1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa cân - béo phì (TC-BP) được biết đến như là một vấn đề sức khỏe
cộng đồng quan trọng ở nhiều nước công nghiệp phát triển, làm tăng tỉ lệ tử
vong và nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây như: đái tháo đường, tăng
huyết áp, bệnh tim mạch và ung thư. Năm 2000, Tổ chức Y tế Thế giới xuất
bản chuyên khảo “Béo phì - nạn dịch toàn cầu”[59], trong đó đã đưa ra những
cảnh báo quan trọng về dịch tễ học, gánh nặng về sức khỏe, bệnh tật. Không
chỉ ở các nước Đông Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ - nơi tỷ lệ béo phì ở
người trưởng thành dao động từ 13% đến trên 20% mà ngay cả ở những nước
đang phát triển, thì TC-BP cũng đang có xu hướng tăng nhanh. Các điều tra
gần đây ở Thái Lan cho thấy tỉ lệ TC-BP là 16%. Tỉ lệ béo phì ở Ấn Độ,
Malaysia và Trung Quốc tương ứng là 16,5%; 8,6% và 4,3%[47]. Béo phì
không chỉ do chế độ ăn uống thiếu khoa học (mất cân bằng với nhu cầu cơ
thể) mà còn do những yếu tố có liên quan (giảm hoạt động thể lực, stress, ô
nhiễm môi trường và cả những vấn đề xã hội...). Béo phì ở trẻ em dễ dẫn tới
những ảnh hưởng nặng nề về tâm lý ở trẻ như tự ti, nhút nhát, kém hòa đồng,
học kém [17][19].
Ở Việt Nam, các cuộc điều tra nhân khẩu học trước năm 1995 cho thấy tỉ
lệ TC-BP hầu như không có [6]. Năm 2000 điều tra tại các thành phố lớn thì tỉ
lệ TC - BP ở lứa tuổi học sinh tiểu học Hà Nội là 10%, thành phố Hồ Chí
Minh là 12%. Khảo sát tại hai thành phố này đều cho thấy có hiện tượng gia
tăng tỉ lệ TC-BP ở trẻ lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và học sinh tiểu học[15].
Thành phố Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm tỉnh Hải Dương, với diện
tích 7.138,60 ha; dân số 253.893 người (2009), trong đó có 19.148 trẻ trong
độ tuổi tiểu học (chiếm 7,5%), lại chưa có nhiều nghiên cứu khảo sát về tỷ lệ
TC - BP và tìm hiểu các yếu tố liên quan. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên
2
cứu đề tài “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến thừa cân, béo phì ở
học sinh tiểu học tại thành phố Hải Dương năm 2015” nhằm mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ thừa cân - béo phì ở học sinh tiểu học trên địa bàn thành
phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương năm 2015.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến thừa cân - béo phì ở học sinh tiểu
học trên địa bàn thành phố.
Kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra kiến nghị cải thiện tỷ lệ thừa cân - béo
phì ở học sinh tiểu học trên địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.
Dinh dưỡng, bệnh tật và sức khoẻ
Thừa cân là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với
chiều cao. Còn béo phì là tình trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình
thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu tới sức
khoẻ[57][58]. Hiện nay, Tổ chức y tế thế giới thường dùng chỉ số khối cơ thể
(Body Mass Index - BMI) để nhận định tình trạng gầy béo.
Nói ăn uống cần thiết với sức khoẻ đó là một chân lý hiển nhiên. Nhờ
các phát hiện của dinh dưỡng học người ta lần lượt biết thức ăn có các thành
phần dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Đó là các protein, lipid, glucid, các
vitamin, các khoáng chất và nước[41]. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý và đầy
đủ đặc biệt là các chất dinh dưỡng, là cơ sở tạo nên một nền tảng vững chắc
cho sức khoẻ sau này. Mỗi giai đoạn phát triển của cuộc đời, mỗi điều kiện
lao động cụ thể, mỗi trạng thái sinh bệnh lý của cơ thể… cần phải có một chế
độ dinh dưỡng phù hợp. Hiện nay, hơn bao giờ hết khi điều kiện kinh tế xã
hội ngày càng phát triển thì vấn đề dinh dưỡng ngày càng được quan tâm.
1.2.
Các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm chức phận, cấu trúc và
hoá sinh phản ánh mức đáp ứng các nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể[25]. Đánh
giá dinh dưỡng là quá trình thu thập và phân tích thông tin, số liệu về tình
trạng dinh dưỡng và nhận định tình hình trên cơ sở các thông tin số liệu đó.
Một số phương pháp định lượng chính được sử dụng trong đánh giá tình trạng
dinh dưỡng như[18],[2]:
+ Nhân trắc học
+ Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống
4
+ Các thăm khám thực thể / dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm cận lâm
sàng chủ yếu là hóa sinh ở dịch thể và các chất bài tiết (máu, nước tiểu...) để
phát hiện mức bão hòa chất dinh dưỡng.
+ Các kiểm nghiệm chức phận để xác định các rối loạn
+ Điều tra tỉ lệ bệnh tật và tử vong, sử dụng các thống kê y tế để tìm
hiểu mối liên quan giữa tình hình bệnh tật và tình trạng dinh dưỡng.
+ Đánh giá các yếu tố sinh thái liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và
sức khỏe.
