Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Phân tích hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè tại huyện hàm yên, tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.3 KB, 86 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chè là cây công nghiệp dài ngày, được trồng khá phổ biến trên thế giới,
tiêu biểu là một số quốc gia thuộc khu vực Châu á như: Trung Quốc, Nhật Bản,
Việt Nam... Nước chè là thức uống tốt, rẻ tiền hơn cafê, ca cao, có tác dụng giải
khát, chống lạnh, khắc phục sự mệt mỏi của cơ thể, kích thích hoạt động của hệ
thần kinh, hệ tiêu hoá, chữa được một số bệnh đường ruột. Một giá trị đặc biệt
của chè được phát hiện gần đây là tác dụng chống phóng xạ, điều này đã được
các nhà khoa học Nhật bản thông báo qua việc chứng minh chè có tác dụng
chống được chất Stronti (Sr) 90 là một đồng vị phóng xạ rất nguy hiểm, qua việc
giám sát thống kê nhận thấy nhân dân ở một vùng ngoại thành Hirôsima có trồng
nhiều chè, thường xuyên uống nước chè, vì vậy rất ít bị nhiễm phóng xạ hơn các
vùng chung quanh không có chè. Chính vì các đặc tính ưu việt trên, chè đã trở
thành một sản phẩm đồ uống phổ thông trên toàn thế giới. Hiện nay, trên thế giới
có 58 nước trồng chè, trong đó có 30 nước trồng chè chủ yếu, 115 nước sử dụng
chè làm đồ uống, nhu cầu tiêu thụ chè trên thế giới ngày càng tăng. Đây chính là
lợi thế tạo điều kiện cho việc sản xuất chè ngày càng phát triển.
Ở Việt Nam, chè là một cây công nghiệp lâu năm, cho sản phẩm trên một
năm từ 8 - 9 lứa, có tính ổn định, mang lại thu nhập khá ổn định cho người trồng
chè, nó thích ứng với các vùng miền núi và trung du phía Bắc, cây chè giúp
chống xói mòn, phủ xanh đất trống đồi trọc, thu hút lao động nhàn rỗi. Vì vậy,
việc phát triển cây chè ở nhiều vùng sẽ góp phần tạo ra của cải vật chất, tạo ra
vùng chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Nhận thấy được tầm quan trọng của
cây chè nên Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách xác định vị
trí vững chắc của cây chè trong nền nông nghiệp nước ta, bao gồm cả nhu cầu dự
trữ và xuất khẩu. Do vậy, cây chè được coi là một sản phẩm có giá trị cao, góp
phần không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Hàm Yên là một huyện miền núi phía Bắc của Tỉnh Tuyên Quang. Huyện
Hàm Yên có nguồn tài nguyên rất phong phú, có tiềm năng trong việc phát triển
sản xuất và công nghiệp chế biến chè. Trong những năm qua, sản xuất chè ở Hàm




2
Yên ngày càng được cải thiện, trong đó phải kể đến tăng trưởng năng suất chề
của các hộ nông dân. Trên phương diện lý thuyết, tăng trưởng năng suất chè được
đóng góp bởi nhiều yếu tố như: hiệu quả quy mô - hiệu quả do sử dụng them các
yếu tố đầu vào làm tăng năng suất, hiệu quả kỹ thuật - hiệu quả do sử dụng hợp
lý các nguồn lực hiện có để tăng năng suất và đóng góp bởi tiến bộ khoa học ký
thuật. Trong đó, hiệu quả kỹ thuật đóng vai trò quan trọng và sự cải thiện của
hiệu quả kỹ thuật sẽ góp phần làm tăng năng suất.
Nhằm mục tiêu ước lượng hiệu quả kỹ thuật, sự thay đổi của hiệu quả kỹ
thuật trong sản xuất chè giai đoạn 2011 - 2013; và xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả kỹ thuật của hộ trồng chè để từ đó đề xuất định hướng, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của hộ trồng chè có ý nghĩa thiết thực về mặt lý
luận và thực tiễn. Đứng trước thực trạng đó, tác giả xin chọn đề tài “Phân tích
hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài là nhằm nâng cao hiệu quả kỹ thuật trong sản
xuất chè tại tỉnh Tuyên Quang.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất
nông nghiệp nói chung và sản xuất chè nói riêng.
Phân tích thực trạng hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè tại huyện Hàm
Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè
tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè tại
huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.

