Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Hoàn thiện công tác huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh khu vực bãi cháy quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.2 KB, 85 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong bối cảnh nền kinh tế trị trường không ngừng hoàn
thiện và phát triển, vốn là một yếu tố hết sức quan trọng, quyết định sự tăng
trưởng và phát triển của cả nền kinh tế. Mọi các thành phần kinh tế đều cần có
vốn để đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy nguồn vốn này được lấy từ
đâu? Sự ra đời của các tổ chức tín dụng và sự phát triển bùng nổ của hệ thống
các Ngân hàng thương mại đã trả lời cho câu hỏi này. Ngân hàng thương mại
có vai trò tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi để cung cấp cho những doanh nghiệp
thiếu vốn trong nền kinh tế. Quá trình chu chuyển vốn trên thị trường chủ yếu
được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường tín
dụng. Hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng thương
mại cung cấp. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn luôn là nghiệp vụ cốt lõi liên
quan trực tiếp tới sự tồn tại của ngân hàng thương mại.
Cùng với việc gia nhập WTO, ngành tài chính - ngân hàng của Việt
Nam đang đứng trước một vận mệnh mới, đó là tự do hóa thương mại trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Mức độ cạnh tranh ngày một cao sẽ khiến cho
các ngân hàng phải tìm cách phát huy lợi thế so sánh của mình để tồn tại và
phát triển. Là một trong số các ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế và đang phấn đấu trở thành một ngân hàng tầm cỡ
trong khu vực, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
phải chuẩn bị cho mình một nền tảng vốn vững mạnh, từ đó làm điểm tựa để
Ngân hàng triển khai các hoạt động nhằm tăng sức cạnh tranh của mình.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hoàn
thiện công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn - Chi nhánh khu vực Bãi Cháy - Quảng Ninh” để nghiên cứu
thực trạng và đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn, tăng



2
khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(Agribank) Chi nhánh khu vực Bãi Cháy.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác huy động vốn, tìm
hiểu về quy trình huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bãi Cháy.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể sau:
- Khái quát hóa những vấn đề lý luận cơ bản về công tác huy động vốn
tại các Ngân hàng Thương mại.
- Đánh giá tình hình thực trạng công tác huy động vốn của Agribank
Chi nhánh KV Bãi Cháy, cơ cấu các loại nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng
tới công tác huy động vốn. Phân tích những mặt được và chưa được, nguyên
nhân của những tồn tại trong công tác huy động vốn của Chi nhánh trên địa
bàn nghiên cứu.
- Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện, khắc phục những khó khăn và
hoàn thiện công tác huy động vốn của Agribank CN KV Bãi Cháy.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động huy động vốn tại Agribank Chi
nhánh khu vực Bãi Cháy.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu hoạt động huy động vốn của
Agribank Chi nhánh khu vực Bãi Cháy trên địa bàn thành phố Hạ Long.
+ Phạm vi về thời gian: số liệu, tài liệu phục vụ nghiên cứu trong luận
văn được thu thập trong giai đoạn 2011-2013.



3
4. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của luận văn
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn cho hoạt động huy động vốn tại
Agribank Chi nhánh khu vực Bãi Cháy nói riêng và các ngân hàng khác trong
những điều kiện tương tự. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các nhà quản
lý đánh giá được thực trạng hoạt động huy động vốn tại Agribank Chi nhánh
Bãi Cháy trong giai đoạn 2011-2013, để từ đó có các biện pháp nâng cao hiệu
quả huy động vốn.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh khu vực Bãi Cháy - Quảng Ninh.
- Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh khu vực Bãi
Cháy - Quảng Ninh.


4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về NHTM trong nền kinh tế
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang
tính chất tổng hợp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, ngân hàng thương mại

hình thành trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi sản
xuất phát triển thì nhu cầu trao đổi, mở rộng sản xuất giữa các vùng lãnh thổ,
giữa các quốc gia tăng lên, để khắc phục sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu
vực thì xuất hiện các thương gia làm nghề đổi tiền. Khi trao đổi hàng hoá phát
triển quay trở lại kích thích sản xuất hàng hóa. Cùng với sự phát triển đó, các
nghiệp vụ được phát triển dần như giữ tiền hộ, chi trả hộ... trên cơ sở đó thực
hiện hoạt động tín dụng.
Như vậy là, ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển
hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển
hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng
đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá
phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì
NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài
chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng thì ngân hàng
thương mại tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng
thông qua chênh lệch lãi suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng.
Từ lịch sử hình thành hệ thống ngân hàng thương mại cho thấy, các
ngân hàng thương mại chỉ xuất hiện trong điều kiện nền kinh tế đã phát triển
đến một trình độ nhất định, dẫn đến tính tất yếu khách quan của việc hình
thành hệ thống ngân hàng gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế. ( Chương