Trong đó, hai phương pháp thường sử dụng nhiều nhất là nhân trắc và
điều tra khẩu phần ăn mà các số đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp
tình trạng dinh dưỡng[40].
Sử dụng các số đo nhân trắc trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng là
phương pháp làm phổ thông và được áp dụng rộng rãi. Các số đo nhân trắc
của cơ thể cung cấp sơ lược sự phát triển hay kích thước cơ thế đạt được hoặc
là sự thay đổi của các kích thước này qua thời gian. Chúng được dùng để mô
tả tình trạng dinh dưỡng của các thể hay cộng đồng, phản ánh kết quả cuối
cùng là việc cung cấp thực phẩm vào, hấp thu, chuyển hoá các chất dinh
dưỡng của cơ thể[13][28].
1.3.
Tình trạng thừa cân, béo phì trẻ em hiện nay
1.3.1. Trên thế giới
Trên thế giới, thừa cân và béo phì là yếu tố nguy cơ thứ 5 gây tử vong với
gần 2,8 triệu người trưởng thành tử vong hàng năm. Bên cạnh đó, 44% béo
phì, 23% thiếu máu cục bộ ở tim và từ 7% đến 41% mắc một số bệnh ung thư
có nguyên nhân từ thừa cân và béo phì. Trong 3 thập kỷ qua (1980 - 2010) số
ca béo phì đã tăng gấp đôi trên toàn thế giới[48],[49]. Tổng hợp số liệu
nghiên cứu từ 450 nghiên cứu cắt ngang của 144 quốc gia về tình hình TC -
5
BP ở trẻ tiền học đường đến năm 2010 có 43 triệu trẻ, trong đó 35 triệu trẻ bị
TC - BP ở các nước đang phát triển với tỉ lệ 6,7%[50].
Ngày nay trẻ em cũng đã và đang trở thành nạn nhân của chứng béo
phì, nguyên nhân có thể do di truyền, chế độ ăn uống không hợp lý, lười vận
động…Tại châu Á, tỷ lệ TC, BP lứa tuổi học sinh cũng gia tăng nhanh chóng.
Tại Trung Quốc, các cuộc điều tra theo 4 giai đoạn khác nhau trong khoảng từ
năm 1989 và 1997 thấy tỷ lệ thừa cân ở trẻ em từ 2 đến 6 tuổi tăng rất nhanh
từ 15% lên 29%, đặc biệt ở các vùng đô thị [51]. Ở Thái Lan, trong những
năm 1990, tỷ lệ BP ở trẻ từ 6 - 12 tuổi tăng từ 12% lên 16 % chỉ trong vòng 2
năm [46]. Béo phì ở trẻ em đã trở thành vấn đề sức khoẻ ưu tiên thứ hai trong
phòng chống bệnh tật ở các nước châu Á và được xem như là một trong
những thách thức đối với ngành dinh dưỡng và y tế[51].Đây là nhân tố tác
động lớn đến chất lượng dân số của quốc gia vì tác động trực tiếp đến thế hệ
tương lai của đất nước.
1.3.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, TC - BP đang tăng nhanh và trở thành vấn đề sức khoẻ
cộng đồng của thế kỷ XXI. Điều tra toàn quốc ở đối tượng từ 25 - 64 tuổi tại 8
vùng sinh thái năm 2005 thấy tỷ lệ TC, BP (BMI >23) là 16,3%, trong đó
9,7% thừa cân; 6,2% béo phì độ I và 0,4% béo phì độ II. Tỷ lệ BP gia tăng
theo tuổi, ở nữ cao hơn ở nam, thành thị cao hơn ở nông thôn. Các yếu tố liên
quan đến thừa cân, béo phì là khẩu phần ăn giàu thức ăn động vật, thói quen
ăn ở ngoài gia đình, tăng sử dụng thức ăn nhanh, lạm dụng rượu, bia và ít vận
động[3].
Tỷ lệ bị thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 5,6%, trong đó ở thành
phố là 6,5%, ở nông thôn là 4,2%. Ước tính cả nước có khoảng 460.000 trẻ
trong độ tuổi này bị thừa cân, béo phì. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ trẻ TC-BP ở
trẻ dưới 5 tuổi đang có xu hướng gia tăng nhanh, từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ
6
này đã tăng lên gần 10 lần (năm 2000 chỉ có khoảng 0,62% trẻ bị thừa cân,
béo phì).
