Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước; thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước trong năm 2013 và ý kiến của cá nhân để khắc phuc những khó khăn trong quá trình áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.58 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

TỪ VIẾT TẮT
NSNN

Ngân sách nhà nước
MỞ ĐẦU

Nguồn tài chính hình thành quỹ NSNN chủ yếu từ đóng góp của nhân dân. Nhà nước là
chủ thể đại diện, thay mặt nhân dân quyết định việc sử dụng cụ thể nguồn tài chính này. Do đó để
thực hiện chi một khoản kinh phí từ quỹ NSNN, các chủ thể cần tuân thủ theo những điều kiện cụ
thể mà pháp luật quy định. Trong thời gian qua, bên cạnh những chuyển biến tích cực từ việc áp
dụng các điều kiện chi NSNN thì công tác kiểm soát chi NSNN cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế và
tồn tại. Xuất phát từ tình hình thực tế đó, bài viết dưới đây sẽ đi vào làm rõ đề tài: “Phân tích cơ
sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước; thực trạng áp dụng các điều kiện chi
ngân sách nhà nước trong năm 2013 và ý kiến của cá nhân để khắc phuc những khó khăn
trong quá trình áp dụng”.

NỘI DUNG
I.
Điều kiện chi ngân sách nhà nước
1. Chi ngân sách nhà nước

Chi ngân sách là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ
nằm trong quỹ ngân sách nhà nước để chi dùng vào những mục đích khác nhau. Nếu hoạt động
thu ngân sách nhà nước là nhằm thu hút các nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách
nhà nước thì chi ngân sách nhà nước chính là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ
đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó.
Khái niệm chi ngân sách nhà nước được đề cập đến dưới dạng liệt kê trong khoản 2 điều 2
Luật NSNN năm 2002 : “Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà


nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật” và khoản 2 điều 5 Luật
1


NSNN năm 2015: “Chi ngân sách nhà nước bao gồm:
a) Chi đầu tư phát triển;
b) Chi dự trữ quốc gia;
c) Chi thường xuyên;
d) Chi trả nợ lãi;
đ) Chi viện trợ;
e) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”.
Qua đó có thể hiểu khái niệm chi ngân sách nhà nước theo nghĩa khái quát hơn như sau: Chi
ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách đã
được chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và đảm bảo
nhà nước thực hiện được các chức năng của mình.
Chi NSNN là hoạt động mang những đặc điểm chủ yếu sau:


Chi NSNN chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng



như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định.
Chi NSNN nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài chính cho sự vận hành của bộ



máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Chi NSNN là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể: nhóm chủ thể đại diện cho
Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN (gồm Bộ tài

chính, Sở tài chính – vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài chính quận,
huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đầu tư và Kho bạc nhà nước) ; nhóm
chủ thể sử dụng ngân sách (gồm: Các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính
thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; Các đơn vị, kể cả đơn vị sự

nghiệp có thu; Các chủ dự án sử dụng kinh phí NSNN).
2. Điều kiện chi ngân sách nhà nước
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật ngân sách nhà nước 2002 thì chi ngân sách nhà nước
được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
“a) Đã có trong dự toán ngân sách được giao, trừ trường hợp quy định tại Điều 52 và Điều 59
của Luật này;
b) Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
c) Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
2


Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này, đối với những khoản chi cho công việc cần
phải đấu thầu thì còn phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu”.
Cụ thể hơn, Điều 51 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP quy định:
“Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Đã có trong dự toán ngân sách nhà nước được giao, trừ các trường hợp sau:
a) Dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền
quyết định theo quy định tại Điều 45 của Nghị định này;
b) Chi từ nguồn tăng thu so dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết
định của cấp có thẩm quyền;
2. Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định;
3. Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định
chi;
4. Ngoài các điều kiện quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này; trường hợp sử dụng vốn,
kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện

làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì còn phải tổ chức đấu
thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
5. Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để chi; các khoản chi
có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua
sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo
dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm”.

