Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Hoàn thiện giải pháp tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

HOÀN THIỆN GIẢI PHÁP TÍN DỤNG
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tiến Long

THÁI NGUYÊN - 2014


2

2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết rằng nội dung của bản luận văn này chưa được nộp cho bất
kỳ một chương trình cấp bằng cao học nào, cũng như một chương trình đào tạo cấp
bằng nào khác.
Tôi cũng xin cam kết thêm rằng bản luận văn này là nỗ lực của cá nhân tôi.
Các kết quả, phân tích, kết luận trong bản luận văn này (ngoài các phần được trích
dẫn) đều là kết quả làm việc của cá nhân tôi.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Bích Ngọc


3

3

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình và trách nhiệm của giảng
viên - TS. Nguyễn Tiến Long- Học viện –hành chính khu vực I, đã hướng dẫn, tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành bản luận văn này.
Trân trọng cảm ơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái
Nguyên đã tạo điều kiện cung cấp tài liệu, thông tin trong quá trình khảo sát, nghiên
cứu đề tài.
Chân thành cảm ơn lớp QLKT K9A về sự đoàn kết, hỗ trợ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể giảng viên, cán bộ nhân viên tham
gia công tác giảng dạy, phục vụ khoá đào tạo QLKT K9A đã giúp tôi hoàn thành tốt
khoá học.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bích Ngọc


4

4


MỤC LỤC


5

5

ATM Automatic Teller Machine: Máy rút tiền tự động
CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

Cty TNHH

: Công ty trách nhiệm hữu hạn

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHTMCP

: Ngân hàng thương mại cổ phần

NN&PTNT


: Nông nghiệp và phát triển nông thôn

TCTD

: Tổ chức tín dụng


6

6

DANH MỤC BẢNG


7

BIỂU ĐỒ

HÌNH

7


8

8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới ở Việt Nam, vai trò của hoạt động ngân hàng là vô

cùng quan trọng. Sự phát triển không ngừng cả về mạng lưới và nội dung của hoạt
động ngân hàng đã góp phần to lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
Là một trong những ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước hoạt động trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank)
tỉnh Thái Nguyên tuân thủ sự điều hành của Chính phủ, của ngân hàng Nhà nước, bám
sát định hướng phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) của tỉnh; giữ vững vai trò chủ đạo
trong đầu tư tín dụng cho khu vực “tam nông”, không ngừng đẩy mạnh công tác tiếp
thị, thu hút nguồn tiền gửi của khách hàng, nỗ lực đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản
xuất của doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân. Đồng thời, Agribank tỉnh Thái Nguyên
tập trung điều hành tăng trưởng tín dụng chặt chẽ, gắn tăng trưởng tín dụng với kiểm
soát, nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần cùng với ngành ngân hàng thực hiện tốt
các giải pháp phát triển KT- XH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và cả nước.
Mặc dù ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã ban
hành các chính sách và cơ chế tín dụng áp dụng cho từng khu vực đặc thù đã và
đang được thực hiện. Tuy nhiên, cơ chế tín dụng này vẫn nảy sinh nhiều bất cập
khi áp dụng vào hoạt động thực tế ở tỉnh Thái Nguyên, ảnh hưởng đến chất lượng,
hiệu quả hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Thái Nguyên. Do
vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn (NN&PTNT) chi nhánh Thái Nguyên, thiết thực góp phần
thúc đẩy phát triển KT- XH của địa phương, điều này đòi hỏi phải có những nghiên
cứu, đánh giá thực trạng và hoàn thiện giải pháp tín dụng phù hợp với điều kiện tự
nhiên và phát triển KT - XH của tỉnh Thái Nguyên và hệ thống ngân hàng.
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, qua thực tế hoạt động của Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên, tác giả đã lựa chọn đề
tài “Hoàn thiện giải pháp tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn cao học.


9


9
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung

Đề tài nghiên cứu phân tích hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng
NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, hoàn
thiện giải pháp tín dụng tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng
NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên.
-Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tín dụng của chi
nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tượng và phạm nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động tín dụng ngân hàng và những nhân tố tác động tới hoàn
thiện giải pháp tín dụng tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên làm
đối tượng nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi về thời gian
Số liệu thu thập trong giai đoạn 2010 - 2013, số liệu điều tra đối với khách
hàng ở tỉnh Thái Nguyên từ 01/2013 đến 6/2014; Giải pháp đến năm 2020.
3.2.2. Phạm vi về không gian
-Phân tích thực trạng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái
Nguyên, chia theo thành phần, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh và loại hình khách
hàng ... so sánh, tham chiếu với một số chi nhánh ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên và ở một số tỉnh khác.
3.2.3. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tín dụng của chi nhánh
ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên: phương thức, hình thức tín dụng, điều
kiện cho vay, huy động vốn, lãi suất, thực trạng hoạt động tín dụng chi nhánh ngân