5
1: Tổng quan về Ngân hàng thương mại, giáo trình nghiệp vụ ngân hàng, Học
viện ngân hàng)
Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời ngày 05/05/1951 theo Sắc lệnh
15/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong giai đoạn 1951
- 1987, ở Việt Nam đã tạo lập hệ thống ngân hàng một cấp, chỉ phù hợp với
cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Khi nước ta chuyển nền kinh tế sang
cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng một cấp tất yếu phải được cải tổ sang

hệ thống ngân hàng hai cấp: cấp quản lý và kinh doanh. Sau khi Nghị định số
53/HĐBT được ban hành ngày 26/03/1998 bộ máy NHNN được tổ chức
thành hệ thống thống nhất trong cả nước, gồm hai cấp là NHNN và các Ngân
hàng chuyên doanh trực thuộc. Hệ thống NHNN Việt Nam hoạt động theo
chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Theo Pháp lệnh
Ngân hàng số 38 - LTC/HĐNN8 ngày 24/05/1990 quy định: NHTM là: “tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách
hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
Trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế, mặt khác nó dùng chính số tiền huy động được để cho vay đối với
các thành phần kinh tế trong xã hội, hay nói cách khác là một tổ chức đóng
vai trò là “cầu nối” giữa các đơn vị thừa vốn với các đơn vị thiếu vốn. Thông
qua sự điều chuyển này, ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, cải thiện mức sống dân cư,
ổn định thu chi Chính phủ. Đồng thời chức năng này còn góp phần quan trọng
trong việc điều hòa lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Từ đó cho thấy rằng,
đây là chức năng cơ bản nhất của ngân hàng thương mại.


6
Trung gian thanh toán
Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội đều được thực hiện bên ngoài
ngân hàng thì chi phí thực hiện là rất lớn, bao gồm: chi phí in, đúc, bảo quản,
vận chuyển tiền... Với sự ra đời của ngân hàng thương mại, phần lớn các
khoản chi trả trong hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ của xã hội
dần được thực hiện qua ngân hàng, với những hình thức thanh toán phù hợp,
thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện với công nghệ ngày càng hiện đại

hơn. Chính nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội ở ngân hàng nên
việc lưu thông hàng hoá dịch vụ trở nên nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm hơn.
Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng
thương mại có điều kiện huy động tiền gửi của toàn xã hội nói chung và của
doanh nghiệp nói riêng tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển,
đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Chức năng tạo tiền
Xuất phát từ khả năng thay thế lượng tiền giấy bạc trong lưu thông
bằng những phương tiện thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi... Chức năng
này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng và đầu tư của hệ thống ngân
hàng thương mại, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống dự trữ quốc gia. Hệ
thống tín dụng là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng
trưởng vững chắc. Mục đích của chính sách dự trữ quốc gia là đưa ra một
khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định về giá cả, tăng
trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm.
(Chương 1: Tổng quan về Ngân hàng thương mại, giáo trình nghiệp vụ ngân
hàng, Học viện ngân hàng)
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại
Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển, đang phát triển, thậm
chí chưa phát triển thì hoạt động ngân hàng cũng có tác dụng to lớn đến hoạt


7
động của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của ngân hàng
được thể hiện như sau:
Ngân hàng là nơi tập trung tiền nhàn rỗi và cung ứng tiền vốn cho quá
trình sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng là trung gian trong quá trình thanh toán góp phần thúc đẩy
quá trình lưu thông hàng hoá nhanh chóng.
Ngân hàng góp phần điều tiết và kiểm soát thị trường tiền tệ, thị

trường vốn.
Ngân hàng góp phần thu hút, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước và
cung cấp các dịch vụ tài chính khác.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của vốn huy động trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về vốn huy động của ngân hàng thương mại
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân
hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả. Vốn huy
động còn được gọi là tài sản nợ ngân hàng. Bộ phận nguồn vốn này chiếm tỷ
trọng lớn và chủ yếu nhất trong cơ cấu nguồn vốn của bất kỳ ngân hàng
thương mại nào.
Chỉ có các NHTM mới được quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức
khác nhau, mang tính đặc thù riêng vốn có của NHTM. Đây cũng chính là
điểm khác biệt giữa NHTM với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Thực chất, vốn huy động của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập
quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng,
người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán,
tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn
cho ngân hàng để ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập hoặc một số


8
tiện ích khác. Sau đó, ngân hàng sử dụng lại những nguồn vốn này để cấp tín
dụng cho những người có nhu cầu sử dụng vốn.
Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời chính những hoạt động đó
lại quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
(Chương 2: Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, giáo trình nghiệp vụ
ngân hàng, Học viện ngân hàng).

1.2.2. Đặc điểm của vốn huy động
Vốn huy động trong NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn
của NHTM. Các NHTM hoạt động chủ yếu là nhờ vào nguồn vốn này.
Đây là nguồn vốn không ổn định vì khách hàng có thể rút vốn bất cứ
lúc nào, do đó các NHTM cần duy trì một khoản dự trữ thanh khoản để sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng, để đảm bảo an toàn cho hoạt
động của ngân hàng, tránh sự sụt giảm đột ngột về nguồn vốn của ngân hàng.
Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh mạnh.
Vì những đặc điểm trên nên các NHTM không được sử dụng nguồn vốn
này để đầu tư, chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh.
1.3. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Một hoạt động không thể thiếu của các NHTM là tiến hành huy động
vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình này hầu như đều giống nhau ở
các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức huy động vốn thì rất khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào các tiêu chí được lựa chọn để phân loại:
1.3.1. Căn cứ phân loại theo kỳ hạn huy động
Phân loại theo kỳ hạn huy động có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lời của nguồn