3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ
thuật trong sản xuất chè tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.


3
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu các hộ sản xuất chè tại huyện
Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Phạm vi về thời gian: Số liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thu thập
qua 3 năm, từ năm 2011 đến năm 2013.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Đề tài là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, là tài liệu
giúp huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang xây dựng một số chính sách, chương
trình nhằm nâng cao hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè cho các hộ nông dân
trên địa bàn
6. Những đóng góp mới của luận văn
Các giải pháp đưa ra nhằm giúp các hộ nông dân nâng cao hiệu quả, phát
triển sản xuất, được xây dựng thông qua phân tích, xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè, do vậy các giải pháp sẽ sát với
thực tế và phù hợp với điều kiện của nhóm hộ hơn.
Ứng dụng mô hình phân tích sự tác động của các yếu tố tới hiệu quả kỹ
thuật trong sản xuất cho phép đưa ra các kết luận chính xác về sự tác động đó.
7. Bố cục của luận văn
Kết cấu luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về hiệu quả kỹ thuật
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng nâng cao hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè ở
huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè ở

huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang


4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT TRONG SẢN
XUẤT NÔNG NGHIỆP NÓI CHUNG VÀ SẢN XUẤT CHÈ NÓI RIÊNG

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái quát chung về hiệu quả kỹ thuật
1.1.1.1. Hiệu quả: Bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, có quan hệ
mật thiết với nhau như một thể thống nhất, không tách rời nhau. Chúng là tiền đề
của nhau và phạm trù thống nhất.
* Các khái niệm cơ bản liên quan
Phần này đề cập đến một số thuật ngữ thường được sử dụng trong phân tích
hiệu quả kỹ thuật.
- Hiệu quả: là việc xem xét lựa chọn thứ tự ưu tiên các nguồn lực sao cho đạt
kết quả cao nhất. Hiệu quarbao gồm 3 yếu tố: (1) không sử dụng nguồn lực lãng
phí, (2) sản xuất với chi phí thấp nhất, (3) sản xuất để đáp ứng nhu cầu con người.
- Hiệu quả sản xuất được đo lường bằng sự so sánh kết quả sản xuất kinh
doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả sản xuất trong nông
nghiệp được tính như sau:
Hiệu quả sản xuất = Thu nhập trên một đơn vị diện tích – Tổng chi phí sản
xuất trên một đơn vị diện tích. Trong đó:
Thu nhập trên một đơn vị diện tích = Giá bán x Sản lượng trên một đơn vị
diện tích.
Tổng chi phi trên một đơn vị diện tích là tổng các chi phí phát sinh trong quá
trình sản xuất trên một đơn vị diện tích, Mà chi phí trong sản xuất chè bao gồm:
Chi phí chuẩn bị đất, chi phí giống, chi phí phân bón, chi phí thuốc trừ sâu,diệt
cỏ, chi phí chăm sóc, chi phi nhiên liệu, năng lượng, chi phí vận chuyển trong quá

trình sản xuất, chi phí lãi vay, thuê đất, thuế, phí, chi phí thu hoạch, sơ chế…..
- Hiệu quả kinh tế: Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình
kinh tế nào đó); K là kết quả thu được từ hiện tượng (quán trình) kinh tế đó và C
là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó. Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn


5
gọn: Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinhn tế và được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các nguồn lực ở
mọi điều kiện “động” củ hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn có
thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng
của hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác
nhau của chúng.
Một số tác giả cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ
giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ
đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần phần
tham gia vào quy trình kinh tế.
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan
điểm này là tác ỉa Manfred Kuhn, theo ông: “ Tính hiệu quả được xác định bằng
cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chi cho chi phí kinh doanh”. Đây là quan
điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả
kinh tế cảu các quá trình kinh tế.
Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế.
Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn
vị giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. “Mối quan hệ
tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg…) và lượng các nhân tố
đầu vào (giời lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu…) được gọi là tính hiệu
quả có tính chất kỹ thuạt hay hiện vật”, “ Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh

doanh phải chỉ ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế
phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt giá trị”. Và “ Để xác định tính
hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng
tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền”. Khái niệm hiệu quả kinh tế tính
bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị


6
và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt
động quản trị chi phí.
Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý
và sử dụng phổ biến đó là: hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một quá
trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để
đạt được mục tiêu xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được
tính hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể
hiểu hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, mấy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu và tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định.
*Bản chất của hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh:
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả
kinh tế của hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng
của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao
động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu
cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp – mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động
sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của cơ sở sản xuất là những gì mà cơ sở đạt được sau một quá trình sản

xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt được cũng là mục tiêu cần thiết của cơ
sở đó.
Vấn đề được đặt ra là: hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của
hoạt động sản xuất kinh doanh nới riêng là mục tiêu hay phương tiện của kinh
doanh? Trong thực tế nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công
cụ để nhận biêt “khả năng” tiến tới mục tiêu cần đạt được kết quả.
*Hiệu quả kinh tế của tiến bộ khoa học kỹ thuật:


7
Là một bộ phận của hiệu quả kinh tế - xã hội, nó là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố. Nó gắn liền với hiệu quả sử dụng đất, với việc tận dụng tối đa các
điều kiện của khí hậu - thời tiết. Gắn liền với việc tác động chủ quan của con
người thông qua việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Thực chất của việc áp dụng biện pháp kỹ thuật tiến bộ là đầu tư bổ sung trên
một đơn vị diện tích. Thông thường các yếu tố đầu tư bổ sung có chất lượng cao
hơn, hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hơn các yếu tố đầu tư đã được sử dụng
trước đó. Sự tác động này có thể thông qua trực tiếp việc nâng cao số lượng và
chất lượng các yếu tố đầu tư bổ sung, hoặc có thể tác động gián tiếp thông qua bố
trí cơ cấu mùa vụ hợp lý hơn hay là áp dụng phương pháp phù hợp hơn.
Kết quả của việc áp dụng các tiến bộ có thể biểu hiện bằng sản phẩm hữu
hình hoặc sản phẩm vô hình nhằm đạt hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất, bao gồm:
- Số lượng, chất lượng và giá trị sản phẩm tăng lên.
- Chi phí trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống.
- Cải thiện điều kiện lao động cho nông dân.
- Cải thiện đời sống cho người lao động.
- Cải tạo môi trường, môi sinh.
1.1.1.2.Kỹ thuật và hiệu quả kỹ thuật
*Kỹ thuật: là sự ứng dụng của các nguyên tắc toán và khoa học khác vào
thực tế để thiết kế, chế tạo và vận hành các cấu trúc, máy móc, quá trình, hệ thống

một cách kinh tế và hiệu quả (Theo từ điển American Heritage Dictionary ò the
Enghlish Language).
Kỹ thuật là lĩnh vực ở đó kiến thức về khoa học tự nhiên và toán học - có sự
thông qua học tập, nghiên cứu, thí nghiệm và thực hành – được quyết định để
phát triển các cách thức khai thác một cách kinh tế các vật liệu và năng lực thiên
nhiên vì lợi ích của con người (theo Ủy ban kiểm định Hoa Kỳ).
Theo Sam Florman, 1976 “ Kỹ thuật là nghệ thuật hoặc khoa học của việc ra
quyết định thực tế”.


