2007), khả năng canh tranh
của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất kinh doanh chè xanh Thái
Nguyên còn nhiều hạn chế: Chất lượng nguyên liệu kém, không đồng đều.
Chủng loại sản phẩm chè xanh của các doanh nghiệp chưa phong phú, sản
phẩm cao cấp chưa nhiều, chất lượng sản phẩm còn thấp, sản phẩm chè túi
lọc, chè hòa tan, chè thảo được ít được sản xuất, trong khi đó, nhu cầu của
người tiêu đối với những sản phẩm này ngày càng tăng. Mạng lưới tiêu thụ và
các hoạt động Marketing còn yếu, hầu hết các doanh nghiệp đều chưa tạo
được lợi thế về Marketing. Các hoạt động tiếp thị, nghiên cứu thị trường,
quảng cáo diễn ra không thường xuyên, nghệ thuật kém. Thiếu vốn cho đầu
tư, nâng cấp trang thiết bị hiện đại và các nhu cầu khác trong sản xuất, kinh
doanh. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm chè xanh cho các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Thái Nguyên cần phải thực hiện các giải
pháp đồng bộ.
Theo nghiên cứu của Phạm Văn Việt Hà (2007), đã thực hiện nghiên cứu
về thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất chè tại
thành phố Thái Nguyên. Trong bài nghiên cứu này, tác giả cho rằng: Tình
hình sản xuất chè ở thành phố Thái Nguyên vẫn còn chậm, mức đầu tư còn
thấp, do người dân trồng chè vẫn chưa nhìn nhận đúng vai trò của khâu đầu tư
thâm canh, do đó hiệu quả kinh tế vẫn chưa đạt mức tối đa. Đời sống tinh
thần, vật chất của người dân trồng chè tuy đã được nâng lên đáng kể nhưng
vẫn còn gặp không ít khó khăn. Để giải quyết những vấn đề này, tác giả đã
đưa ra một số kiến nghị như sau:
1. Mở rộng diện tích trồng mới, tập trung thực hiện các biện pháp
thâm canh, cải tạo phục hồi các nương chè để nâng cao năng suất, chất
lượng chè búp tươi.
23
2. Sử dụng các loại giống mới có năng suất, chất lượng tốt, thay thế dần
các nương chè đã cằn cỗi và đã quá thời kỳ khai thác.
3. Đề nghị thành phố hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các hộ dân để họ yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất.
4. Cần hạn chế bớt việc sử dụng nguồn thuốc trừ sâu, vừa hạn chế chi
phí vật chất, lại giảm nhẹ ô nhiễm môi trường. Đảm bảo sức khỏe người lao
động, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm.
5. Lập kế hoạch sát với thực tế, khuyến khích người trồng chè hăng say
lao động sản xuất.
6. Duy trì việc tổ chức Lễ hội chè hàng năm để nông dân trồng chè có
điểm vui chơi đầu xuân và là cơ hội để quảng bá sản phẩm của mình.
Theo nghiên cứu của Mạc Thị Khánh Linh (2011), Tác giả đã nghiên
cứu hiệu quả sản xuất – kinh doanh chè tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh
Thái Nguyên.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh
tế giống chè Trung du và chè cành (chủ yếu là giống chè cành LPD1 và
TRI777, vì đây là những giống chè cành được trồng phổ biến).
Nghiên cứu dựa trên hai nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu đánh giá kết quả
sản sản xuất (năng suất, giá, giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị gia
tăng, thu nhập hỗn hợp và công lao động) và nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
kinh tế.