II.
Cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước
1. Cơ sở lý luận

Xuất phát từ chế độ phân phối đặc thù của các nguồn lực tài chính mà nhà nước đóng vai
trò là chủ sở hữu, nhà nước thực hiện cấp phát không hoàn lại nguồn tài chính đó cho các
đơn vị sử dụng ngân sách theo nguyên tắc các khoản chi phải được cân đối, sắp xếp hợp lý,
khoa học đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm. Mục đích cuối cùng của hoạt động chi NSNN là nhằm
phục vụ nhu cầu tài chính cho sự vận hành bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng của
3


nhà nước, nhằm thõa mãn các lợi ích cộng; hơn nữa do yêu cầu của công tác quản lý chi
NSNN trong điều kiện thực thi chính sách tài chính công, đòi hỏi mọi khoản chi của ngân
sách phải đảm bảo đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay khi
NSNN còn hạn hẹp, nhu cầu chi phát triển kinh tế - xã hội ngày một tăng thì việc đưa ra các
điều kiện về chi NSNN là một đòi hỏi tất yếu. Thực hiện tốt công tác này góp phần tiết kiệm,
chống lãng phí quỹ NSNN nhằm tập chung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia,
đồng thời cũng góp phần nâng cao trách nhiệm cũng như phát huy được vai trò của các
ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến công tác quản lý và điều hành chi
NSNN. Do đó, việc pháp luật quy định các điều kiện chi NSNN là cần thiết.
2. Cơ sở của mỗi điều kiện chi

a) Khoản chi dự định thực hiện phải có trong dự toán ngân sách được giao

Thực chất, bản dự toán NSNN là sự phản ánh những chương trình, kế hoạch hành động hay
chính sách của nhà nước trong một tài khóa xác định. Bản dự toán NSNN tuy được diễn tả bằng
các con số nhưng đằng sau nó là chương trình hoạt động của quốc gia trong giai đoạn nhất định.
Kết quả của việc quyết định dự toán NSNN chính là việc tạo ra tính pháp lý cho kế hoạch tài
chính năm. Đó chính là sự thừa nhận giái trị pháp lý của bản dự toán NSNN bằng nghị quyết của
cơ quan quyền lực để trên cơ sở pháp lý đó cho phép các cơ quan quản lý nhà nước thi hành trên
thực tế. Việc quy định các khoản chi NSNN muốn được thanh toán, chi trả phải được xác định
trong dự toán ngân sách được giao là bởi vì mọi nhu cầu chi dự kiến cho năm kế hoạch phải được
xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua các bước xét duyệt của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền từ thấp đến cao. Chỉ sau khi dự toán chi đã được Quốc hội xét duyệt và thông qua
mới trở thành căn cứ chính thức để phân bổ số chi cho mỗi ngành, mỗi cấp. Bên canh đó, khoản
kinh phí đã được ghi trong dự toán chi ngân sách còn thể hiện cam kết thanh toán của nhà nước
đối với các đơn vị sử dụng ngân sách. Dựa trên các cam kết này các đơn vị sử dụng ngân sách có
quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phải cấp đủ cho mình số kinh phí mà Nhà
nước đã cam kết.
Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết cho mỗi hoạt động chi NSNN. Quy định như vậy nhằm
đảm bảo các khoản dự định chi sẽ phù hợp với tổng thể các khoản chi khác, đảm bảo cân đối
được NSNN cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội sao cho phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước đề ra trong năm ngân sách. Ngoài ra, việc quy định điều kiện
chi NSNN là phải có trong dự toán ngân sách được giao là để tạo ra tính công khai trong hoạt
4


động chi ngân sách, bởi tất cả đã có trong bản dự toán ngân sách được giao, những đơn vị nào đủ
điều kiện là đã có thể được cấp kinh phí từ ngân sách. Từ đó, tránh được những khoản chi bất
minh, chi không rõ mục đích, gây thất thoát lớn cho quỹ NSNN.
Tuy nhiên theo quy định của Luật NSNN thì điều kiện này còn có hai ngoại lệ tại điều 52 và
điều 59, đó là:

Ngoại lệ thứ nhất là trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương
án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thì cơ quan tài
chính các cấp được phép tạm cấp kinh phí cho các nhu cầu không thể trì hoãn được cho tới khi dự
toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách được quyết định. Mức tạm cấp hàng tháng tối đa
không quá mức chi bình quân một tháng của năm trước.
Ngoại lệ thứ hai là trong quá trình chấp hành NSNN, có sự thay đổi về thu chi, khoản chi từ
nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết định của cấp
có thẩm quyền. Nguồn tăng thu là nguồn thu phát sinh tăng thêm, nằm ngoài dự toán ngân sách vì
vậy chi từ khoản này cũng không thể nằm trong dự toán ngân sách.
b) Khoản chi dự định thực hiện phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm

quyền quyết định
Không chỉ nằm trong dự toán mà khoản chi NSNN còn phải nằm trong phạm vi chế độ, tiêu
chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định. Việc chi NSNN theo định mức, chế độ, tiêu
chuẩn đặt ra một giới hạn cho các khoản chi dự định thực hiện, ràng buộc chúng luôn phải nằm
trong định mức đã được xác định trong dự toán do đó giúp tạo ra sự công bằng trong việc sử dụng
NSNN giữa các ngành, địa phương, hạn chế tình trạng sử dụng ngân sách không đúng mục đích,
gây thất thoát, lãng phí.
Bên cạnh đó, việc quy định rõ chế độ, tiêu chuẩn và định mức chi cũng sẽ tạo điều kiện để các
cơ quan có nhiệm vụ giám sát, kiểm soát ngân sách có căn cứ phát hiện và xử lý kịp thời những
hành vi vi phạm trong sử dụng quỹ NSNN.
c) Khoản chi dự định thực hiện phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người

được ủy quyền quyết định chi
Thủ trưởng đơn vị là người đứng đầu điều hành, chịu trách nhiệm về tình hình hoạt động của
toàn đơn vị nên sẽ là người nắm rõ mọi vấn đề liên quan đến tài chính của đơn vị. Quy định thủ
trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người ủy quyền được quyết định chi khoản chi không chỉ
5



đảm bảo quyền quản lý của những người đứng đầu đơn vị sử dụng ngân sách mà còn đảm bảo
cho hoạt động chi được tiến hành đúng, đủ và hiệu quả. Quy định này cũng góp phần tăng cường
tính sáng tạo, tự chủ của thủ trưởng các đơn vị trong việc cân nhắc và đưa ra những quyết định
chi sao cho phù hợp với tình hình của đơn vị để đạt được hiệu quả cao vì nếu như có sai sót về
định hướng trong quyết định chi làm thất thoát NSNN thì người phải chịu trách nhiệm ở đây
chính là thủ trưởng cơ quan hoặc người được thủ trưởng ủy quyền quyết định chi.
d) Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết

bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì
trước khi khoản chi được thực hiện, còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo
quy định của pháp luật
Đấu thầu, thẩm định giá là các thủ tục đặc biệt để xác định giá cuối cùng của tài sản.Quy định
này nhằm đảm bảo cho hoạt động chi thường xuyên được chi đúng, chi đủ bởi việc tổ chức đấu
thầu hoặc định giá tài sản với mục đích xác định giá trị thực sự của tài sản sẽ tạo cơ sở để thực
hiện khoản chi một cách minh bạch, chính xác, tránh trường hợp đơn vị báo giá cả không rõ ràng
để tham ô, dẫn đến thất thoát NSNN.
e) Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để chi; các khoản chi

có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản,
mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực
hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm
Chi thường xuyên gồm các khoản chi mang tính định kỳ, lặp đi lặp lại. Chi không thường
xuyên gồm những khoản chi phát sinh phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển nhưng không ổn
định và không có tính chu kỳ. Đối với những khoản chi có tính chất thường xuyên, quy định này
đảm bảo cho thực hiện chi một cách đầy đủ và đồng đều, đáp ứng được nhu cầu quản lý bộ máy
Nhà nước. Đối với những khoản chi có tính chất không thường xuyên thì thực hiện chi theo dự
toán quý do đơn vị dự toán cấp giao để đảm bảo chi đúng và hiệu quả.