8
- Kỹ thuật canh tác: Trong nông nghiệp kỹ thuật canh tác là một quy trình
bắt đầu sạ đến thu hoạch, nhằm đạt được mục tiêu thu được năng suất cao nhất có
thể. Quy trình đó thông qua các khâu từ làm đất, gieo sạ, chăm sóc, thu hoạch,
phơi sấy, chế biến và bảo quản.
- Kỹ thuật với chức năng khoa học ứng dụng: Hầu hết mọi người đều đồng
ý rằng kỹ thuật là ứng dụng khoa học và toán học vào thực teesvaf quan tâm đến
việc chuyển đổi khoa học cơ bản vào công nghệ.Từ đó, từ công nghệ sản phẩm
hữu dụng hơn là mở rộng khoa học cơ bản.
Trong nông nghiệp hiệu quả kỹ thuật được thể hiện rõ nhất là giống cây trồng
năng xuất cao, giống gia súc đã được cải tạo,… nhưng công nghệ lại được thể hiện
ở khâu vốn đầu tư nghĩa là máy móc, hệ thống tưới tiêu,…
Các nhà kinh tế cho rằng công nghệ là tập hợp những kỹ thuật sẵn có hoặc
trình độ kiến thức về mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng đầu ra
bằng vật chất nhất định. Đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức sao cho
nâng cao được năng lực sản xuất để có thể làm ra nhiều sản phẩm hơn với số lượng
đầu vào như cũ, với số lượng đầu vào ít hơn. Nhiều đổi mới công nghệ trong nông
nghiệp còn nhằm để tiết kiệm lao động (do sử dụng máy móc) hoặc tiết kiệm đất
đai.
Phần lớn những kỹ thuật tiến bộ áp dụng vào sản xuất đều tạo ra khả năng đạt

được mục tiêu kinh tế do xã hội đặt ra như năng suất cao hơn, chất lương cao hơn,
giá thành hạ hơn và tăng thu nhập cho người sản xuất, đồng thời cũng tạo ra hiệu
quả xã hội khác như cải thiện điều kiện sống, cải tạo môi trường, môi sinh.
- Các nguốn kỹ thuật tiến bộ và việc áp dụng nó:
+ Đúc kết từ kinh nghiệm thực tế.
+ Những kết quả nghiên cứu và phát triển qua khảo nghiệm được áp dụng
trong sản xuất.
+ Những kết quả nghiên cứu và phát triển bên ngoài đưa vào.
*Hiệu quả kỹ thuật:


9
Trong kinh tế học sản xuất, hiệu quả sản xuất được cấu thành từ ba thành
phần. Các thành phần đó bao gồm hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bổ (Farrell, 1957). Hiệu quả kinh tế là tích của hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bổ. Hiệu quả kinh tế được xác định như sau:
EE i = TE i × AE i

Trong đó: EEilà hiệu quả kinh tế của nhà sản xuất thứ i
TEi là hiệu quả kỹ thuật của nhà sản xuất thứ i
AEilà hiệu quả phân bổ của nhà sản xuất thứ i.
Hiệu quả kỹ thuật là khả năng đạt được mức sản lượng đầu ra tối đa từ một
lượng đầu vào cho trước hoặc khả năng đạt được mức sản lượng cho trước từ một
lượng đầu vào nhỏ nhất, ứng với một trình độ công nghệ nhất định.
Hiệu quả phân bổ là khả năng lựa chọn được một lượng đầu vào tối ưu mà ở
đó giá trị sản phẩm biên của đơn vị đầu vào cuối cùng bằng với giá của đầu vào
đó.
Nói cách khác, hiệu quả kỹ thuật là khả năng của con người sản xuất, có thể
sản xuất mức đàu ra tối đa với tập hợp các đầu vào và công nghệ cho trước. Hay
là việc tạo ra một số sản lượng snar phẩm nhất định từ việc sử dụng nguồn lực