10

10

hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên, các nhân tố ảnh hưởng tới tín dụng tại chi
nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên.
4. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng của ngân hàng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng
NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên;
- Hoàn thiện giải pháp tín dụng tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh
Thái Nguyên, xây dựng được chính sách tín dụng hợp lý và tạo ra các sản phẩm phù
hợp nhằm mở rộng tín dụng và nâng cao vị thế, chiếm lĩnh thị trường cung cấp tín
dụng tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020;
- Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, áp dụng
trong điều kiện thực tế hiện nay, tạo điều kiện để chi nhánh ngân hàng NN&PTNT
tỉnh Thái Nguyên có cái nhìn tổng quan về thị trường tín dụng tại Thái Nguyên; xác
định được điểm mạnh và điểm yếu của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái
Nguyên. Từ đó, có được những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện cơ chế, mở rộng
tín dụng của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên; kết quả của luận
văn có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định và xây dựng cơ chế, chính
sách tín dụng ngân hàng; cho các nghiên cứu có liên quan.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo,
luận văn kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín dụng ngân hàng
Chương 2: Phương pháp và hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu về tín dụng
ngân hàng
Chương 3: Thực trạng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên
Chương 4: Hoàn thiện giải pháp tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020


11

11

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Tín dụng và sự phát triển của tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá
trình tuần hoàn vốn để giải quyết hiện tượng dư thừa, thiếu hụt vốn diễn ra thường xuyên
giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Theo Mác, “tín dụng dưới hình thái biểu hiện của nó là sự tín nhiệm ít nhiều có
căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác ,một số tư bản nào đó dưới hình
thái hàng hóa hoặc đánh giá thành một số tiền nhất định.Số tiền này bao giờ cũng phải
được trả lại trong một thời gian đã được ấn định.”[1]
Theo từ điển Bách Khoa toàn thư Việt Nam thì: “ tín dụng là một phạm trù kinh
tế, thể hiện mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay. Trong quan hệ này người
cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hóa cho vay cho người

đi vay trong một thời gian nhất định.Đến kỳ hạn trả nợ người đi vay có trách nhiệm hoàn
trả toàn bộ số tiền hoặc hàng hóa đã vay, có kèm hoặc không kèm một khoản lãi”.
Như vậy, phạm trù tín dụng có ba nội dung chính là: (i) Tính chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị; (ii) Tính thời hạn; và (iii) Tính hoàn trả và có lãi.[1]
Tín dụng có nhiều loại như: tín dụng nhà nước, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng
cá nhân và tín dụng Ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng
tài sản (vốn) giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế; Trong mối quan hệ
này, ngân hàng vừa giữ vai trò là người đi vay (con nợ) và vai trò là người cho vay (chủ
nợ). Đây là mối quan hệ gián tiếp mà người tiết kiệm, tổ chức kinh tế, định chế tài chính
thông qua vai trò trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu
cầu về vốn trong nền kinh tế.[6]
Từ phân tích trên, ta khái niệm về tín dụng ngân hàng như sau:
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định [5] .


12

12

Phân biệt tín dụng và cho vay: Bất kỳ sự chuyển giao sử dụng tạm thời (có
hoàn trả) về tài sản đều phản ánh quan hệ tín dụng; mối quan hệ tín dụng này lại được
thể hiện dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính.[5]
Khái niệm hoạt động cho vay: Hoạt động cho vay là việc ngân hàng thỏa
thuận với khách hàng để khách hàng sử dụng một tài sản bằng tiền với nguyên tắc
có hoàn trả.[5]
Như vậy, nội dung tín dụng rộng hơn nội dung cho vay, tuy nhiên trong hoạt
động tín dụng thì cho vay (tín dụng bằng tiền) là hoạt động quan trọng nhất và
chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các NHTM. Chính vì vậy, thuật ngữ tín dụng và cho vay
thường được dùng đan xen và thay thế cho nhau.

1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
1.1.2.1. Đa dạng hóa cho vay và huy động vốn, thúc đẩy phát triển KT – XH[8]
Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện những nguồn tiền
tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời xuất hiện những tổ chức, cá
nhân cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ của ngân hàng là tập trung vốn tạm
thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm thời đang thiếu vốn vay. Trong cơ chế
bao cấp, việc nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay không phải là mục tiêu
quan trọng nhất đối với ngân hàng nhưng trong cơ chế thị trường, hiệu quả hoạt
động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng cho nên các ngân hàng
phải tìm cách tăng lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro bằng cách tập trung đầu tư vào các
dự án trọng điểm, các hộ kinh doanh có hiệu quả.Vì vậy các ngân hàng thương mại
với tư cách là một trung gian tài chính, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy
quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào quá
trình vận động liên tục của nguồn vốn.
Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của
nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì ngân hàng là một công cụ đắc lực, hữu
hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các thành phần kinh tế thì tín dụng ngân hàng là
nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm thời về vốn sản xuất. Đặc biệt trong cơ chế quản
lý mới hiện nay, Nhà nước đã giao quyền tự chủ, các doanh nghiệp và hộ sản xuất
cá thể phải tự hạch toán kết quả kinh doanh. Do đó , tín dụng ngân hàng có vai trò
rất lớn đó là:


13

13

Đáp ứng yêu cầu về vốn cho các thành phần kinh tế phát triển kinh tế. Trong
nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định, hiện tượng thừa, thiếu vốn
thường xảy ra đối với các tổ chức kinh tế nói chung và đối với hộ sản xuất nói

riêng. Hoạt động đầu tư tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế, tạo điều
kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh tình trạng lao động không có việc
làm do thiếu đối tượng và công cụ lao động.
Trong điều kiện nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế còn tình trạng mất cân đối. Do
đó tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, hình thành
cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, nguyên vật liệu.
Như vậy có thể khẳng định rằng tín dụng ngân hàng có vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn phát triển kinh tế -xã hội ở nước ta.
Như vậy, chính nhờ vốn tín dụng ngân hàng đã tạo cho các thành phần kinh tế
mở rộng sản xuất, góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, tạo đà phát triển kinh tế
của toàn xã hội.
Các ngân hàng thương mại, với tư cách là một trung gian tài chính hoạt động
trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán có khả năng kiểm soát bằng đồng tiền
đối với hoạt động của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng là vốn vay phải
hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi. Nhờ đó mà tín dụng ngân hàng thúc đẩy
được quá trình sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, hộ sản
xuất kinh doanh phải thực hiện trả nợ đúng cam kết theo thoả thuận đã ghi trong
hợp đồng tín dụng. Muốn dự án, phương án thực hiện có lãi hộ sản xuất kinh doanh
phải hạch toán kinh tế.
Bằng việc đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế, Ngân hàng đã tạo điều
kiện cho họ làm quen và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Sở dĩ như vậy là vì bất
cứ đơn vị, cá nhân nào muốn tồn tại và phát triển, muốn thị trường chấp nhận sản
phẩm hàng hoá của mình cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí
sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong trường hợp có sử dụng vốn vay ngân hàng thì
lại càng phải tiến hành hạch toán kinh tế, tính toán sao cho đồng vốn đi vay sử dụng
đúng mục đích, có hiệu quả nhất để sau khi trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng các
doanh nghiệp, hộ sản xuất vẫn còn phần thu nhập của mình.



14

14

1.1.2.2. Góp phần thực hiện tốt chính sách tín dụng và chính sách tiền tệ [8]
Ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền thông
qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi ngân hàng mở rộng hoặc thắt chặt tín
dụng sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông Do đó, khi Nhà Nước muốn tăng
khối lượng tiền trong lưu thông thì ngân hàng nhà nước tăng hạn mức tín dụng của
các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại.
Khi tổ chức hoạt động kinh doanh, nếu các NHTM quán triệt được đầy đủ
các quy định về hạn mức tín dụng, lãi suất của Nhà nước, đưa ra các hình thức huy
động và cho vay dựa trên các quy định của chính sách lãi suất, thì chính sách lãi
suất, chính sách tiền tệ mới được tuân thủ và ngược lại.
1.1.2.3. Thúc đẩy sự phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng
[8]
Thứ nhất, từ các chính sách tín dụng làm cho hình thức tín dụng ngày càng
đa dạng hơn, giúp cho ngân hàng mở rộng được quy mô hoạt động kinh doanh, từ
đó mở rộng được thị trường, nâng cao thị phần trong hoạt động tín dụng.
Thứ hai, tín dụng góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng về cho vay
và nhận gửi trong nền kinh tế, góp phần nâng cao lợi nhuận ngân hàng.
Từ trước đến nay, thu nhập chính của ngân hàng là từ lãi cho vay. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện nay, một ngân hàng không chỉ dựa vào nguồn thu từ tín dụng.
Sự gia tăng các tổ chức tín dụng khiến cho lãi suất đầu vào có xu hướng tăng cao
trong khi lãi suất đầu ra không tăng một cách tương ứng, hay nói cách khác là chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi đang có xu hướng thu hẹp lại. Điều
này tất nhiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Để có thể duy trì
mức lợi nhuận như trước, các ngân hàng cần phải:
(1) Tăng cường mở rộng hình thức hoạt động tín dụng, đầu tư sang những

lĩnh vực có mức độ rủi ro lớn hơn để có thể duy trì mức chênh lệch lãi suất như
trước kia.
(2) Đa dạng hóa các phương thức tín dụng, phát triển các phương thức hoạt
động tín dụng mới như các hình thức dịch vụ ngân hàng chuyển tiền, bảo lãnh, đại


15

15

lý uỷ thác…để tăng thêm nguồn vốn thu từ phí dịch vụ, góp phần nâng cao lợi
nhuận ngân hàng.
Ngày nay, trong thời đại công nghệ thông tin, các phương thức tín dụng của
ngân hàng phát triển mạnh mẽ. Việc đa dạng hóa phương thức tín dụng, cung cấp cho
khách hàng các dịch vụ trọn gói đa dạng phong phú, hoàn hảo thì sẽ thu hút được
khách hàng, từ đó có thể tận dụng các nguồn tiền nhàn rỗi trên tài khoản thanh toán của
họ làm tăng khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Hay việc phát triển hình thức dịch
vụ bảo lãnh, tư vấn, quản lý ngân quỹ sẽ giúp khách hàng hoạt động kinh doanh tốt
hơn, từ đó đẩy mạnh sự phát triển và tính hiệu quả của hoạt động tín dụng. Có như vậy
NHTM mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo tăng lợi nhuận ngân hàng.
Thứ ba,hoạt động tín dụng, với những quy định cho vay và nhận gửi rõ ràng,
chặt chẽ vừa góp phần nâng cao lòng tin của khách hàng, vừa đảm bảo an toàn,
chống rủi ro trong hoạt động của NHTM
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
1.1.3.1. Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn
Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn tín dụng gồm có:
- Tín dụng ngắn hạn: Thời gian cho vay và huy động vốn ngắn hạn tối đa 12
tháng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu đáp ứng các nhu cầu vốn lưu động, các đối tượng
có chu kỳ sản xuất kinh doanh không quá 12 tháng.[5]
- Tín dụng trung hạn: Thời gian cho vay và huy động trung hạn từ trên 12