III.
Thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước

1. Những điểm tích cực

Năm 2013, mặc dù nguồn thu NSNN còn nhiều khó khăn nhưng với chính sách điều hành chi
ngân sách linh hoạt, chủ động, tăng cường tiết kiệm chi ngân sách nên NSNN vẫn đảm bảo đủ
nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách đầy đủ, kịp thời. Trong bối cảnh yêu cầu thực
6


hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội, có thể nói, công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai tích
cực, chủ động. Trong điều kiện thu khó khăn, chi ngân sách được điều hành theo đúng chủ
trương thắt chặt chính sách tài khoá, công tác quản lý chi NSNN được tăng cường, bảo đảm tiết
kiệm, chặt chẽ và hiệu quả, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chi NSNN, đảm bảo chi
ngân sách đúng chế độ.
Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/11/2013 ước tính đạt 803,1 nghìn tỷ đồng,
bằng 82,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 146,2 nghìn tỷ đồng, bằng 83,5% (riêng
chi đầu tư xây dựng cơ bản 141,6 nghìn tỷ đồng, bằng 83,3%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải
cách tiền lương) ước tính đạt 567,4 nghìn tỷ đồng, bằng 84,1%; chi trả nợ và viện trợ 89,5 nghìn
tỷ đồng, bằng 85,3%.
Quy định kiểm soát, thanh toán theo dự toán đã góp phần nâng cao chất lượng công tác xây
dựng và phân bổ dự toán NSNN; đồng thời nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các đơn vị
sử dụng NSNN, góp phần tăng cường kỷ luật và kỷ cương trong lĩnh vực chi tiêu NSNN. NSNN
đã đảm bảo nguồn đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi theo dự toán, đáp ứng kịp thời, đầy đủ các
nhiệm vụ chi về đảm bảo quốc phòng, an ninh và chi các sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn
hoá, đảm bảo xã hội; Phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh... Nguồn chi thực hiện
cải cách tiền lương đã được phân bổ, sử dụng phù hợp với số đối tượng thụ hưởng thực tế và
đúng chính sách, chế độ. Chính sách an sinh xã hội được đảm bảo, góp phần thực hiện mục tiêu
giảm nghèo bền vững, đảm bảo đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. Các bộ, ngành và địa
phương cũng đã nghiêm túc thực hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi
thường xuyên; Rà soát, sắp xếp lại, cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa

thực sự cần thiết. Trong chỉ đạo điều hành, Chính phủ đã tập trung kinh phí thực hiện các chính
sách an sinh xã hội. Bên cạnh việc đảm bảo chi cho những chính sách đã được bố trí dự toán đầu
năm và thực hiện chi trả tiền lương, lương hưu và trợ cấp xã hội theo mức tiền lương tối thiểu
mới theo đúng kế hoạch, Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện một số chính sách mới như:
Trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, người có công và hộ nghèo đời sống khó
khăn… Chi ngân sách cho giáo dục – đào tạo, dạy nghề là một trong những khoản mục chiếm tỷ
lệ lớn trong tổng chi (năm 2012: 17,94%, năm 2013: 18,05%) và có tốc độ tăng khá nhanh trong
những năm gần đây (năm 2011 là 27.06%, năm 2012 là 53.56%, năm 2013 là 10.09%), khẳng
định chủ trương của Nhà nước ưu tiên cho giáo dục.
7