đầu vào ít nhất.
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi
phí đầu vào, hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất nông nghiệp trong những điều
kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp.
1.1.2. Cơ sở lý luận về phát triển sản xuất chè
1.1.2.1. Ýnghĩa của việc phát triển sản xuất chè
Chè là cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao, nó có vị trí quan
trọng trong đời sống sinh hoạt và đời sống kinh tế, văn hóa của con người. Sản
phẩm chè hiện nay được tiêu dùng ở khắp các nước trên thế giới, kể cả các nước
không trồng chè cũng có nhu cầu lớn về chè. Ngoài tác dụng giải khát chè còn có
nhiều tác dụng khác như kích thích thần kinh làm cho thần kinh minh mẫn, tăng
cường hoạt động của cơ thể, nâng cao năng lực làm việc, tăng sức đề kháng cho


10
cơ thể…
Đối với nước ta sản phẩm chè không chỉ để tiêu dùng nội địa mà còn là
mặt hàng xuất khẩu quan trọng để thu ngoại tệ góp phần xây dựng đất nước. Đối
với người dân thì cây chè đã mang lại nguồn thu nhập cao và ổn định, cải thiện
đời sống kinh tế văn hóa xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho bộ phận lao động dư
thừa nhất là ở các vùng nông thôn. Nếu so sánh cây chè với các loại cây trồng
khác thì cây chè có giá trị kinh tế cao hơn hẳn, vì cây chè có chu kỳ kinh tế dài,
nó có thể sinh trưởng, phát triển và cho sản phẩm liên tục khoảng 30 - 40 năm,
nếu chăm sóc tốt thì chu kỳ này còn kéo dài hơn nữa.
Mặt khác chè là cây trồng không tranh chấp đất đai với cây lương thực, nó
là loại cây trồng thích hợp với các vùng đất trung du và miền núi. Chính vì vậy
cây chè không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn góp phần cải thiện môi trường,
phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Nếu kết hợp với trồng rừng theo phương thức
Nông - Lâm kết hợp sẽ tạo nên một vành đai xanh chống xói mòn rửa trôi, góp
phần bảo vệ một nền nông nghiệp bền vững.

Như vậy, phát triển sản xuất chè đã và đang tạo ra một lượng của cải vật
chất lớn cho xã hội, tăng thu nhập cho người dân, cải thiện mức sống ở khu vực
nông thôn. Nó góp phần vào việc thúc đẩy nhanh hơn công cuộc Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, giảm bớt chênh lệch về kinh tế xã hội
giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng núi cao và đồng bằng.
1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất chè
Cây chè có đặc điểm từ sản xuất đến chế biến đòi hỏi phải có kỹ thuật khá
cao từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch đến chế biến và bảo quản. Vì thế để phát
triển ngành chè hàng hóa đạt chất lượng cao cần phải quan tâm, chú trọng từ
những khâu đầu tiên, áp dụng những chính sách đầu tư hợp lý, loại bỏ dần những
phong tục tập quán trồng chè lạc hậu… Để tạo ra được những sản phẩm hàng hóa
có sức cạnh tranh cao, thu hút khách hàng và các nhà đầu tư sản xuất trong và
ngoài nước. Nếu coi cây chè là cây trồng mũi nhọn thì cần phải thực hiện theo


11
hướng chuyên môn hóa để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm chè góp phần
tăng thu nhập cải thiện đời sống người dân trồng chè.
Những nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất chè:
a. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
+ Đất đai và địa hình: Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng đối với sản
xuất nông nghiệp nói chung và cây chè nói riêng. Đất đai là yếu tố ảnh hưởng đến
sản lượng, chất lượng chè nguyên liệu và chè thành phẩm. Yếu tố đất đai cho
phép quyết định chè được phân bổ trên những vùng địa hình khác nhau.
Muốn chè có chất lượng cao và hương vị đặc biệt cần phải trồng chè ở độ
cao nhất định. Đa số những nơi trồng chè trên thế giới thường có độ cao cách mặt
biển từ 500 - 800m. So với một số cây trồng khác, cây chè yêu cầu về đất không
nghiêm ngặt. Nhưng để cây sinh trưởng tốt, có tiềm năng năng suất cao thì đất
trồng chè phải đạt yêu cầu: đất tốt, nhiều mùn, có độ sâu, chua và thoát nước. Độ
pH thích hợp là 4,5 - 6, đất phải có độ sâu ít nhất là 60cm, mực nước ngầm phải