tháng đến 60 tháng. Cho vay trung hạn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án
có thời gian thu hồi vốn đến 60 tháng.[5]
- Tín dụng dài hạn: Thời gian cho vay và huy động vốn dài hạn từ trên 5
năm đến tối đa 15 năm . Cho vay trung hạn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn cho các
dự án có thời gian thu hồi vốn đến từ trên 5 năm đến 15 năm.[5]
1.1.3.2. Căn cứ vào hình thức bảo đảm
Nếu căn cứ vào hình thức bảo đảm an toàn của khoản vay, có thể chia thành
hai loại:
- Cho vay có tài sản bảo đảm: Khoản vay có thể được thế chấp bằng một
lượng tài sản có thể chuyển đổi thành tiền của chính bên vay hoặc bên thứ ba như:


16

16

may móc, gia súc, hàng hoá, sản phẩm, bất động sản, hay thậm chí chính tài sản
hình thành từ vốn vay...[5]
- Cho vay không có tài sản bảo đảm: Các khoản vay không có tài sản bảo đảm
được xem xét cấp cho các khách hàng có uy tín, có tín nhiệm, khách hàng làm ăn
thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh, có lịch sử quan hệ tín dụng tốt với
các ngân hàng hoặc các khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ hoặc các bảo
lãnh tín chấp của các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể, cơ quan theo quy định.[5]
1.1.3.3. Căn cứ vào hình thức cho vay
- Chiết khấu thương phiếu và các loại giấy tờ có giá, theo đó ngân hàng ứng
trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu hoặc giấy tờ có
giá trừ đi phần chênh lệch thu nhập dự tính đem lại cho ngân hàng khi ngân hàng
trở thành chủ sở hữu của thương phiếu và các giấy tờ có giá chưa đến hạn.[5]
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian xác định.[5]

- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng thực hiện không đúng nghĩa vụ
cam kết với các bên đối tác khác.[5]
- Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định về trả tiền thuê và có thoả thuận xử lý tài sản
khi hết hạn hợp đồng thuê.[5]
1.1.3.4. Căn cứ vào mức độ rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu xây dựng các mức độ
rủi ro theo mức độ từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản bao gồm cả nội và ngoại
bảng, trên cơ sở đó có biện pháp phòng ngừa và trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.[4]
- Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ hàng hoá, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng
chịu rủi ro, thiên tai...[4]
- Các khoản nợ đủ tiêu chuẩn và cần chú ý là các khoản nợ tốt hoặc bị quá
hạn thời gian ngắn nhưng khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt.[4]
- Các khoản nợ xấu: là các khoản nợ quá hạn thời gian dài, khả năng trả nợ
rất kém, khách hàng chây ì không trả nợ, có khả năng mất vốn.[4]


17

17

- Các khoản nợ khó đòi: là các khoản nợ mà ngân hàng đã sử dụng quỹ dự
phòng rủi ro để xử lý và được hạch toán theo dõi ngoại bảng.[4]
1.1.4. Nội dung hoạt động tín dụng ngân hàng
1.1.4.1. Quy định về loại hình, thời hạn tín dụng và khách hàng của ngân hàng
(i) Về thể loại hình tín dụng: Tùy thuộc vào mục tiêu huy động và sử dụng
vốn, Ngân hàng thương mại quy định các thể loại tín dụng ngắn hạn, trung hạn hay

dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
-Cho vay ngắn hạn thường áp dụng để cho vay mua vật tư, chi phí đầu vào
của vốn lưu động. ngoài ra, cho vay ngắn hạn còn nhằm thoả mãn nhu cầu tạm thời
về vốn trong thời gian khách hàng chờ nhận được nguồn thu nhập khác và người ta
gọi là cho vay ứng trước hay cho vay bắc cầu ngắn hạn. Như vậy, thời hạn cho vay
không chỉ căn cứ vào khách hàng mua gì (đối tượng vật tư mua sắm) mà còn căn cứ
vào nguồn thu nhập của khách hàng. Cho vay trung, dài hạn thường tài trợ cho các
khách hàng trong việc mua sắm trang thiết bị, máy móc, xây dựng cơ sở vật chất
của khách hàng. Nguồn trả nợ của loại cho vay này chủ yếu là từ khấu hao tài sản
cố định hoặc lấy từ nguồn khác nếu là tài trợ bắc cầu. Đối với loại cho vay trung
hạn, ngân hàng thường thoả thuận với người vay để phân kỳ trả nợ cho phù hợp với
tốc độ tính khấu hao và thu nhập của khách hàng.[5]
- Trong hoạt động huy động vốn, căn cứ theo thời gian người ta chia hình
thức huy động vốn thành huy động ngắn hạn, huy động trung hạn và huy động dài
hạn. Căn cứ vào đối tượng huy động vốn người ta chia thành huy động vốn từ dân
cư, huy động vốn từ doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, huy động vốn từ các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác.[5]
(ii) Thời hạn tín dụng: Ngân hàng cũng quyết định thời hạn vay, thời hạn trả nợ
và phương pháp hoàn trả của từng thể loại, trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.
- Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng.[5]
- Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng mà tại cuối mỗi
khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho Ngân