Tại Hà Nội, điều tra cắt ngang 3.434 trẻ 6-11 tuổi tại 2 trường tiểu học
Hà Nội năm 1997 của Lê Thị Hải và cộng sự xác định tỉ lệ TC chung là
4,1%[34]. Năm 2011, Trịnh Thị Thanh Thủy nghiên cứu trẻ 6-11 tuổi tại quận
Đống Đa, Hà Nội và có kết quả tỉ lệ TC - BP là 12,9%; trẻ trai là 17,9% và trẻ
gái là 7,4%[28]. Năm 2000, tỷ lệ TC ở học sinh từ 6 -11 tuổi tại quận Hồng
Bàng, TP. Hải Phòng là 10,4%, trong đó TC nam là 13,0%, TC nữ là
7,5%[14]. Tại TP Hồ Chí Minh tỷ lệ béo phì cũng có xu hướng gia tăng ở lứa
tuổi tiểu học và người trưởng thành (trên 40 tuổi). Riêng tỷ lệ thừa cân, béo
phì ở trẻ em lứa tuổi tiểu học tăng hơn 85% so với 10 năm trước. Ước tính,
hiện 1/4 trẻ em tuổi tiểu học ở TP Hồ Chí Minh bị thừa cân, béo phì[41]. Số
liệu tổng hợp của Lê Nguyễn Bảo Khanh cho thấy tại thành phố Hồ Chí Minh
tỉ lệ TC - BP ở học sinh tăng nhanh: 2,5% (năm 1995); 12,2% (năm 1998) lên
đến 17,1% (năm 2005)[16]. Cũng tại TP. Hồ Chí Minh, điều tra ở học sinh
tiểu học năm học 2002 – 2003 thấy tỷ lệ TC, BP là 9,4%, nhưng tới năm học
2008 – 2009 thì tỷ lệ này đã lên tới 20,8% và 7,7% ở 2 trường thuộc quận 10
[32]. Nghiên cứu tại Đà Nẵng ở học sinh tiểu học năm 2006 - 2007 thấy tỷ lệ
TC là 4,9% và nguy cơ TC là 8,7%[31]. Tại Huế, điều tra năm 2009 ở trẻ từ
2-5 tuổi tại một số trường mầm non thành phố Huế cho tỉ lệ TC - BP là
7,8%[44]. Tại khu vực Tây Nguyên nghiên cứu tại TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắc Lắc năm 2004 thấy tỷ lệ TC - BP ở trẻ em tiểu học từ 6 - 11 tuổi là
10,4%, trong đó tỷ lệ TC, BP ở trẻ trai là 11,1% và trẻ gái là 9,5%[3] điều tra
của Đặng Oanh và cộng sự năm 2010 tại các thành phố Kon Tum, Pleiku,
Buôn Ma Thuột và thị xã Gia Nghĩa trên 1.800 học sinh tiểu học cho tỉ lệ TC
- BP lại là 6,1%[30].
7
1.4.
Phân loại tình trạng dinh dưỡng
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì thừa cân là tình trạng vượt quá
cân nặng nên có so với chiều cao còn béo phì là tình trạng tích lũy mỡ thái
quá không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể của lipid trong các tổ
chức mỡ tới mức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Có nhiều chỉ số có thể dùng
để đánh giá tình trạng TC - BP. Dựa theo cách phân loại của P.S.Shetty và
W.P.T.James và được tổ chức WHO khuyến nghị như sau:
Bảng 1.1 : Phân loại TTDD dựa theo thang phân loại của WHO
Tình trạng dinh dưỡng
Chỉ số BMI
Thiếu năng lượng trường diễn
BMI < 18,5
Bình thường
18,5 ≤ BMI < 25
Thừa cân
BMI ≥ 25
Tiền béo phì
25 ≤ BMI < 30
Béo phì độ I
30 ≤ BMI < 35
Béo phì độ II
35 ≤ BMI < 40
Béo phì độ III
BMI ≥ 40
Cách tính BMI:
Cân nặng (kg)
BMI =
(Chiều cao)2 (m)
Ở trẻ em (từ 5 -19 tuổi) có thể đánh giá tình trạng dinh dưỡng dựa trên
BMI theo tuổi và giới do ở lứa tuổi vị thành niên cơ thể đang phát triển, chiều
cao chưa ổn định nên không dùng một ngưỡng BMI như người lớn mà phải
tính theo tuổi và giới của trẻ. Sử dụng quần thể tham khảo của WHO 2007 với
các điểm ngưỡng sau[45]:
8
Bảng 1.2: Phân loại BMI theo WHO 1998
XẾP LOẠI
Gầy
Trung bình
Thừa cân
Béo phì
Trung bình
Nặng
Rất nặng
BMI
<18.5
18.5 – 24.9
25 – 29.9
30 – 34.9
35 – 39.9
>40
Bảng1.3: Phân loại TTDD ở trẻ em 5 - 19 tuổi (theo WHO 2007)
BMI theo tuổi
Tình trạng dinh dưỡng
<5 percentile
Trẻ gầy hoặc thiếu dinh dưỡng
85 percentile
Thừa cân
95 percentile
Béo phì
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân loại tình trạng dinh
dưỡng của các học sinh tiểu học dựa trên thang phân loại percentile để có
được kết quả chính xác nhất.
1.5. Các yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì
1.5.1. Yếu tố gia đình & yếu tố di truyền
Khi cha mẹ béo phì thì tỉ lệ con cái béo phì rất cao, có nhiều nghiên cứu
đã chứng minh rằng cân nặng của trẻ liên quan đến bố mẹ đẻ chúng. Một
nghiên cứu ở Thái Lan trên trẻ từ 6-13 tuổi (1996) cho thấy tỉ lệ con cái có
cha mẹ béo phì bị béo phì nhiều hơn gấp 3,1 lần so với những trẻ em có cha
mẹ không bị béo phì. Trong số trẻ béo phì, khoảng 80% có cha hoặc mẹ bị
béo phì, 30% có cả cha và mẹ bị béo phì. Gia đình có nhiều cá nhân bị béo
phì thì nguy cơ béo phì cho những thành viên khác là rất lớn[3]. Trẻ là con
9
một, con út, con đầu lòng; trẻ ở gia đình chỉ có cha hoặc mẹ thường được
nuông chiều không có sự tranh giành trong gia đình, trẻ được ăn uống theo ý
thích nên thường tăng cân. Nghiên cứu của Trần Thị Xuân Ngọc (2012) nhận
thấy rằng nếu trẻ có bố bị TC - BP thì nguy cơ ở trẻ bị thừa cân, béo phì gấp
2,9 lần, còn mẹ bị TC - BP thì nguy cơ ở trẻ bị thừa cân, béo phì gấp 24,8
lần[43].