9
vốn huy động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo kỳ hạn, hình
thức huy động vốn được chia thành:
1.3.1.1. Huy động ngắn hạn
Đây là hình thức huy động vốn của các NHTM thông qua việc phát
hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp vụ nhận
tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán để cho vay ngắn hạn thường là dưới 1
năm. Vốn ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy
động (nếu ngân hàng thuộc khối phục vụ cho vay dân cư): cho vay để mua đồ
sinh hoạt, cho vay tiêu dùng, cho vay vốn lưu động...Do vậy nguồn vốn này

được huy động với lãi suất thấp.
1.3.1.2. Huy động trung hạn
Đây là nguồn huy động vốn của ngân hàng thông qua phát hành các
công cụ nợ trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 5 năm). Vốn huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận
tiện. Tuy nhiên lãi suất nguồn huy động này thường cao hơn nguồn ngắn hạn.
Nguồn huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện
các hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi
suất cao.
1.3.1.3. Huy động dài hạn
Đây là nguồn vốn huy động mà ngân hàng chủ yếu huy động được trên
thị trường vốn, với nguồn này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng vì có tính ổn
định cao. Do vậy, lãi suất ngân hàng phải trả cũng rất cao.
1.3.2. Căn cứ phân loại theo đối tượng huy động
1.3.2.1. Huy động vốn từ dân cư
Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có những khoản tiền dự phòng cho
những tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì các
khoản dự phòng càng tăng lên. Nắm bắt được những đặc tính đó, các Ngân
hàng Thương mại tìm mọi hình thức để huy động các khoản tiết kiệm này, vì


10
nếu gom được chúng ngân hàng sẽ có một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng
nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng thời thu được lợi nhuận.
1.3.2.2. Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Đây là lĩnh vực ngân hàng huy động được lượng vốn rất lớn, chiếm tỷ
trọng khá lớn trong tổng vốn huy động, vì các đơn vị này gửi một khối lượng
lớn tiền vào ngân hàng để hưởng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Giao
dịch tiền tệ giữa các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của họ. Do có sự đan xen giữa
các khoản phải thanh toán và các khoản phải thu tiền mà trên tài khoản của

các tổ chức này tại ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định và trở
thành một nguồn vốn có chi phí thấp giúp các ngân hàng thực hiện các nghiệp
vụ cho vay ngắn hạn đôi khi cả trung hạn. Tuy nhiên, tính ổn định và độ lớn
của nguồn vốn này phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và loại hình kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.3.2.3. Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có một khoản tiền gửi
lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán… Ngoài ra việc vay lẫn
nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy
không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi
NHTM. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng thanh toán bị đe
dọa… các NHTM có thể vay lẫn nhau. Quá trình tín dụng này là một thỏa
thuận giữa hai bên. Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác tuy khá dễ dàng nhưng số lượng thường không lớn và chi phí thường cao
hơn. Do vậy, hình thức này các ngân hàng thường không sử dụng nhiều. Mặt
khác, trong một số trường hợp cần thiết, ngân hàng còn có thể vay từ ngân
hàng Trung ương. Đây cũng là một hình thức huy động vốn khá hiệu quả. Tuy
nhiên, chỉ trong những trường hợp thực sự cần thiết thì ngân hàng mới sử
dụng đến hình thức này.


11
1.3.3. Căn cứ phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các NHTM sử dụng
hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn một cách rõ ràng sẽ tạo sự
thuận tiện cho ngân hàng khi tiến hành công tác huy động. Các hình thức huy
động gồm:
1.3.3.1. Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi
Huy động tiền gửi không kỳ hạn:
Với loại tiền này, khách hàng có thể gửi tiền vào và rút ra bất cứ lúc

nào có nhu cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về
tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng nên cũng được gọi là
tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng là cá
nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Để mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHTM, khách hàng cần làm
thủ tục sau:
- Đối với khách hàng cá nhân chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài
khoản tiền gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình và nộp bản sao giấy
chứng minh nhân dân.
- Đối với khách hàng là tổ chức, chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị
mở tài khoản tiền gửi thanh toán, đăng ký mẫu chữ ký và con dấu của
người đại diện, xuất trình và nộp bản sao các giấy tờ chứng minh tư cách
pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp
pháp của chủ tài khoản.
- Đối với khách hàng là đồng chủ tài khoản cần điền và nộp giấy đề
nghị mở tài khoản đồng sở hữu, các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp
pháp của người đại diện cho tổ chức tham gia tài khoản đồng sở hữu, văn bản
thỏa thuận quản lý và sử dụng tài khoản chung của các đồng chủ tài khoản.
Theo thông lệ ở các nước phát triển, ngân hàng không trả lãi cho khách
hàng mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn vì mục đích của khách hàng khi sử