Công tác quản lý chi tiêu được tăng cường, đến ngày 31/12/2013, hệ thống kho bạc nhà nước
ước thực hiện kiểm soát chi đối với gần 648.300 tỷ đồng chi thường xuyên của NSNN, đạt 96%
dự toán chi thường xuyên, đã phát hiện trên 77.000 khoản chi của trên 34.600 lượt đơn vị chưa
chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định, từ chối chưa thanh toán với số tiền trên 1.400 tỷ đồng
chưa đủ điều kiện chi theo quy định. Đối với chi đầu tư phát triển, đã giải ngân qua hệ thống kho
bạc nhà nước ước đạt 223.552 tỷ đồng, đạt 85% kế hoạch vốn năm 2013 (bao gồm cả tạm ứng),
thông qua kiểm soát, đã từ chối thanh toán khoảng 80 tỷ đồng do chủ đầu tư đề nghị thanh toán
cao hơn giá trúng thầu, sai số học hoặc không có trong hợp đồng, dự toán,…
Quản lý chi ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm: Ngay từ đầu năm, Bộ tài chính đã hướng dẫn các
cơ quan trung ương và địa phương triệt để tiết kiệm chi tiêu trong phạm vi dự toán được giao;
chống lãng phí; rà soát cắt, giảm tối đa các khoản chi tổ chức lễ hội, khánh tiết, hội nghị hội thảo,
tiết giảm chi phí công tác trong nước và nước ngoài,.. chủ động sắp xếp chi thường xuyên, ưu
tiên các nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội và điều
chỉnh tiền lương. Cơ quan tài chính các cấp và kho bạc nhà nước thực hiện kiểm soát chi chặt
chẽ, đảm bảo đúng mục đích, đối tượng và hiệu quả. Chi đầu tư phát triển tập trung cải tạo và xây
dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình kinh tế mũi nhọn, trọng yếu, tạo điều kiện cho phát
triển kinh tế - xã hội, khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài.
2. Những hạn chế bất cập


Tình trạng bội chi: Mức bội chi NSNN năm 2013 đã lên tới khoảng 5,3% GDP, vượt chỉ tiêu
kế hoạch 4,8% GDP như Quốc hội đã đề ra từ đầu năm.
Trong bối cảnh cân đối NSNN hạn hẹp nhưng vẫn còn tình trạng một số nhiệm vụ chi còn
chưa thực sự hiệu quả, tiết kiệm khiến NSNN còn thất thoát. Ban hành nhiều chính sách chi mới,
những chính sách chi kém hiệu quả chưa được bãi bỏ kịp thời, nhiều khoản chi còn lãng phí,
chưa chủ động cắt, giảm những khoản chi chưa thực sự cấp bách.
Về chi đầu tư phát triển: Mặc dù chủ trương hạn chế tối đa việc ứng trước nhưng Chính phủ
vẫn cho ứng trước kế hoạch vốn 13.142,2 tỷ đồng, dẫn đến số vốn ứng trước dự toán còn phải thu
đến hết năm 2013 là 64.465,1 tỷ đồng, trong khi số thu hồi vốn ứng trước năm 2013 chỉ là
7.210,6 tỷ đồng; 11/35 địa phương được kiểm toán còn tình trạng dư nợ vay vượt mức quy định
của Luật NSNN; nợ đọng đến 31/12/2013 theo báo cáo của Chính phủ là 57.977,3 tỷ đồng (tăng
11.401 tỷ đồng so với năm 2012), bằng 33% kế hoạch vốn năm 2013, trong đó một số bộ, cơ
8