18

18


hàng. Tuỳ theo từng loại cho vay (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho vay trả góp)
người ta phân ra làm nhiều kỳ hạn nợ.[5]
(iii) Khách hàng: Khi xác định thời hạn nợ và kỳ hạn nợ, ngân hàng căn cứ
vào chu kỳ luân chuyển vật tư hàng hoá của đối tượng xin vay và nguồn thu nhập để
trả nợ của khách hàng. Nhưng chỉ 2 yếu tố trên để cán bộ tín dụng cùng với khách
hàng trả lời câu hỏi: vay thời hạn bao lâu và trả nợ từ nguồn nào?
- Về phương pháp hoàn trả: Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận trước
1 phương pháp hoàn trả và thể hiện trong hợp đồng tín dụng. Thường xẩy ra các
phương pháp hoàn trả như: (1) Trả lãi tách rời với việc trả gốc, tức là trả lãi hàng
tháng hoặc quý…trả gốc một lần khi đến hạn; (2) Trả lãi và gốc thành những kỳ
bằng nhau.[5]
1.1.4.2. Những quy định về phương thức, nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng
Thực tế, các NHTM có nhiều phương thức tín dụng:
Trong hoạt động cho vay, hiện nay Agribank có các phương thức cho vay
từng lần , cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp
vốn, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức thấu chi và
phương thức cho vay khác. Mỗi phương thức cho vay được quy định hoạt động theo
có những nghiệp vụ riêng.
Trong hoạt động huy động vốn, NHTM có các phương thức như huy động
vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi, thường là của các doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội , các nhân bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn; huy động từ các
khoản tiết kiệm của dân cư gồm có tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn; huy
động vốn qua nghiệp vụ đi vay, như vay từ tổ chức tín dụng, vay từ ngân hàng trung
ương; huy động vốn qua phát hành các công cụ nợ thông qua phát hành kỳ phiếu,
trái phiếu ngân hàng.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế, bên cạnh đồng tiền nội tệ, đồng tiền ngoại tệ
cũng xuất hiện ở mỗi nước. Vì thế theo loại tiền, sẽ có phương thức huy động vốn nội
tệ và vốn ngoại tệ. Mỗi phương thức huy động này cũng có những quy định khác nhau,

tùy theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và quan điểm của mỗi nước, mỗi thời kỳ.


19

19

Ngoài ra còn nhiều phương thức huy động khác để huy động vốn trong dân
cư, các tổ chức và doanh nghiệp như phát triển các hoạt động dịch vụ xã hội như
dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh toán, đầu mối
trong hợp đồng đồng tài trợ…
1.1.4.3. Điều kiện tín dụng của ngân hàng
Điều kiện tín dụng, trước hết là điều kiện cho vay là phạm trù rộng, có liên
quan đến một loạt vấn đề như đối tượng cho vay, khả năng thanh toán có thể chấp
nhận, các quy định về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, tín chấp, các quy định về quy mô
của mỗi khoản vay (hay mức cho vay)...Nó có ý nghĩa quan trọng cho ngân hàng
thương mại trong việc cho vay đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục đích, đúng khả
năng, đúng mức độ để đảm bảo các khoản cho vay vừa phục vụ tốt mục tiêu phát
triển sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của xã hội đồng thời đảm bảo cho vốn của
ngân hàng được bảo toàn và có khả năng sinh lợi cao. Sau đây có thể làm rõ một số
điều kiện vay:
- Xác định đối tượng, tư cách cho vay. Xác định đối tượng, tư cách cho vay
có ý nghĩa rất quan trọng không những phục vụ mục tiêu phục vụ khách hàng mà
còn đảm bảo cho bảo toàn vốn của ngân hàng thương mại. Thông thường, tư cách
người vay thường được phân làm hai loại thông tin chủ yếu, đó là: thông tin cố định
danh sách khách hàng: những thông tin ít biến đổi như tên, tuổi, địa chỉ, có thể là
nghề nghiệp và địa vị, uy tín và những thông tin biến đổi như tài sản, khả năng
thanh toán và kinh doanh…tính hợp pháp của người vay.[6]
- Sự bảo đảm khả năng thanh toán có thể chấp nhận. Bảo đảm tín dụng có
thể được hiểu như là một phương tiện tạo cho Ngân hàng một sự đảm bảo rằng sẽ

có một nguồn khác nữa dùng để hoàn trả hay để bảo chi nếu người vay không trả
được nợ hay công việc kinh doanh của người vay bị thất bại, sự bảo đảm tiền vay
thường được áp dụng dưới các hình thức sau: Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, Tín chấp.
Đảm bảo nợ vay bằng hình thức tín chấp: Ta có thể lý giải rằng: Bất cứ một
khoản tiền vay có hiệu quả nào cũng phải dựa vào chính nó; có nghĩa là kết quả của
quá trình sản xuất kinh doanh là nguồn gốc vững chắc để đảm bảo nợ vay. Nếu như
trước khi cấp một khoản tín dụng mà biết chắc rằng Ngân hàng sẽ phải xử lý tài sản
thế chấp thì chắc rằng Ngân hàng đã không quyết định cho vay. Thế nhưng, mỗi