Yếu tố di truyền có vai trò nhất định đối với những trẻ béo phì, có nhiều
nghiên cứu đã chứng minh rằng cân nặng của trẻ liên quan đến bố mẹ đẻ chúng.
1.5.2. Khẩu phần và thói quen ăn uống của trẻ thừa cân, béo phì:
Song song với sự phát triển về dân số, dịch tễ học thì dinh dưỡng với chế
độ ăn chủ yếu dựa vào lương thực, rau củ chuyển sang một chế độ ăn nhiều
thịt, mỡ, đường, thức ăn chế biến công nghiệp được gọi là “chế độ ăn phương
Tây hóa”. Bữa ăn và nếp sống dân tộc truyền thống đang bị cạnh tranh bởi
cách ăn và lối sống đô thị hóa, sự phân cực giàu nghèo trong xã hội gia tăng,
tập quán nuôi con bằng sữa mẹ đang bị đe dọa bởi những lời quảng cáo hấp
dẫn của các hãng sữa làm cho tỉ lệ thừa cân cả trẻ con và người lớn tăng
nhanh kèm theo các hậu quả sức khỏe của nó[17].
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy thực phẩm chế biến ngoài gia đình chứa năng
lượng, chất béo toàn phần, chất béo no, cholesterol và natri cao hơn so với
thức ăn được chuẩn bị ở nhà. Người dân Mỹ thường ăn ở nhà hàng có xu
hướng BMI cao hơn những người ăn ở nhà và có tới 30 - 70% số trẻ em Mỹ
có sử dụng thức ăn nhanh tại các nhà hàng. Những người thường ăn ở ngoài
nhiều làm tăng tiêu thụ thức ăn đậm độ năng lượng cao hơn khi ăn ở
nhà[34],[57].
Một số nghiên cứu ở Việt Nam lứa tuổi học đường cho thấy những trẻ hay
ăn bữa phụ nhất là vào buổi tối dễ mắc béo phì [6], [34], [41], [50].
10
1.5.3. Hoạt động thể lực và béo phì:
Tình trạng thừa năng lượng của trẻ không chỉ do khẩu phần ăn quá
nhiều mà còn do tình trạng không tham gia các hoạt động thể lực, thời gian
xem vô tuyến nhiều đã làm giảm tiêu hao năng lượng ở trẻ và tăng nguy cơ
mắc TC - BP ở lứa tuổi này[58].
Ngày nay xã hội càng phát triển, chương trình tivi dành cho trẻ em càng
đa dạng và hấp dẫn, số giờ phát sóng lại liên tục trong ngày do đó trẻ càng có
nhiều cơ hội tiếp cận với tivi[43]. Xem tivi thường kèm với ăn vặt và bản chất
các thức ăn này thường giàu calo. Vì vậy, xem tivi là sự kết hợp của tăng
lượng ăn vào và giảm lượng tiêu hao ở trẻ.
Hoạt động và vận động của cơ thể gồm 2 phần khác nhau:
- Vận động hàng ngày (làm việc và sinh hoạt).
- Vận động tích cực (tập luyện thể dục thể thao).[37]
Trẻ em hoạt động thể lực nhiều thì càng có cơ thể khoẻ mạnh sẽ ít liên
quan đến tăng huyết áp nhất là trẻ dưới 5 tuổi và càng có ít nguy cơ trở thành
béo phì khi lớn. Nếu hoạt động thể lực được duy trì thường xuyên trong suốt
cuộc đời thì việc tăng khối mỡ có thể bị ngăn chặn[57][58].
1.5.4. Các yếu tố tăng trưởng của cơ thể
Cả 2 thể: tăng kích thước của tế bào mỡ và tăng số lượng tế bào mỡ đều
dẫn tới sự gia tăng khối lượng cơ thể dẫn đến béo phì. Ở độ tuổi trưởng thành,
béo phì hầu như là do tăng kích thước tế bào mỡ (thể béo phì đại) và việc
giảm cân nặng ở những đối tượng này cũng dễ dàng hơn, chỉ cần tuân thủ
nghiêm ngặt chế độ ăn đưa vào cơ thể, kết hợp luyện tập thân thể và kết hợp
sử dụng một số loại thuốc là được. Ngược lại, ở độ tuổi thiếu niên bị béo phì
(thường là tăng số lượng tế bào mỡ hoặc kết hợp với tăng kích thước tế bào
mỡ), việc giảm cân ở những đối tượng này thật sự khó khăn, nhiều trường
hợp gần như là không chữa được.