quan trung ương và địa phương có số nợ đọng trên 1.000 tỷ đồng; nhiều dự án hoàn thành nhưng
chậm nộp báo cáo quyết toán hoặc đã nộp báo cáo quyết toán nhưng chậm phê duyệt quyết toán;
hầu hết các sai sót trong chấp hành trình tự đầu tư tại nhiều dự án chưa được khắc phục như: Phải
phê duyệt điều chỉnh quy mô, tăng tổng mức đầu tư so với quyết định ban đầu; chất lượng khảo
sát, thiết kế chưa đảm bảo; còn sai sót trong đấu thầu; công tác quản lý chất lượng công trình đối
với một số dự án chưa được thực hiện nghiêm túc; nghiệm thu sai khối lượng, chủng loại, đơn
giá, không đúng thực tế thi công và nghiệm thu khi chưa đảm bảo đầy đủ hồ sơ, thủ tục; thanh
toán vượt giá trị quyết toán…
Về chi thường xuyên: Một số địa phương hụt thu nhưng không rà soát, cắt giảm nhiệm vụ chi
theo quy định; chưa quán triệt, thực hiện tốt chủ trương thực hành tiết kiệm trong mua sắm tài
sản; 05/35 tỉnh chi quản lý hành chính, Đảng đoàn thể có mức vượt trên 30%; tình trạng sử dụng
sai nguồn kinh phí xảy ra ở nhiều địa phương được kiểm toán, Kiểm toán nhà nước kiến nghị
27/35 địa phương được kiểm toán bố trí hoàn trả nguồn 1.294 tỷ đồng; một số địa phương sử
dụng sai nguồn kinh phí và không còn kết dư ngân sách, dẫn đến một số nhiệm vụ chi theo quy

định được chuyển nguồn nhưng thực chất không có nguồn đảm bảo để chuyển nguồn; 09/35 địa
phương chi hỗ trợ không đúng nhiệm vụ chi 143,86 tỷ đồng; 14/35 địa phương sử dụng dự phòng
chưa đúng quy định. Tình trạng chi không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức còn xảy ra phổ biến
tại hầu hết các bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được kiểm
toán…
Hệ thống văn bản, chính sách hướng dẫn thực hiện các chương trình mục tiêu, dự án quốc gia
chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; công tác chỉ đạo điều hành, phối hợp thực hiện đối với một số
chương trình còn hạn chế; bố trí vốn không sát thực tế; chưa huy động và lồng ghép các nguồn
vốn theo quy định; chưa bố trí đủ vốn đối ứng; còn tình trạng chi không đúng định mức quy định;
tỉ lệ giải ngân thấp; việc tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện chương trình còn chưa đầy đủ,
thường xuyên; một số mục tiêu của các chương trình đạt thấp; chưa phát huy hiệu quả.
Về tiêu chuẩn định mức chi: Hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi còn thiếu, lạc hậu và không
thống nhất nên gây khó khăn cho việc tuân thủ các điều kiện chi theo luật định. Theo khoản 2
Điều 21 Luật NSNN 2002 thì Bộ tài chính có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các Bộ, các cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN, song
9


đến nay ngành tài chính vẫn còn lung túng về vấn đề này. Chính vì vậy, bản thân các đơn vị thiếu
căn cứ để lập dự toán chi, còn các cơ quan quản lý nhà nước thì thiếu căn cứ để duyệt dự toán,
kho bạc nhà nước thiếu căn cứ để kiểm soát chi; các cơ quan thanh tra, kiểm toán không có căn
cứ để kiểm tra xác nhận tính chính xác hợp lệ, hợp pháp của các khoản chi cũng như quyết toán
chi tiêu của các đơn vị. Do hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi chưa đầy đủ, đồng bộ nên
nhiều khoản chi được quyết định ở mỗi nơi một khác, kể cả những khoản chi đã được trung ương
thống nhất trên toàn quốc. Qua thực tế, nhiều địa phương đã đặt các khoản chi ngoài kế hoạch,
thậm chí sai nguyên tắc quản lý tài chính với lý do để phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương.

IV.