dưới 1 m. Địa hình có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và chất lượng chè. Chè
trồng ở trên núi cao có hương vị thơm và mùi vị tốt hơn vùng thấp, nhưng lại sinh
trưởng kém hơn ở vùng thấp.
+ Thời tiết khí hậu: Cùng với địa hình, đất đai, các yếu tố: nhiệt độ, ẩm độ
trong không khí, lượng mưa, thời gian chiếu sáng và sự thay đổi mùa đều ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất, sản lượng và chất lượng chè. Cây chè bắt đầu sinh
trưởng được ở nhiệt độ >10oC. Nhiệt độ trung bình hàng năm để cây chè sinh
trưởng và phát triển bình thường là 12,5 oC, cây chè sinh trưởng và phát triển tốt
nhất trong điều kiện nhiệt độ từ 15 – 23 oC. Mùa đông cây chè tạm ngừng sinh
trưởng, mùa xuân cây chè sinh trưởng trở lại.
Cây chè yêu cầu lượng tích nhiệt hàng năm từ 3000 - 4000 oC. Nhiệt độ
quá cao và quá thấp đều ảnh hưởng đến việc tích luỹ tanin trong chè, nếu nhiệt độ
vượt quá 35 oC liên tục kéo dài sẽ dẫn đến cháy lá chè. Nhiệt độ thấp kết hợp với
khô hạn là nguyên nhân hình thành nhiều búp mù.


12
Cây chè tiến hành quang hợp tốt nhất trong điều kiện ánh sáng tán xạ, ánh
sáng trực xạ trong điều kiện nhiệt độ không khí cao không có lợi cho quang hợp
và sinh trưởng của chè. Tuỳ theo giống và tuổi của chè mà yêu cầu ánh sáng cũng
khác nhau. Thời kỳ cây con, giống chè lá to yêu cầu ánh sáng ít hơn trong thời kỳ
cây trưởng thành và giống lá chè nhỏ.
Do cây chè là cây thu hoạch lấy búp non và lá non nên cây ưa ẩm, cần
nhiều nước. Yêu cầu lượng mưa bình quân trong năm khoảng 1.500 mm và phân
bố đều trong các tháng. Lượng mưa và phân bố lượng mưa ảnh hưởng đến thời
gian sinh trưởng và thu hoạch của cây chè. Cây chè yêu cầu độ ẩm cao trong suốt
thời kỳ sinh trưởng là khoảng 85%. Ở nước ta các vùng trồng chè có điều kiện
thích hợp nhất cho cây chè phát triển cho năng suất và chất lượng cao vào các
tháng 5, 6, 7, 8, 9 và 10 trong năm.
b. Nhóm nhân tố về kỹ thuật

+ Ảnh hưởng của giống chè: Chè là loại cây trồng có chu kỳ sản xuất dài,
giống chè tốt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sản xuất. Do vậy, việc nghiên
cứu chọn, tạo và sử dụng giống tốt phù hợp cho từng vùng sản xuất được các nhà
khoa học và người sản xuất quan tâm từ rất sớm.
Năm 1905, Trạm nghiên cứu chè đầu tiên trên thế giới được thành lập trên
đảo Java. Đến năm 1913, Cohen Stuart đã phân loại các nhóm chè dựa theo hình
thái. Tác giả đã đề cập đến vấn đề chọn giống chè theo hướng di truyền sản
lượng, đồng thời ông cũng đề ra tiêu chuẩn một giống chè tốt. Theo ông, để chọn
được một giống tốt theo phương pháp chọn dòng cần phải trải qua 7 bước:
1. Nghiên cứu vật liệu cơ bản.
2. Chọn hạt.
3. Lựa chọn trong vườn ươm.
4. Nhân giống hữu tính và vô tính.
5. Chọn dòng.
6. Lựa chọn tiếp tục khi thu búp ở các dòng chọn lọc.
7. Thử nghiệm thế hệ sau.