1.4. Kinh nghiệm trên thế giới
Trung Quốc hiện là nước sản xuất, xuất khẩu chè lớn nhất trên thế giới
với sản lượng chè búp khô trung bình 1,3 triệu tấn/năm. Ở Trung Quốc, có
1.200 loại danh trà, chủng loại đa dạng. Sản lượng chè ngon chiếm khoảng
40% tổng sản lượng chè, nhưng giá trị sản lượng loại chè này chiếm tới 70%
tổng giá trị sản lượng. Để đạt được kết quả đó, từ khi tiến hành cải cách mở
24
đến nay, chính phủ Trung Quốc rất chú trọng phát triển cây chè, điều này đã
làm cho chè của Trung Quốc không ngừng tăng mạnh, chủ yếu thể hiện ở một
số điểm sau: sản xuất chè được quán triệt thực hiện phương châm phát triển
“một ổn định, ba nâng cao” - tức là ổn định diện tích, nâng cao chất lượng,
hiệu quả và sản lượng trên một đơn vị canh tác; nỗ lực mở rộng và xây dựng
vườn chè tiêu chuẩn dẫn đến mở rộng nhân giống hệ vô tính cây chè tốt và cải
tạo vườn chè già cỗi và kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh tổng hợp bằng chất
không có độc như vật lý, sinh vật, tăng cường hơn nữa sự an toàn tin cậy của
cơ sở sản xuất chè và nỗ lực nâng cao trình độ sản xuất, chất lượng chè của
Trung Quốc, dần hòa nhập với quốc tế; ứng dụng khoa học kỹ thuật để thúc
đẩy nâng cấp ngành sản xuất chè, mở rộng phát triển quảng bá kỹ thuật chăm
sóc, kỹ thuật sản xuất chè, cơ giới hóa máy móc chế biến gia công chè và kỹ
thuật sản xuất tự động hóa và gia công chè; tăng cường giám sát chất lượng,
định kỳ kiểm tra đối với thị trường chè; nâng cao nhận thức nhãn hiệu của
doanh nghiệp, tăng cường nhãn hiệu hàng hóa, nâng cao sức cạnh tranh;
thông qua việc tăng cường tuyên truyền văn hóa chè và tác dụng của chè đối
với sức khỏe, bao gồm phát triển mạnh mẽ triển lãm chè trên toàn quốc để
nâng cao nhận thức cho người dân một cách hiệu quả về tác dụng uống chè sẽ
có lợi cho sức khỏe từ đó làm cho mọi người thích uống chè, và như vậy khả
năng tiêu thụ chè sẽ không ngừng nâng lên.
Malaysia cũng là một quốc gia thành công trong sản xuất chè. Để đẩy
mạnh phát triển ngành chè, năm 1955, Hiệp hội Thương mại trà Malaysia
được thành lập. Hiệp hội được thành lập với mục đích phấn đấu bảo vệ lợi ích
chung hợp pháp của các thành viên, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển lành
mạnh của thương mại chè và giải quyết các vấn đề mà ngành công nghiệp
đang phải đối mặt. Hiện nay, Hiệp hội có khoảng 100 thành viên phân phối
trên toàn Malaysia.
25
Để nâng cao hiệu quả sản xuất chè, Malaysia đẩy mạnh khuyến khích
người dân của các dân tộc uống trà bằng cách tư vấn cho mọi người cố gắng
sử dụng những loại trà có lợi cho sức khỏe; tổ chức các hoạt động liên quan
đến trà trên cơ sở có sự phối hợp với các thương gia trà để giúp người dân
hiểu rõ hơn về hiệu quả của trà và lợi ích của việc uống trà. Malaysia cũng
hướng tới hỗ trợ các thương gia trà về mặt tài chính để giúp họ vượt qua
những khó khăn, hạn chế và hỗ trợ họ quảng bá thương hiệu của riêng họ.
Điều này đã giúp họ dễ dàng xâm nhập vào được thị trường quốc tế và tăng
thu nhập ngoại tệ cho Malaysia. Malaysia cũng đẩy mạnh các hoạt động triển
lãm chè quốc tế hoặc tổ chức các chuyến đi thăm quan triển lãm chè quốc
tế nhằm mục đích tương tác với các thương gia chè quốc tế để thúc đẩy sự
phát triển của ngành công nghiệp chè. Điểm đáng chú ý, để nâng cao cấp
bậc thương hiệu quốc tế quan điểm của ngành chè Malaysia là không tự
mãn hay bảo thủ đối với sản phẩm chè và hình dáng, đóng gói là một phần
không thể thiếu để nâng cao thương hiệu sản phẩm. Ra sức tìm hiểu về
thương hiệu quốc tế cũng như những công nghệ tiên tiến trên thế giới để
rút kinh nghiệm hay ứng dụng để khắc phục những điểm yếu còn hiện hữu
của ngành chè Malaysia…