Ý kiến của cá nhân để khắc phục khó khăn trong quá trình áp dụng
1. Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập

Thứ nhất, hệ thống pháp luật về điều kiện chi ngân sách nhà nước còn chưa thống nhất và chi
tiết. Tiêu biểu là hệ thống, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện nay còn thiếu đồng bộ và lạc
hậu. Hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi NSNN đã được ban hành, sửa đổi nhưng chưa đồng bộ,
nhiều định mức, tiêu chuẩn đã được ban hành từ lâu đã không còn phù hợp với thực tế và giá cả
thị trường thường xuyên biến động, tiền lương tối thiểu nhiều lần điều chỉnh nên đơn vị không
thực hiện chi tiêu theo tiêu chuẩn, định mức đã quy định dẫn đến việc lập và dự toán không có
căn cứ chắc chắn gây khó khăn cho việc kiểm soát của KBNN, cũng như các công tác chi tiêu
của đơn vị sử dụng NSNN.
Các quy định về thực hiện theo dự toán còn mâu thuẫn và chưa phù hợp với yêu cầu như: việc
phân bổ và giao theo dự toán chi NSNN theo các thông tư điều hành NSNN nhà nước hàng năm
của Bộ tài chính đã có sự thay đổi; tuy nhiên, quy định về chi theo dự toán tại thông tư số
79/2003/TT – BTC không có sự thay đổi, bổ sung kịp thời đã gây nhiều khó khăn cho đơn vị sử
dụng NSNN trong việc chủ động sử dụng kinh phí và cơ quan Kho bạc nhà nước trong việc nhập
và theo dõi dự toán của các đơn vị. Quy định thanh toán, chi trả thanh toán theo dự toán, tuy
nhiên, do thiếu thông tin quản lý, hệ thống tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi NSNN còn lạc hậu
nên chất lượng xây dựng và phân bổ dự toán chưa đảm bảo, cụ thể như: “ Một số địa phương,
phân bổ, bố chí giảm chi giáo dục, dạy nghề, khoa học công nghệ, dự phòng ngân sách so với dự
toán Quốc Hội quyết định…ở trung ương nhiều Bộ thực hiện phân bổ dự toán chậm, thậm chí có
những Bộ đến tháng 11 vẫn chưa phân bổ song dự toán ngân sách năm”. Tình trạng các đơn vị
10


sử dụng NSNN phải thường xuyên điều chỉnh dự toán chi NSNN đã gây khó khăn cho KBNN
các cấp trong việc kiểm soát chi.
Thứ hai, do sự tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng ngân sách còn yếu, ảnh hưởng nhiều
đến việc đảm bảo các điều kiện chi, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động chi NSNN. Trên thực tế,
nhiều trường hợp thay vì chính các đơn vị phải lập dự toán và nộp cho Sở tài chính theo quy định

thì nhiều dự toán chi ngân sách trên địa bàn là do Sở tài chính lập. Điều này có thể dẫn đến tình
trạng dự toán lập ra không sát với nhu cầu thực tiễn chi trên địa bàn. Đặc biệt, đối với những tỉnh
có nguồn thu thấp, không đảm bảo được nhiệm vụ chi trên địa bàn thì công tác lập dự toán không
được quan tâm thỏa đáng. Có thể nói việc lập dự toán ở một số đơn vị sử dụng NSNN nhiều khi
còn mang tính hình thức, từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chi ngân sách.
Thứ ba, Thủ trưởng tại nhiều đơn vị sử dụng ngân sách còn chưa hiểu rõ các quy định của
pháp luật hiện hành về điều kiện chi NSNN dẫn đến việc chi sai mục đích hoặc làm thất thoát
NSNN. Tình trạng tiêu cực trong việc chi NSNN xuất phát từ những người quyết định chi NSNN
đã dẫn đến những hậu quả khôn lường cho NSNN. Bên cạnh đó, việc phê chuẩn của các cơ quan
có thẩm quyền thường mang tính hình thức và thiếu chi tiết.
Ngoài ra, khi quy mô nền kinh tế lớn dần lên, nhu cầu chi cũng cao hơn, gây sức ép căng
thẳng cho NSNN, quy mô ngân sách cũng phải lớn lên và tiềm ẩn nhiều rủi ro trong các khoản chi
NSNN như tình trạng thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Chính điều này cũng tác động mạnh đến
các điều kiện chi NSNN.
2. Ý kiến của cá nhân về giải pháp khắc phục
Từ những nguyên nhân đã nêu, em xin đưa ra một số giải pháp khắc phục sau:
Thứ nhất, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện chi theo hướng thống
nhất đầu mối về phạm vi, đối tượng, nội dung điều kiện chi. Luật NSNN đã có những quy định
khá rõ ràng về thời hạn, yêu cầu, nội dung và các trình tự, thủ tục thực hiện lập dự toán NSNN
nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy cần hoàn thiện để thực hiện tốt điều kiện đầu tiên của chi NSNN, giúp
xây dựng được những bản dự toán ngân sách với những khoản chi hợp lý, phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ, từng giai đoạn.