11
1.5.5. Các rối loạn nội tiết
Hiện nay vẫn tồn tại một câu hỏi tiểu đường có phải là một nguyên
nhân hoặc hậu quả của việc tăng mỡ hay không? Chỉ biết rằng chắc chắn có
một sự liên quan mật thiết giữa hai bệnh này. Ngoài ra các bệnh thấp khớp và
bệnh tim có liên quan đến tăng trọng vì khi bị các chứng bệnh này bệnh nhân
sẽ giảm vận động. Vì vậy nên chú ý đến vận động và dùng thuốc đối với
những bệnh nhân này nếu muốn giảm cân.
1.6. Cơ chế bệnh gây ra béo phì
Như chúng ta đã biết năng lượng dự trữ trong cơ thể là hiệu số của
năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao. Cân bằng năng lượng dương tính
xảy ra khi năng lượng ăn vào nhiều hơn năng lượng tiêu hao nó làm tăng dự
trữ năng lượng và tăng cân, cân bằng năng lượng âm tính xảy ra khi năng
lượng ăn vào ít hơn năng lượng tiêu hao nó làm giảm dự trữ năng lượng và
giảm cân, như vậy chỉ khi có cân bằng năng lượng dương tính xảy ra thì mới
có khả năng phát triển thành béo phì. Chế độ ăn giàu lipid hoặc đậm độ nhiệt
cao có liên quan chặt chẽ tới sự gia tăng của tỉ lệ béo phì. Các thức ăn giàu
chất béo thường ngon nên người ta ăn quá nhiều mà không biết. Khi vào cơ
thể các chất protid, lipid, gluxit đều có thể chuyển hóa thành chất béo dự trữ,
vì vậy không thể coi việc ăn nhiều thịt, mỡ mới gây béo mà ăn quá nhiều chất
bột, đường và đồ ngọt đều có thể gây béo phì.
Các hành vi ăn uống có liên quan tới TC - BP bao gồm tần suất ăn/ăn vặt,
khẩu phần ăn quá dư thừa, ăn uống nhậu nhẹt, ăn thức ăn nhanh ở bên ngoài và
vấn đề bú sữa mẹ hoàn toàn. Các yếu tố chất dinh dưỡng được nghiên cứu bao
gồm chất béo, các loại carbohydrat (bao gồm các loại carbohydrat tinh chế như
đường), chỉ số đường huyết của thực phẩm và chất xơ [20].
12
Cân bằng năng lượng
Năng lượng ăn vào
Năng lượng tiêu hao
Chất béo
Hoạt động thể lực
Glucid
Tiêu hoá thức ăn
Protein
Chuyển hoá cơ bản
Tăng cân
Cân nặng ổn định
Giảm cân
Dự trữ mỡ
Hình 1.1. Mô hình nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh của béo phì
1.7. Hậu quả của béo phì
1.7.1. Ảnh hưởng tới sức khoẻ:
Có thể nói trọng lượng dư thừa ở bất kỳ lứa tuổi nào đều không tốt cho
sức khoẻ. Nó gây ra các tác hại như:
+ Mệt mỏi, bức bối do lớp mỡ dưới da dày.
+ Giảm hiệu suất lao động do trọng lượng cơ thể nặng nên mất nhiều công
sức lao động.
+ Kém lanh lợi.
1.7.2. Tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong:
Béo phì là một trong những yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mạn
tính không lây như bệnh mạch vành, tăng huyết áp, viêm xương khớp, sỏi
mật, bệnh đái tháo đường týp II không phụ thuộc insulin. Béo phì thường
kết hợp với tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong.
13
Nguy cơ đầu tiên của béo phì ở trẻ em là khả năng kéo dài béo phì đến
tuổi trưởng thành với các hậu quả của nó, đặc biệt là các bệnh tim mạch và
tiểu đường. Béo phì khởi phát sớm sẽ ảnh hưởng lớn tới bệnh tim mạch hơn là
khởi phát muộn. Ngoài ra có thể dẫn đến mắc bệnh mạn tính không lây như
rối loạn dung nạp glucose, kháng insulin, đái tháo đường týp 2, tăng huyết áp,
rối loạn lipit máu, gan nhiễm mỡ, rối loạn tiêu hoá, cơn ngừng thở khi ngủ và
buồng trứng đa nang khi trưởng thành.
Những nghiên cứu gần đây ở Mỹ về TC ở thanh thiếu niên đã chỉ ra:
Trẻ có cân nặng/chiều cao cao, hay BMI cao có nguy cơ gia tăng đối với một
số bệnh mãn tính ở người lớn và nguy cơ tử vong tăng. Các nghiên cứu theo
chiều dọc cũng cho thấy BMI tăng ở thanh thiếu niên sẽ dự đoán xảy ra sớm
những nguy cơ của các bệnh mãn tính và BP khởi phát sớm có ảnh hưởng lớn
đến bệnh tim mạch hơn là khởi phát muộn[17][34]61].
1.8.
Các hoạt động phòng chống thừa cân, béo phì ở trẻ em
Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 cần triển khai
các giải pháp can thiệp đặc thù cho các vùng miền và các nhóm đối tượng cụ
thể. Trong đó chú trọng đến vấn đề suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em, góp
phần nâng cao tầm vóc của người Việt Nam. Đồng thời, phải kiểm soát tình
trạng thừa cân béo phì để hạn chế sự gia tăng các bệnh mãn tính không lây
liên quan đến dinh dưỡng.