12
dụng tài khoản này là để thực hiện thanh toán qua ngân hàng chứ không phải
vì mục đích hưởng lãi. Hơn nữa ngân hàng còn yêu cầu khách hàng phải duy
trì một số dư tối thiểu để được hưởng các dịch vụ của ngân hàng, nếu không
có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho ngân hàng khi sử dụng các
dịch vụ của ngân hàng.
Ở Việt Nam, do thói quen thanh toán bằng tiền mặt và dân chúng chưa
quen với việc sử dụng tài khoản để thanh toán nên để thu hút khách hàng,

ngân hàng vẫn trả lãi đối với loại tiền gửi này, tuy nhiên với mức lãi suất rất
thấp (khoảng 1 đến 2% /năm).
Lãi tiền gửi thanh toán được tính định kỳ hàng tháng theo phương pháp
tích số và lãi được nhập vào số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Để tăng nguồn tiền không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực
hiện tốt các dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách hàng lớn. Với quy mô
lớn, cơ cấu đa dạng, cơ chế hoán đổi thời gian đáo hạn của các khoản tiền gửi
được thực hiện tốt sẽ làm cho mức dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn
cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng lượng tiền này để
cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn:
Các khoản tiền gửi có kỳ hạn được đặc trưng bằng chứng chỉ tiền gửi
ghi rõ thời gian đáo hạn và số lượng. Khách hàng chỉ được rút ra sau một thời
gian nhất định theo kỳ hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Tuy nhiên ngân
hàng có thể giải quyết cho khách hàng rút trước thời hạn khi có yêu cầu,
nhưng phải chuyển từ mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn sang áp dụng mức lãi
suất không kỳ hạn.
Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn, mục đích của việc gửi tiền là lợi tức,
không quan tâm tới việc tận dụng những tiện ích thanh toán do ngân hàng
cung cấp. Vì vậy để tăng tỷ lệ huy động vốn có kỳ hạn ngân hàng có thể sử
dụng các công cụ lãi suất và các chính sách khuyến khích lợi ích vật chất khác


13
như xổ số hoặc bốc thăm trúng thưởng… để tạo ra sự quan tâm thu hút khách
hàng, đặt biệt với nhóm khách hàng là cá nhân.
Với đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng có thể chủ động
kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời
gian hợp lý và thu lợi nhuận cao.
Huy động tiền gửi tiết kiệm:

+ Tiết kiệm không kỳ hạn: Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
được thiết kế dành cho đối tượng khách hàng là cá nhân có tiền tạm thời nhàn
rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi, nhưng không thiết lập
được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa
chọn hình thức tiền gửi này, thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là
mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách hàng muốn
rút bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả
và không chủ động được khi lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng.
Do vậy, ngân hàng thường trả lãi suất rất thấp cho loại tiền gửi này.
Đối với loại tiền gửi này, khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ
lúc nào trong giờ giao dịch, mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ
tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như gửi tiền hoặc
rút tiền, không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán như trong trường
hợp tiền gửi thanh toán.Thủ tục mở sổ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn rất đơn
giản, khách hàng đến bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng điền vào mẫu giấy
đề nghị gửi tiết kiệm không kỳ hạn có kèm theo giấy chứng minh nhân dân và
chữ ký mẫu. Nhân viên sẽ hoàn tất thủ tục nhận tiền và cấp sổ tiền gửi ngay
cho khách hàng.
+ Tiết kiệm có kỳ hạn: Tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết kế dành
cho khách hàng cá nhân có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và
thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối tượng khách hàng
chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và


14
thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Đa số
khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, nhân viên hưu
trí. Mục tiêu quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là lợi tức
có được theo định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút
được đối tượng khách hàng này. Dĩ nhiên, lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết

kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không kỳ hạn. Ngoài ra,
mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi (1, 2, 3, 6, 9 hay 12 tháng)
và tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR hay vàng) và còn
tùy theo uy tín, rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
Về thủ tục mở sổ, theo dõi hoạt động và tính lãi cũng tiến hành tương
tự như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ khách hàng được rút
tiền theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không được phép rút tiền trước hạn. Tuy
nhiên, để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi tiền đôi khi ngân hàng cho
phép được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khi đó ngân hàng sẽ
trả lãi cho khách hàng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Là sản phẩm huy động truyền thống với các hình thức phong phú và kỳ
hạn đa dạng nên tiền gửi tiết kiệm rất phù hợp với dân cư, đáp ứng được nhu
cầu của người gửi tiền, khả năng huy động của ngân hàng từ nguồn vốn này là
rất tiềm năng. Tuy nhiên ngân hàng cần chú ý đến chính sách lãi suất huy
động, nghiên cứu để đưa ra các hình thức huy động hấp dẫn, phù hợp với tính
đa dạng, phong phú và phức tạp của đối tượng dân cư. Đặc biệt cần có cơ chế
trả lãi hợp lý đối với loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, cơ chế đảm bảo
bằng vàng hay ngoại tệ mạnh cho các loại tiết kiệm nội tệ nhằm đảm bảo
quyền lợi cho người gửi tiền, tạo niềm tin khuyến khích dân cư gửi vào ngân
hàng ngày càng lớn.
1.3.3.2. Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường
kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các NHTM có thể vay từ nhiều
nguồn khác nhau:


15
Phát hành các công cụ nợ:
Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các NHTM.
Trong quá trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân hàng thấy cần

phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn. Điều
đó, có nghĩa ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, nghĩa là có đầu ra mới
tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy động
và đưa ra mức lãi suất hợp lý làm cho việc huy động vốn của ngân hàng thành
công nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân hàng có thể phát hành kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu.
+ Kỳ phiếu ngân hàng: là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do ngân
hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho
những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một
chương trình kinh tế,…
+ Chứng chỉ tiền gửi (CDs): là công cụ vay nợ do ngân hàng bán cho
người gửi tiền với lãi suất nhất định và được lưu thông khi chưa đến hạn
thanh toán. Người sở hữu CDs có thể được hoàn trả toàn bộ số tiền gửi cộng
với lãi khi đến hạn hoặc có thể bán CDs trước hạn thanh toán trên thị trường
tiền tệ. CDs là công cụ mang lãi suất, lãi suất của nó được tính trên cơ sở 360
ngày và trả theo mệnh giá và thời hạn.
+ Trái phiếu ngân hàng: là một giấy tờ có giá, xác nhận một khoản nợ
của ngân hàng với khách hàng với những cam kết như thanh toán một số tiền
xác định vào một ngày xác định trong tương lai. Trái phiếu được phát hành
trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, chủ yếu để huy động vốn trung và dài hạn.
Vay ngân hàng Trung ương:
Khi cần vốn cấp bách để đảm bảo khả năng thanh toán thì NHTM có thể
vay của NHTW bằng cách tái chiết khấu giấy tờ có giá hoặc được tái cấp vốn.
Vay các TCTD khác:
Đó là nguồn mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân
hàng. Đây cũng là một hình thức cho vay, nhưng thực chất nó là một hình


16
thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự hợp tác đôi bên cùng có lợi.

Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân
hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu
hút dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh toán.
Như vậy, nguồn vay mượn từ các TCTD khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và
chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp sẽ bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ NHNN.
1.3.3.3. Huy động vốn qua các hình thức khác
Đây là nguồn mà ngân hàng huy động được thông qua việc cung cấp
các phương tiện thanh toán, các dịch vụ ủy thác đầu tư. Nguồn vốn này
thường có chi phí thấp. Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp tùy thuộc vào
chất lượng dịch vụ và uy tín của ngân hàng.
1.3.4. Căn cứ phân loại theo đồng tiền huy động
Ngân hàng có thể huy động vốn theo loại tiền, ngoài hình thức phổ biến
và chủ đạo là tiền nội tệ (VNĐ), ngân hàng có thể thu hút thêm các loại ngoại
tệ khác như: USD, EURO… Nguồn này xuất phát từ đặc điểm kinh tế của
từng quốc gia mà có quy định khác nhau. Tuy nhiên phương thức huy động
như thế nào còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế từng thời kỳ. Các NHTM
nước ta thường chia làm hai mảng: Tiền gửi bằng VNĐ và tiền gửi bằng
ngoại tệ. Trên cơ sở xác định mức phí ngân hàng sẽ đưa ra lãi suất và kỳ hạn
hợp lý với từng loại tiền.
1.4. Tổ chức công tác huy động vốn của NHTM
1.4.1. Các căn cứ khi tổ chức huy động vốn của NHTM
Khi tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường, mỗi ngân hàng đều
có một cách thức tổ chức huy động vốn riêng, tùy thuộc vào tình hình thực tế
và điều kiện của mỗi ngân hàng, vào thực trạng của nền kinh tế, và chính sách
cũng như mục tiêu của từng ngân hàng. Chính vì thế mà khi tổ chức công tác
huy động vốn thì các ngân hàng phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như:


17

- Tình hình thực tế của kinh tế xã hội: Yếu tố về sự phát triển kinh tế vĩ
mô của toàn xã hội luôn có những tác động trực tiếp đến công tác huy động
vốn của các ngân hàng thương mại. Khi một nền kinh tế phát triển bền vững
thì các thành phần kinh tế mới gia tăng được thu nhập, doanh thu, đồng thời
yên tâm gửi tiền vào ngân hàng. Hoặc ngược lại, trong thời kỳ mà nền kinh tế
có nhiều biến động, lạm phát cao, thì mọi người có xu hướng giữ tiền lại để
đảm bảo an toàn.
- Chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước, cũng như các quy
định cụ thể trong lĩnh vực hoạt động của ngành ngân hàng. Do đặc trưng hoạt
động của NHTM trên thị trường tài chính, mà tầm ảnh hưởng của các ngân
hàng đến sự phát triển kinh tế là rất lớn. Chính vì vậy, mà Chính phủ các quốc
gia luôn kiểm soát rất chặt chẽ các hoạt động của NHTM. Các hoạt động huy
động vốn của NHTM sẽ được điều chỉnh kiểm soát chặt chẽ theo các quy định
của Ngân hàng Nhà nước.
- Và cuối cùng là tình hình thực tế của ngân hàng mà có thể đưa ra các
cách tổ chức huy động vốn thích hợp hơn. Một ngân hàng lớn, với mạng lưới
chi nhánh rộng có nhiều khả năng huy động được lượng vốn lớn.
1.4.2. Tổ chức công tác huy động vốn của NHTM
Trong thực tế, khi một doanh nghiệp muốn thành lập và đi vào hoạt
động thì yếu tố đầu tiên không thể thiếu là yếu tố vốn. Đó sẽ là cơ sở đầu tiên
để doanh nghiệp mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, mua nguyên
vật liệu. Đặc biệt, hoạt động của các ngân hàng trên thị trường chủ yếu là kinh
doanh tiền tệ nên điều tất yếu là phải có một lượng vốn ban đầu lớn. Mặt
khác, do hoạt động đặc thù của các ngân hàng là kinh doanh một lượng tiền
rất lớn, do vậy việc huy động vốn đòi hỏi phải diễn ra liên tục. Có thể nói hoạt
động huy động vốn trên thị trường là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thị trường.