11


Cần thiết phải ban hành những văn bản cụ thể hóa các định mức chi để các đơn vị lập dự toán
có cơ sở để xây dựng dự toán đầy đủ, đúng và theo sát tình hình thực tiễn; các cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra, kiểm soát có căn cứ để giám sát, phát hiện và xử lý sai phạm.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế độ hóa đơn, chứng từ trong giao dịch. Bổ sung

những quy định liên quan đến việc bắt buộc sử dụng hóa đơn trong một số giao dịch có giá trị nhỏ
nhưng quan trọng và thiết yếu.
Thứ hai, cần có hướng dẫn cụ thể về quy trình thủ tục chi theo dự toán để đảm bảo quản lý chi
NSNN một cách chặt chẽ, hiệu quả. Nâng cao mức độ tham gia, kiểm tra giám sát của nhân dân
đối với hoạt động chi ngân sách để các đơn vị sử dụng ngân sách có ý thức hơn trong việc sử
dụng nguồn vốn được cấp, đảm bảo đủ các điều kiện chi để chi đúng, chi đủ, chi hợp pháp.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ để các chủ thể sử dụng ngân sách chấp hành nghiêm
túc các điều kiện chi trong hoạt động chi ngân sách. Có chế tài tương xứng đối với những đơn vị
sử dụng ngân sách không chấp hành tốt các điều kiện chi NSNN theo luật định. Xây dựng chế tài
xử lý đối với các cá nhân có hành vi vi phạm điều kiện chi NSNN.
Phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong điều kiện chi vì nhằm đảm bảo tính
minh bạch và rõ ràng về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ điều kiện chi NSNN. Bên cạnh đó cần
sớm ban hành chế tài xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực điều kiện chi NSNN.
Thứ ba, ban hành đầy đủ và đồng bộ các chế độ, tiêu chuẩn, quy định mức chi tiêu phù hợp
với tình hình thực tế làm cơ sở cho việc lập và quyết định dự toán một cách có căn cứ và phù hợp;
đồng thời là cơ sở để kho bạc nhà nước thực hiện kiểm soát chi.
Thứ tư, cần đổi mới, cải tiến các quy trình kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN theo
hướng mọi khoản chi của NSNN đều phải được thanh toán trực tiếp từ kho bạc nhà nước cho đối
tượng thụ hưởng ngân sách, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, hạn chế tình trạng chi thừa, chi sai
mục đích,…

12


KẾT LUẬN
Pháp luật quy định cụ thể điều kiện chi NSNN đã tạo điều kiện cho các đơn vị sử dụng
ngân sách có đủ căn cứ pháp lý để chấp hành chi. Đồng thời, những điều kiện này đảm bảo
nguồn kinh phí sẽ được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, theo kế hoạch và hiệu quả.
Tuy tình hình thực hiện trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng với những điều
chỉnh về điều kiện chi trong luật NSNN năm 2015 thay thế luật NSNN năm 2002 hi vọng

hoạt động chi ngân sách sẽ được thực hiện hiệu quả hơn.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư pháp, Hà Nội
2.
3.
4.
5.
6.

– 2005
Luật Ngân sách nhà nước năm 2002
Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
Nghị định số 60/2003/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách
nhà nước
/> />
7. />
pers_id=2177082&item_id=116904435&p_details=1
8. />
2014/#more-2722
9. />pers_id=2177082&item_id=116904435&p_details=1
10. />
nuoc-36035/

14




×