Đẩy mạnh công tác TT- GDSK là biện pháp quan trọng giúp mọi người
dân có kiến thức về sức khỏe, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, từ đó có cách
nhìn nhận vấn đề sức khỏe đúng đắn và hành động thích hợp vì sức khỏe [15].
Giáo dục sức khỏe ở trường học có tác động rất lớn đến hình thành các
hành vi sức khỏe, lối sống lành mạnh cho học sinh. Giáo dục ở thời kỳ này dễ
đem lại hiệu quả cao, nó không chỉ tác động đến các em học sinh mà thông
qua các em tác động đến những người xung quanh, như những người trong
14
gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi học sinh có thể trở thành nhân tố tích cực
như một nhà “giáo dục sức khỏe tự nguyện” trong cộng đồng [34].
1.9.
Tình hình dinh dưỡng tại thành phố Hải Dương.
Thành phố Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Hải Dương với
diện tích là 7.138,60 ha; dân số: 253.893 người (2009); có 17 phường và 4 xã
gồm 25 trường tiểu học.
Hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng đã được triển khai rộng khắp ở
các xã, phường đặc biệt là các trường tiểu học. Nhờ vậy đã nâng cao nhận
thức cho toàn thể cộng đồng về dinh dưỡng, đặc biệt là dần thay đổi quan
niệm và thói quen của các phụ huynh học sinh tiểu học. Nhưng vấn đề TC BP cũng như yếu tố liên quan đến tình trạng này hiện chưa được phụ huynh
học sinh quan tâm đúng mức. Vì vậy, nghiên cứu về tình trạng TC - BP ở trẻ
lứa tuổi tiểu học là cần thiết để biết rõ tình trạng dinh dưỡng của trẻ em trong
lứa tuổi này tại địa phương.
15
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh tiểu học từ 6-11 tuổi trên địa bàn thành phố Hải Dương
Phụ huynh học sinh tiểu học 6-11 tuổi được chọn vào nghiên cứu
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành tại thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 2-8 năm 2015.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
* Cỡ mẫu cho điều tra:
p x (1-p)
n = Z21-α/2
2
Trong đó:
- n: Cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu
- Z1-α/2: với α = 0,05 thì Z1-α/2 = 1,96.
- p: Tỷ lệ thừa cân của trẻ ước tính = 10,4% [41]
- : Sai số cho phép = 0,03.
Áp dụng công thức ta tính được n=412, nhân hệ số 2 để tăng độ tin cậy.
Vậy cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu này là 824 trẻ.
*Cách chọn mẫu:
- Giai đoạn 1: Chọn trường tiểu học:
Thành phố Hải Dương hiện có 21 đơn vị hành chính bao gồm 17
phường và 4 xã trong đó 5 phường nằm ở trung tâm thành phố, 10 phường
nằm ở gần trung tâm và 6 xã, phường còn lại nằm ở ngoại vi thành phố.
Chọn 3 trường tiểu học thuộc 3 phường đại diện cho 3 khu vực kinh tế
chính của thành phố bao gồm 1 trường tại trung tâm thành phố (trường tiểu học
16
Tô Hiệu), 1 trường không nằm trong trung tâm (trường tiểu học Trần Quốc
Toản) và 1 trường nằm gần ngoại vi thành phố (trường tiểu học Ngọc Châu).
- Giai đoạn 2: Chọn lớp học:
Hình 2.1 - Sơ đồ chọn mẫu
17
+ Xem mỗi lớp học là 1 chùm và là đơn vị mẫu để chọn. Chọn lớp học vào
nghiên cứu bằng phương pháp chọn ngẫu nhiên phân tầng. Tại mỗi trường,
chúng tôi chọn ngẫu nhiên 2 lớp trong mỗi khối.
+ Như vậy tại mỗi trường chúng tôi sẽ chọn được 10 lớp học sinh cho các
khối từ lớp 1 đến lớp 5 ứng với khoảng 320 học sinh. Trên thực tế chúng tôi
đã nghiên cứu 934 học sinh. Số lượng này thoả mãn cỡ mẫu tối thiểu là 824
học sinh.
+ Phụ huynh được mời vào nghiên cứu là cha/mẹ/ông/bà.. là người chăm
sóc chính tương ứng cho mỗi trẻ[59].
2.3. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
Bảng 2: Các biến số, chỉ số và cách thu thập số liệu
Mục
tiêu
Phương pháp
thu thập
Công cụ thu
thập
Cân nặng của trẻ
Cân
Cân
Chiều cao của trẻ
Đo
Thước đứng
Tuổi của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Thứ tự sinh của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Cân nặng khi sinh của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Đặc điểm hộ gia đình
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Kiến thức về thực phẩm dinh dưỡng
hàng ngày
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Tên biến số cần thu thập
Mục
tiêu 1
Mục
tiêu 2
18
Kiến thức về bệnh béo phì của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Nguyên nhân của gây ra béo phì
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Điều kiện kinh tế gia đình của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Thái độ với bệnh béo phì khi trẻ bị
béo phì
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Thói quen ăn uống của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Sở thích ăn uống của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Thời gian học và ngủ của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Thời gian chơi hàng ngày của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Bệnh tật của trẻ
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Các biện pháp phòng chống béo phì
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Phỏng vấn
phụ huynh
Phiếu điều tra
Truyền thông dinh dưỡng của phụ
huynh đối với trẻ
2.4. Phương pháp thu thập thông tin
2.4.1. Công cụ thu thập số liệu
* Cân:
- Sử dụng cân điện tử Seca 770 (độ chính xác 0,1kg).