20

20

khoản tín dụng cấp cho khách hàng đều hàm chứa một mức độ rủi ro nhất định gây
ra bởi những sự kiện bất ngờ ảnh hưởng tới tài chính của khách hàng. Như vậy, bảo
đảm nợ là cần thiết; thế nhưng thực hiện điều đó một cách an toàn cũng có nghĩa
rằng: Đối với những trường hợp mà biết chắc rằng người vay có thể sử dụng vốn
vay có hiệu quả; Nhưng hiện tại thì họ chẳng có tài sản gì đáng giá để mà thế chấp
nợ vay hoặc tài sản của họ không thể phát mại được lúc này, ngân hàng có thể quyết
định cho vay mà không yêu cầu thế chấp tài sản. Như vậy, ngân hàng không đứng
về một phía mà đề ra cơ chế cho vay mà cơ chế đó phải thích nghi với môi trường
kinh doanh. Bởi vì, hoạt động của ngân hàng luôn luôn ràng buộc và cùng phát triển
với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Mặc khác, cho vay không có đảm bảo
còn dựa trên tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể có
được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây.
Ngoài ra, có nhiều ngân hàng còn qui định cho vay món nhỏ không yêu cầu
tài sản thế chấp…
- Quy mô của khoản mục tín dụng (mức cho vay). Căn cứ vào phạm vi, môi
trường kinh doanh, nhu cầu tín dụng của cộng đồng, vốn tự có, khả năng của nhân

viên ngân hàng, nhu cầu thanh khoản, mỗi ngân hàng xác định quy mô tối đa của
khoản mục tín dụng ngân hàng mình.[6]
Ngân hàng xác định qui mô của từng khoản vay dựa trên cơ sở nhu cầu
vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh và vốn tự có của người vay, các ngân
hàng thường quy định mức cho vay tối đa cho từng loại khách hàng. Chẳng hạn,
đối với khoản vay dành cho cá nhân, quy định mức cho vay tối đa là bao nhiêu?
Tiếp đó người ta còn có thể phân tổ các khách hàng như: nhóm khách hàng có
thu nhập thấp; nhóm khách hàng có thu nhập trung bình và khá; nhóm khách
hàng là những người giàu; nhóm khách hàng tiềm năng; ngân hàng quy định cho
mỗi nhóm khách hàng có một mức vay tối đa. Còn đối với khách hàng là doanh
nghiệp, ngân hàng qui định mức cho vay tối đa đối với từng doanh nghiệp căn cứ
vào tình hình tài chính của doanh nghiệp, qui mô sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp; đó là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa hay nhỏ và căn cứ vào vốn tự
có của doanh nghiệp. Tỷ lệ giữa vốn tự có của doanh nghiệp so với vốn vay nên
giữ ở mức lớn hơn hoặc bằng một. Nhưng điều đó cũng còn tuỳ thuộc vào từng


21

21

loại cho vay; cho vay ngành sản xuất hay kinh doanh hay cho vay tiêu dùng; cho
vay ngắn hạn hay trung hạn.
Thông qua qui định của ngân hàng cấp trên về mức cho vay tối đa đối với từng
loại khách hàng, cán bộ ngân hàng cơ sở tự xem xét tính toán để quyết định mức vay
cho mỗi khách hàng cụ thể. Xác định đúng mức vay cho một khách hàng có nghĩa là
định lượng được rõ nhu cầu của người vay chứ không phải ý muốn của họ. Có nghĩa
là xác định được dòng lưu ngân của mỗi một doanh nghiệp, một cá thể vay để định
được mức vay cần thiết. Nếu xác định mức cho vay không phù hợp, dẫn đến món vay
có thể đầu tư sang việc khác (sử dụng vốn sai mục đích), nếu như mức vay lớn hơn

nhu cầu thì có thể họ sử dụng một phần vốn không nhằm mục tiêu sinh lời; nói như
vậy, không xét tới những món vay tiêu dùng. Vì vậy, cán bộ tín dụng đôi khi giúp
khách hàng của mình tính toán để xây dựng dòng lưu ngân là rất cần thiết.
1.1.4.4. Các quy định về định giá các khoản tín dụng hay lãi suất tín dụng
Việc định giá các khoản cho vay của ngân hàng bao gồm việc ấn định lãi
suất, thiết lập yêu cầu kết số dư bù trừ đối với các doanh nghiệp và trong nhiều
trường hợp người vay phải chịu chi phí cho vay. Như vậy, giá của khoản tín dụng
bao gồm các khoản phí và lãi suất tín dụng.[5]
Lãi suất có thể được qui định là lãi suất cố định hoặc lãi suất biến đổi (lãi
suất thả nổi). Lãi suất cố định là mức lãi suất được ấn định trong suốt thời hạn nợ
của hợp đồng. Lãi suất biến đổi là một lãi suất có thể thay đổi trong suốt thời hạn
cho vay; các ngân hàng thường đưa ra một chỉ số tham khảo hoặc lãi suất tham
khảo để điều chỉnh lãi suất; chẳng hạn, lãi suất tham khảo LIBOR ( Lãi suất liên
ngân hàng Anh); lãi suất của thị trường liên ngân hàng, lãi suất cơ bản; lãi suất trần
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đối với những nước có quy định lãi suất trần,
lãi suất huy động có kỳ hạn tuỳ thuộc vào từng thời điểm…[5]
- Khi định giá khoản cho vay, nhiều ngân hàng quy định mức lãi suất cố định
cho tất cả các khách hàng có cùng một loại vay. Như lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi
suất cho vay trung dài hạn, lãi suất cho vay trả góp…Nhưng cũng có những ngân
hàng đưa ra những quy định cụ thể và những tiêu thức cơ bản để yêu cầu nhân viên
ngân hàng tự phải thương lượng lãi suất cho mỗi khoản cho vay. Nhưng cán bộ tín
dụng cũng cần có một mức lãi suất để tham khảo; Ví dụ: lãi suất cơ bản hay lãi suất