18

Do công tác huy động vốn của các ngân hàng luôn đóng vai trò hết sức
quan trọng, nên việc tổ chức công tác huy động vốn của ngân hàng sẽ tùy
thuộc vào quy mô, chức năng, nhiệm vụ của từng ngân hàng mà được tổ chức
dưới các hình thức khác nhau. Nhưng nhìn chung, việc tổ chức công tác huy
động vốn trong ngân hàng sẽ được giao cho bộ phận có chức năng soạn thảo,
và phải được người có thẩm quyền thông qua. Tuy nhiên, quá trình thực hiện
công tác huy động vốn sẽ do nhiều bộ phận khác nhau cùng tham gia phối
hợp thực hiện.
Các vấn đề cần quan tâm trong công tác huy động vốn:
- Điều đầu tiên cần phải nhắc đến khi huy động vốn đó là để đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư. Ngay từ khi mới thành lập thì hoạt động cho vay
đã là hoạt động chủ yếu của các NHTM, đó cũng là hình thức kinh doanh chủ
yếu của ngân hàng. Hoạt động đặc trưng của các ngân hàng là hoạt động cho
vay để thu được lãi suất. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế, thì hoạt động của các ngân hàng không chỉ đơn thuần
là hoạt động cho vay để thu lãi, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực đầu tư. Hoạt
động đầu tư của các ngân hàng sẽ tận dụng được các khoản tiền nhàn rỗi,
đồng thời tận dụng được các kinh nghiệm cũng như khả năng trên thị trường
tài chính. Do vậy yếu tố đầu tiên phải xem xét khi huy động vốn là phải cân
đối với hoạt động cho vay và đầu tư. Đó cũng chính là mục đích huy động
vốn của các ngân hàng.
- Quá trình huy động vốn cần phải đảm bảo rằng tính chất nguồn huy
động phải phù hợp với tính chất sử dụng. Điều này đóng vai trò hết sức quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng trên thị trường. Khi tổ chức
công tác huy động vốn trên thị trường, ngân hàng cần căn cứ vào nhu cầu sử
dụng của mình là gì, đó có thể là các khoản tín dụng dài hạn, trung hạn, hoặc
ngắn hạn. Sự phù hợp giữa tính chất của nguồn vốn huy động và tính chất sử
dụng sẽ giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong kế hoạch kinh doanh của



19
mình, đồng thời tận dụng được các cơ hội kinh doanh, tăng thời gian quay
vòng vốn. Tính chất sử dụng vốn của các ngân hàng không chỉ là thời hạn của
khoản tín dụng, mà còn là phương thức thanh toán trong nước hay quốc tế.
- Điều tiếp theo cần phải kể đến là vấn đề an toàn về vốn trong công tác
huy động vốn. Hoạt động của các NHTM trên thị trường tài chính luôn hàm
chứa rất nhiều những rủi ro, do vậy vấn đề đảm bảo các điều kiện an toàn về
vốn là một việc hết sức cần thiết. Sự an toàn trong công tác huy động vốn có
thể thể hiện ở tính thanh khoản của khoản vốn. Bởi vì, trong quá trình kinh
doanh các khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào, do vậy các khoản vốn mà
ngân hàng huy động được cần phải bảo đảm tính thanh khoản song song với
việc sinh lãi.
- Chi phí thấp, cơ cấu vốn phù hợp. Hoạt động kinh doanh của các
NHTM là vì mục tiêu lợi nhuận, vì thế yếu tố chi phí cho hoạt động huy động
vốn của ngân hàng sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó sẽ quyết định
đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng, cũng như vấn đề về lợi nhuận của
ngân hàng. Ngoài ra cơ cấu của nguồn vốn cũng có ảnh hưởng rất lớn tới cơ
cấu tài sản và quyết định chi phí của ngân hàng. Quản lý cơ cấu của nguồn
huy động phải đảm bảo các nội dung sau:
Thống kê đầy đủ và kịp thời các thay đổi về các loại nguồn vốn huy
động, tốc độ quay vòng của mỗi loại.
Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó.
Lập kế hoạch phù hợp cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn tại Ngân hàng
Thương mại
Nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ kinh doanh
truyền thống của các ngân hàng. Nó có ý nghĩa quan trọng với hoạt động của
bất cứ NHTM nào vì nó cung cấp vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Do đó để nghiệp vụ này mang lại kết quả cao nhất thì bên cạnh việc tìm