-
Đơn vị đo cân nặng là kg, kết quả được ghi với 1 số lẻ. Ví dụ: 35,4kg.
19
-
Kỹ thuật cân:
Khi cân, trẻ, phụ huynh chỉ mặc quần áo gọn nhất và trừ bớt cân
nặng trung bình của quần áo khi tính kết quả.
Cân được kiểm tra và chỉnh trước khi sử dụng, sau đó cứ cân
khoảng 10 trẻ lại kiểm tra và chỉnh cân 1 lần.
Đối tượng đứng giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn thẳng, trọng
lượng phân bổ đều cả hai chân. Cân được đặt ở vị trí ổn định và
bằng phẳng, chỉnh cân về vị trí cân bằng số 0[17][47].
* Đo chiều cao:
- Đo chiều cao đứng bằng thước Microtoise (độ chính xác 1mm).
- Đơn vị đo chiều cao là cm, kết quả được ghi với 1 số lẻ. Ví dụ 145,3cm.
- Kỹ thuật đo:
Đối tượng bỏ guốc dép, đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo.
Đảm bảo 5 điểm chạm lên bề mặt thước: Chẩm, vai, mông, bắp
chân, gót chân. Mắt nhìn thẳng theo một đường thẳng nằm ngang,
hai tay bỏ thẳng hai bên mình. Kéo thước từ trên xuống dần và khi
thước áp sát đỉnh đầu nhìn vào thước và đọc kết quả[3], [60].
* Cách tính tuổi của trẻ:
Sử dụng cách tính tuổi bằng cách lấy ngày tháng năm điều tra trừ đi
ngày tháng năm sinh của trẻ và phân loại lớp tuổi của WHO 1983, 1995. Các
nhóm tuổi trong đánh giá thừa cân, béo phì như sau:
6 tuổi: 72 tháng ( 5 năm 11tháng 30 ngày)
7 tuổi: 84 tháng (6 năm 11 tháng 30 ngày)
8 tuổi: 96 tháng (7 năm 11 tháng 30 ngày)
9 tuổi: 108 tháng (8 năm 11 tháng 30 ngày)
10 tuổi: 120 tháng (9 năm 11 tháng 30 ngày)
20
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp: Sử dụng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn để thu thập các
thông tin khác nhau về: kiến thức về bệnh béo phì, một số thông tin về gia
đình học sinh, phỏng vấn điều tra phụ huynh về khẩu phần ăn của trẻ. Mỗi đối
tượng được phỏng vấn trong khoảng 20-30 phút
- Phần kiến thức về bệnh béo phì bao gồm:
+ Kiến thức của học sinh về béo phì.
+ Thói quen ăn uống, hoạt động thể lực của học sinh.
- Phần thông tin về gia đình học sinh: sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn để
phỏng vấn phụ huynh học sinh nhằm thu nhận các thông tin về gia đình học sinh.
- Phỏng vấn điều tra phụ huynh về khẩu phần ăn của trẻ em :
Người điều tra hỏi và ghi lại toàn bộ các loại lương thực, thực phẩm
mà trẻ sử dụng một cách chính xác theo các bữa.
Đánh giá tình trạng béo phì của trẻ:
Gần đây Tổ chức Y tế thế giới khuyên dùng “chỉ số khối cơ thể” (Body
Mass Index - BMI) trước đây gọi là chỉ số Quetelet, để nhận định về tình
trạng dinh dưỡng:
Cân nặng (kg)
BMI =
(Chiều cao)2 (m)
BMI <5th: Suy dinh dưỡng
BMI 5th → 85th: Bình thường
BMI ≥85th: Thừa cân
2.4.3. Quy trình tổ chức nghiên cứu
- Nhóm nghiên cứu gồm:
Nghiên cứu viên chính: 01 người.
21
Giám sát viên: 03 người/ trường tiểu học (Khoa Y tế công cộng, Khoa
CSSKSS của Trung tâm Y tế thành phố, Trưởng Trạm y tế phường)
Điều tra viên: 06 người/ trường tiểu học (thuộc các Khoa y tế công
cộng, Khoa CSSKSS của Trung tâm Y tế thành phố, trạm y tế phường).
Người nghiên cứu chính cùng với trạm y tế phường xuống các trường
tiểu học để liên hệ, tổ chức, lên danh sách các học sinh của từng lớp.
Trường tiểu học lập giấy mời, mời các phụ huynh học sinh tham gia.
Phối hợp với Khoa y tế công cộng, Khoa chăm sóc sức khỏe sinh sản,
của Trung tâm Y tế thành phố, Trạm y tế phường và Trường tiểu học sẽ
tổ chức vào đợt khám sức khỏe định kỳ và điều tra dinh dưỡng tại các
trường tiểu học.
Điều tra viên của khoa YTCC của Trung tâm Y tế thành phố sẽ cân, đo
cho học sinh; khoa CSSKSS và trạm y tế phường phỏng vấn trực tiếp
các phụ huynh, thu thập các thông tin.