22

22

bình quân của chi nhánh của mình hay một phạm vi lãi suất nào đó do ngân hàng quy
định. Khi định giá khoản vay, nhân viên tín dụng thường căn cứ vào những yếu tố

như: (1) Chi phí đầu vào của các nguồn vốn của ngân hàng; (2) Chi phí quản lý ngân
hàng; (3) Chi phí quản lý tín dụng, có liên quan đến qui mô của khoản cho vay, số
lượng điều tra tín dụng cần thực hiện, chi phí bảo quản và duy trì sự kiểm soát vật
cầm đồ và chí phí để thu nợ; (4) Rủi ro tín dụng (vỡ nợ) của khoản cho vay: xem xét
yếu tố này, người ta thường tính tới dự đoán khả năng rủi ro và cân nhắc tỉ lệ rủi ro
chung của toàn ngân hàng; (5) Rủi ro lãi suất: Đối với mức lãi suất cố định, rủi ro lãi
suất dự tính căn cứ vào xu hướng lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn; (6)
Mức lãi suất có thể chấp nhận với người vay: xem xét tới khả năng cạnh tranh trên thị
trường để định cho người vay một mức lãi suất hợp lý; (7) Mối quan hệ giữa ngân
hàng và người vay: điều này bao gồm uy tín của người vay, khách hàng truyền thống
và những thu nhập khác của ngân hàng thông qua dịch vụ thanh toán, chuyển tiền,
quản lý tiền gửi và các khoản uỷ thác thu chi của khách hàng.[5]
Định giá khoản vay là quan trọng, vì nó đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân
hàng. Trong một số trường hợp cụ thể; lãi suất cho vay được ấn định bởi người chủ
đầu tư. Chẳng hạn, một số nước uỷ thác cho các ngân hàng thương mại cho vay ưu
đãi đối với sinh viên hay cho vay ưu đãi để tái chiết khấu các công trình công cộng,
cho vay ưu đãi đối với người nghèo.
Cũng như trong cho vay, trong huy động vốn NHTM cũng phải có những
quy định về điều kiện để huy động vốn, qua đó, các NHTM trong hệ thống làm căn
cứ để huy động. Một trong những điều kiện quan trọng đó là lãi suất huy động vốn.
Khi huy động vốn, NHTM đóng vai trò của người đi vay, phải trả lãi suất. Lãi suất
huy động phải nhỏ hơn lãi suất cho vay, mới có phần chênh lệch để phù đắp chi phí
hoạt động và mở rộng kinh doanh của ngân hàng.
1.1.4.5. Một số quy định tín dụng khác
Ngoài ra, còn một số quy định tín dụng khác như là: cam kết cho vay, quản
lý khoản vay có vấn đề (nợ khó đòi, quyền phán quyết cho vay).


23


23

- Cam kết cho vay là việc ngân hàng và người vay ký kết hợp đồng tín dụng
(khế ước cho vay) chính thức, qua đó ngân hàng đồng ý cho người vay một mức tín
dụng nhất định.[6]
- Quản lý khoản vay có vấn đề là việc ngân hàng đề ra các biện pháp có thể
được áp dụng sau khi một người vay chậm trả nợ hoặc một vụ vỡ nợ nào đó xảy ra
mà người vay không có khả năng trả nợ. Các nội dung quản lý khoản vay có vấn đề
thường đề cập tới là: tìm ra các dấu hiệu của khoản vay có vấn đề. Phân tích nguyên
nhân của khoản nợ quá hạn, ngăn ngừa các khoản cho vay có vấn đề và các biện
pháp xử lý.[6]
- Quyền phán quyết cho vay là việc ngân hàng định ra mức cho vay, thời hạn
cho vay hay đối tượng cho vay cho từng cấp cán bộ; vượt giới hạn cho phép thì
khoản cho vay phải được trình lên cấp trên.[6]
Trên đây, tôi muốn đề cập đến những nội dung chủ yếu của hoạt động tín
dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường để từ đó làm cơ sở nghiên cứu hoạt
động tín dụng của các NHTM . Đó cũng là đối chứng để rút ra giải pháp tín dụng
thích hợp đối với Agribank tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng ngân hàng
1.2.1. Những nhân tố khách quan
1.2.1.1. Pháp luật và chính sách tín dụng của Nhà nước và Quốc tế [5]
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại luôn chịu sự tác động mang
tính quyết định của các quy định pháp luật và chính sách tín dụng. Khi môi trường
luật pháp, chính sách thay đổi thì những hoạt động tín dụng cũng thay đổi theo.
Chẳng hạn, trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đối tượng phục vụ
khách hàng của ngân hàng thương mại chỉ là các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng
khi chuyển sang kinh tế thị trường, môi trường pháp lý thay đổi, khách hàng phục
vụ của ngân hàng thương mại ngoài các doanh nghiệp nhà nước còn là các doanh
nghiệp ngoài nhà nước. Để phù hợp với thực tế đó, có rất nhiều văn bản được ban
hành như: Thông tư số 09/2004/TT-NHNN ngày 21/12/2004 “hướng dẫn việc vay