20
ra các giải pháp để nâng cao chất lượng huy động vốn, các Ngân hàng
Thương mại cũng phải xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy
động vốn, để tìm cách hạn chế chúng.
1.5.1. Những nhân tố chủ quan
Lãi suất: với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động trực tiếp đến hoạt
động tín dụng, và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi
xem xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào.
Chính sách lãi suất cạnh tranh (bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động
và lãi suất cạnh tranh cho vay) là một chính sách quan trọng của ngân hàng.
Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động đặc biệt cần thiết khi lãi suất thị
trường đã ở mức tương đối cao. Các Ngân hàng Thương mại không chỉ cạnh
tranh giành vốn với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành
các công cụ khác nhau của thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm
tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng thúc đẩy người
gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang có sang
tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tiết kiệm này sang một tổ chức hay
một công ty khác.
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ
thể. Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định
vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh
doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng có thể
quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn, có thể thay đổi tỷ lệ các
loại nguồn vốn, tăng hay giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược kinh doanh
đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì hoạt động huy
động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.



21
Trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng, chiến lược khách hàng
đóng vai trò rất quan trọng. Nó tác động trực tiếp đến sự thành công trong
công tác huy động vốn của ngân hàng. Để có được thành công, trước tiên,
ngân hàng cần phải tìm hiểu động cơ, thói quen, mong muốn của người gửi
tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích khách
hàng. Trên cơ sở thông tin về khách hàng đưa ra chính sách lãi suất hợp lý
đồng thời xây dựng chính sách phục vụ và tiếp đón khách hàng tạo sự thoải
mái khi khách hàng giao dịch. Từ đó, sẽ tạo thuận lợi cho công tác huy động
vốn của ngân hàng.
Công tác cân đối vốn
Một chiến lược huy động vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng
vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại đạt
được mục tiêu lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài
hoà giữa huy động vốn và sử dụng vốn chính là công tác cân đối vốn của
ngân hàng. Công tác cân đối vốn là hết sức quan trọng và cần thiết đối với
hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào. Đó là một biện pháp nghiệp vụ, là một
công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối vốn
đã lập, các cán bộ ngân hàng xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các nguồn
vốn và từng khoản sử dụng để dự đoán nhu cầu vốn biến động trong tương
lai, từ đó co chính sách huy động vốn thích hợp.
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng
Đây cũng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động
huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng đa
dạng, phong phú bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế sẽ càng
lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu tâm lý của
các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức càng cao thì càng dễ dàng
đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một
hình thức gửi tiết kiệm phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các Ngân hàng



22
Thương mại thường cân nhắc rất kỹ trước khi đưa vào áp dụng một hình thức
huy động mới.
Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn
các ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện thành phố thiếu bãi
đậu xe, ngân hàng có bãi đậu xe rộng rãi cũng là một lợi thế, hoặc ngân hàng
có quầy giao dịch trên mặt đường các phố chính, có hệ thống rút tiền tự động
làm việc ngày đêm, có cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm tạo được
niềm tin với khách hàng… đều là những lợi thế đáng quan tâm của các Ngân
hàng Thương mại. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân
hàng không có giới hạn, do vậy đây là điểm mạnh để các ngân hàng thắng thế
trong cạnh tranh.
Chính sách Marketing
Không một ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo trong
thời đại ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại, quảng cáo luôn được
đề cao và cần phải có một chi phí nhất định cho công tác này. Đồng thời ngân
hàng cũng phải có chiến lược quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hình
mà nên dùng cả panô, áp phích nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn.
Mạng lưới ngân hàng.
Ngoài việc quan tâm đến lãi suất, dịch vụ tiện ích của ngân hàng, người
gửi tiền còn quan tâm đến vấn đề thuận tiện trong việc gửi tiền. Nhất là khoản
tiết kiệm của dân cư thường là những khoản không lớn nên người dân rất ngại
đi một quãng đường xa đến vài cây số chỉ để gửi tiền chẳng thà để cất giữ ở
nhà còn hơn.Vì vậy, ngân hàng cần tổ chức mạng lưới hoạt động rộng, hợp lý
trên địa bàn dân cư sẽ giúp ngân hàng có nhiều cơ hội thu hút vốn hơn, giúp
người gửi tiền tiết kiệm thời gian và chi phí để thực hiện giao dịch. Tuy
nhiên, việc mở chi nhánh cần phù hợp với năng lực của ngân hàng. Yếu tố địa