Người nghiên cứu kết hợp với người hướng dẫn chỉnh sửa, hoàn thành
luận văn đúng thời gian theo dự kiến.
2.5. Sai số và cách khắc phục:
2.5.1. Các sai số có thể gặp:
- Sai số nhớ lại: do trong nghiên cứu có nhiều thông tin cần hồi cứu qua
việc hỏi các phụ huynh nên có thể có một số sai sót nhất định.
- Sai số do thu thập thông tin:
Một số thông tin được thu thập qua bộ câu hỏi, do đó có một phần
phục thuộc vào tính chủ quan của cộng tác viên trong việc đưa ra
câu hỏi hoặc thu thập phản hồi.
Việc thu thập các chỉ số nhân trắc nhiều khi không được thực hiện
đúng thường quy.
22
2.5.2. Cách khắc phục các sai số:
- Đánh giá thử trước khi tiến hành nghiên cứu từ đó thiết kế bộ câu hỏi
dễ hiểu, không phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan của người hỏi và
người trả lời.
- Tập huấn kỹ cho các cộng tác viên, thống nhất cách thu thập số liệu.
- Xây dựng, triển khai tốt hệ thống giám sát…tuân thủ các nguyên tắc
điều tra tại cộng đồng.
2.6. Phương pháp xử lý số liệu:
- Số liệu điều tra được nhập 2 lần sử dụng phần mềm Epidata3.1 và được
kiểm tra lỗi, làm sạch.
- Số liệu được chuyển vào phân tích trên phần mềm SPSS16.0.
- Các giá trị biến định lượng được trình bày dưới dạng giá trị trung bình
và độ lệch chuẩn, các giá trị biến định tính được trình bày dưới dạng
tần suất và tỷ lệ.
- Tính toán giá trị OR và khoảng tin cậy 95% để đánh giá mối liên quan
giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc. Sự khác biệt được coi là
ngưỡng ý nghĩa thống kê khi p<0,05.
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu:
- Lợi ích: Cha mẹ hoặc người chịu trách nhiệm chăm sóc trẻ được thông
báo và giải thích rõ ràng về mục đích và những nội dung sẽ tiến hành
trong nghiên cứu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu được sử dụng để đưa ra
các khuyến nghị nhằm lựa chọn các giải pháp phòng và chống thừa cân,
béo phì ở trẻ em tuổi học đường.
- Tự nguyện: Gia đình các học sinh có quyền từ chối tham gia nghiên
cứu. Các cá nhân tham gia nghiên cứu được biết rõ mục tiêu nghiên cứu
và các thông tin được sử dụng đúng mục đích nghiên cứu.
23
- Tất cả các dụng cụ để cân, đo phải đảm bảo an toàn tuyệt đối, không
gây tổn thương và nguy hiểm cho học sinh.
- Bảo mật thông tin: Mọi thông tin điều tra tuyệt đối bảo mật, chỉ có thành
viên của nhóm nghiên cứu mới được biết các thông tin liên quan đến
chiều cao, cân nặng, các chế độ dinh dưỡng của trẻ trong phỏng vấn.
- Nghiên cứu được thông qua tại hội đồng đánh giá của Trường Đại học Y
Dược Hải Phòng, được sự đồng ý giúp đỡ của Trung tâm y tế thành phố
Hải Dương, các trường tiểu học, trạm y tế phường, chính quyền địa
phương và đặc biệt là sự hưởng ứng của cộng tác viên, cán bộ nghiên cứu.
24
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng dinh dưỡng và thừa cân, béo phì của học sinh tiểu học tại
thành phố Hải Dương
3.1.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1: Phân bố số lượng trẻ được nghiên cứu theo trường
Trường
n
Tỷ lệ ( %)
Ngọc Châu
358
38,3
Tô Hiệu
338
36,2
Trần Quốc Toản
238
25,5
Tổng cộng
934
100.0
Nhận xét: Tổng số học sinh nghiên cứu tại 3 trường tiểu học trên địa bàn
thành phố Hải Dương là 934 học sinh. Số lượng học sinh tại các trường được
lựa chọn vào nghiên cứu là: trường Ngọc Châu 358 học sinh chiếm 38,3%;
trường Tô Hiệu 338 học sinh chiếm 36,2%; trường Trần Quốc Toản 238 học
sinh chiếm 25,5%.
25
Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi và giới
Giới
Tuổi
Nữ
Nam
Tổng số
n
(%)
n
(%)
n
(%)
6 tuổi
5
1,1
4
0,9
9
1,0
7 tuổi
84
17,8
95
20,6
179
19,2
8 tuổi
87
18,4
83
18,0
170
18,2
9 tuổi
91
19,3
76
16,5
167
17,9
> 10 tuổi
205
43,4
204
44,2
410
43,8
Tổng số
472
50,5
462
49,5
934
100
Nhận xét: Phân bố học sinh được lựa chọn vào nghiên cứu theo nhóm tuổi
nhiều nhất là 10 tuổi 43,8%; sau đó đến 7 tuổi 19,2%; 8 tuổi 18,2%; 9 tuổi
17,9% , 6 tuổi 1,0%.
Hình 3.1: Phân bố học sinh theo độ tuổi và giới