và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp”, Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày
1/11/2005 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý vay, trả nợ nước ngoài …


24

24

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kinh tế hộ gia đình không được chú trọng
nhưng trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hộ gia đình được khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển . Cùng với đó là sự thay đổi của chính sách tín dụng và các quy
định pháp luật như: Chỉ thị số 202-CT ngày 28/06/1991 “về việc cho vay vốn sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp,đến hộ sản xuất” , nghị
định 41/2010 NĐ-CP của Chính phủ “Về chính sách tín dụng phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn” …
Đặc biệt, các chính sách tín dụng(chính sách hạn mức tín dụng, và chính sách
lãi suất) có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại…
Ở nước ta hiện nay, các quy định pháp luật liên quan đến cơ chế tín dụng của
vụ ngân hàng thương mại còn có những hạn chế. Hiện có những văn bản pháp lý
mang tính điều chỉnh chung cho cơ chế tín dụng, đặc biệt trong các lĩnh vực thanh
toán quốc tế, ngân hàng điện tử. Một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất,
ảnh hưởng đến công tác huy động và sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Đồng
thời pháp luật Việt Nam chưa nâng cao khả năng đối phó của Ngân hàng thương mại
với các hành vi vi phạm, gian lận hoạt động tín dụng. Chính những điểm này tác
động mạnh tới hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nói chung.
Hiện nay, khi các ngân hàng trên thế giới đã đề cập tới việc áp dụng chuẩn
mực Basel III thì các ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa chính thức đề cập tới việc áp
dụng một chuẩn mực nào của Basel. Mặc dù các quy định trong những năm gần đây
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) như Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết
định 457/2005/QĐ-NHNN, ngày 20/8/2010, NHNN đã ban hành Thông tư 13,

19/2010/TT-NHNN thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Các văn bản này cũng đã đề
cập tới một số vấn đề liên quan tới các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn
ở mức rất hạn chế. Việc các ngân hàng thương mại tại Việt Nam chưa áp dụng các
chuẩn mực của Basel một cách chính thức nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro
trong khi các ngân hàng trên thế giới đã có những bước phát triển cao hơn sẽ làm
giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam.[15]


25

25

Việc tiếp cận với các chuẩn mực của Basel, đặc biệt là Basel II đòi hỏi kỹ
thuật phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang
ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel 2 gặp nhiều khó
khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa
thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới,
việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm
tăng cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại
và nâng cao năng lực cạnh tranh trong thị trường tài chính quốc tế, tạo điều kiện cho
các ngân hàng Việt Nam có thể mở rộng thị trường trong thời gian tới.
Một trong những khía cạnh thể hiện sự ảnh hưởng của môi trường pháp lý và
cơ chế chính sách rất rõ ràng là tạo môi trường cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cạnh tranh không được chấp
nhận. Ngân hàng thương mại vì thế cũng không phải đối mặt với cạnh tranh. Song từ
khi chuyển sang cơ chế thị trường, và khi Việt Nam gia nhập WTO , các rào cản bảo
hộ trong nước đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng dần bị dỡ bỏ, các ngân hàng chịu
sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng thương mại kể cả với các ngân
hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Chẳng hạn, tính đến hết 31/12/2013

địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 06 NHTM Nhà nước: NHTMCP Công Thương chi
nhánh Thái Nguyên (Vietinbank), NHTMCP Công Thương chi nhánh Lưu Xá,
NHTMCP Công Thương chi nhánh Sông Công,ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh Thái Nguyên (Agribank), TMCP Đầu tư & PT Thái Nguyên (BIDV),
Ngân hàng CPTM Ngoại thương chi nhánh Thái Nguyên(Vietcombank); ngân hàng
Chính sách xã hội, ngân hàng Phát triển và 11 ngân hàng TMCP: NHTMCP Quốc Tế
(VIB), NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank), NHTMCP An Bình (AB Bank),
NHTMCP kỹ thương (TechcomBank), NHTMCP Quân Đội (MB), Ngân hàng Á
Châu (ACB),NHTMCP Hàng Hải (Maritime Bank), NHTMCP Sài Gòn thương tín
(Sacombank), NHTMCP Đông Á, Ngân hàng Đông Nam Á (SeaBank) NHTMCP
Nam Việt, 02 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 01 tổ chức tài chính vi mô. Mỗi ngân
hàng thương mại có chính sách tín dụng cũng khác nhau. Do đó, hoạt động tín dụng
của các ngân hàng thương mại cũng phải có sự biến đổi phù hợp, vừa tuân theo pháp


×