điểm cũng tác động đến tâm lý khách hàng, một ngân hàng nằm ở vị trí thuận


23
lợi như khu vực trung tâm, đông dân cư, đi lại thuận tiện,… sẽ giúp ngân
hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Uy tín của ngân hàng
Trên cơ sở nghiên cứu sẵn có đã đạt được, mỗi ngân hàng sẽ tạo được
một hình ảnh riêng trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn có uy tín tiếng
tăm trong nhiều năm sẽ có lợi thế hơn trong việc huy động vốn. Sự tin tưởng
của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn
huy động và tiết kiệm chi phí huy động. Thậm chí, trong trường hợp lãi suất
tiền gửi tại ngân hàng thấp hơn đôi chút, những người có tiền vẫn lựa chọn
một ngân hàng có uy tín hơn để gửi mà không tìm những nơi có lãi suất hấp
dẫn hơn vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình được tuyệt đối an toàn.
Năng lực trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao, mọi thao tác thực
hiện nhanh chóng, chính xác, hiệu quả; thái độ phục vụ, tác phong làm việc
của nhân viên ngân hàng tốt, nhiệt tình, cởi mở, tạo thuận lợi cho khách hàng
sẽ gây được ấn tượng tốt với khách hàng, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách
hàng hơn. Thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng đối với khách hàng có
ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn cho ngân hàng. Do đó ngân hàng
cần chú trọng đến công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ
công nhân viên của mình đồng thời mỗi nhân viên cũng cần nâng cao tác
phong làm việc, phong thái phục vụ có như vậy thì công tác huy động vốn của
ngân hàng mới đạt được hiệu quả cao.
1.5.2. Những nhân tố khách quan
Ý thức tiết kiệm của dân cư:
Xu hướng hiện nay của các Ngân hàng Thương mại ở các nước phát
triển là đẩy mạnh công tác huy động vốn trong khu vực dân cư, nơi mà tầng

lớp trung lưu đang tăng lên nhanh chóng, có nhiều tiền nhàn rỗi và tỷ lệ tiền
gửi tiết kiệm ở khu vực này chiếm một tỷ trọng khá cao trong vốn huy động


24
(thường là: 80%). Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được trong dân cư
và ngân hàng có thể dùng cho vay. Thực tế đã chứng minh: nếu quốc gia nào
có tỷ lệ tiết kiệm cao thì quy mô và chất lượng công tác huy động vốn của
ngân hàng sẽ tăng lên và do đó công tác tín dụng cũng rất phát triển.
Nhân tố thu nhập của dân cư:
Khả năng huy động vốn của ngân hàng tỷ lệ thuận với thu nhập của dân
cư, có nghĩa là thu nhập của dân cư càng cao thì tiền gửi tiết kiệm càng tăng
lên. Tuy nhiên khối lượng tiền trong dân cư không thể xác định một cách dễ
dàng. Do vậy, muốn dân chúng gửi tiền vào ngân hàng thì phải có chính sách
lãi suất thích hợp cùng với sự hấp dẫn về các dịch vụ ngân hàng.
Lòng tin của dân chúng đối với ngân hàng vào đồng bản tệ:
Khi nền kinh tế phát triển không ổn định, có lạm phát hay có nguy cơ
xuất hiện lạm phát thì người dân phần lớn không thích gửi tiết kiệm, họ thích
tích trữ vàng, hoặc ngoại tệ mạnh như đô la, với kỳ vọng là bảo toàn được giá
trị. Trong hoàn cảnh này nếu ngân hàng không có chính sách huy động vốn
thích hợp và hấp dẫn như tiền gửi đảm bảo bằng vàng, tiền gửi có tính đến
trượt giá thì sẽ không huy động được tiền gửi tiết kiệm và lạm phát có thể bị
đẩy lên cao hơn.
Nhân tố thời vụ tiêu dùng:
Thời vụ tiêu dùng cũng có ảnh hưởng lớn đến tình hình huy động tiền
gửi tiết kiệm của một Ngân hàng Thương mại trong một thời gian nhất định.
Vào thời vụ tiêu dùng thì nói chung tiền gửi tiết kiệm giảm xuống. Chẳng hạn
vào dịp Tết Nguyên Đán chẳng những tiền gửi tiết kiệm không tăng mà còn
có thể giảm do dân chúng rút tiền để sắm Tết.
Nhân tố môi trường pháp lý

Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng,
tác động hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể
việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến


25
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu
chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động
của ngân hàng phải chịu sự quản lý gắt gao hơn các doanh nghiệp khác. Thực
tế ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách, quy định của
chính phủ, của NHNN: đó là luật các TCTD, luật dân sự và hàng loạt các quy
định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Trong sự ràng
buộc về luật pháp này thì các yếu tố của các nghiệp vụ huy động vốn chắc
chắn sẽ bị thay đổi và kết quả làm ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả của
việc huy động vốn. Bởi khi chính sách của nhà nước, NHNN về chính sách
tiền tệ, chính sách tài chính, lãi suất, tín dụng,.. thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả
năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM.
Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội:
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng
không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tếchính trị-xã hội.
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử
dụng vốn luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình
trạng thất nghiệp, lạm phát,…tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế tăng trưởng,
sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích lũy nhiều hơn, do đó tạo môi
trường thuận lợi cho việc thu hút vốn cũng như cấp tín dụng của ngân hàng.
Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư
bị thu hẹp thì quá trình tạo vốn cũng như cho vay của ngân hàng sẽ gặp nhiều
khó khăn.
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị
không ổn định. Sự ổn định về chính trị hay chính sách ngoại giao cũng tác

động mạnh mẽ đến quan hệ vốn của ngân hàng với các ngân hàng khác ở các
nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Điều này cũng là nhân tố tác động
đến công tác huy động vốn của ngân hàng.


×