13
Lựa chọn thế hệ sau được tiến hành theo các đặc tính của tính trạng bên
ngoài của cây như: Thân, cành, lá, búp, hoa, quả...
Giống chè ảnh hưởng tới năng suất búp, chất lượng nguyên liệu do đó cũng
ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm chè, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và
cạnh tranh trên thị trường. Mỗi sản phẩm chè đòi hỏi một nguyên liệu nhất
định, mỗi vùng, mỗi điều kiện sinh thái lại thích hợp cho một hoặc một số
giống chè. Vì vậy, để góp phần đa dạng hóa sản phẩm chè và tận dụng lợi thế
so sánh của mỗi vùng sinh thái cần đòi hỏi một tập đoàn giống thích hợp với
điều kiện mỗi vùng.
Để đáp ứng yêu cầu kế hoạch sản xuất chè ở Việt Nam và góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế xã hội, môi trường của sản xuất chè cần áp dụng đồng bộ các

giải pháp, trong đó nghiên cứu và triển khai giống chè mới là giải pháp rất quan
trọng, cần thiết cho việc phát triển cây chè cả về trước mắt và lâu dài.
+ Tưới nước cho chè: Chè là cây ưa nước, trong búp chè có hàm lượng
nước lớn, song chè rất sợ úng và không chịu úng. Chè gặp khô hạn sẽ bị cằn cỗi,
hạn chế việc hút các chất dinh dưỡng từ đất, khô hạn lâu ngày sẽ làm giảm sản
lượng thậm chí còn chết. Do đó, việc tưới nước cho chè là biện pháp giữ ẩm cho
đất để cây sinh trưởng phát triển bình thường, cho năng suất và chất lượng cao.
+ Mật độ trồng chè: Để có năng suất cao cần đảm bảo mật độ trồng chè cho
thích hợp, mật độ trồng chè phụ thuộ vào giống chè, độ giốc,điều kiện cơ giới
hóa. Nhìn chung tùy điều kiện mà ta bố trí mật độ chè khác nhau, nếu mật độ quá
thưa hoặc quá dầy thì sẽ làm cho năng suất sản lượng thấp, lâu khép tán, không
tận dụng được đất đai, không chống được xói mòn và cỏ dại, vì vậy cần phải bố
trí mật độ chè cho hợp lý.
+ Đốn chè: Đốn chè là biện pháp kỹ thuật không những có ảnh hưởng đến
sinh trưởng phát triển của cây chè mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất
lượng chè. Do vậy, kỹ thuật đốn chè đã được nhiều nhà khoa học chú ý nghiên
cứu.


14
Kỹ thuật đốn chè ở Việt Nam đã được đề cập từ lâu, đầu tiền từ những kinh
nghiệm của thực tiến sản xuất. Trước năm 1945 nhân dân vùng Thanh Ba - Phú
Thọ đã có kinh nghiệm đốn chè kinh doanh: "Năm đốn - năm lưu".
Những công trình nghiên cứu về đốn chè ở Trại Thí nghiệm chè Phú Hộ Phú Thọ từ năm 1946 - 1967 đã đi đến kết luận hàng năm đốn chè tốt nhất vào
thời gian cây chè ngừng sinh trưởng và đã đề ra các mức đốn hợp lý cho từng loại
hình đốn:
Đốn Phớt: Đốn hàng năm, đốn cao hơn vết đốn cũ 3 - 5cm, khi cây chè cao
hơn 70cm thì hàng năm đốn cao hơn vết đốn cũ 1 - 2cm.
Đốn lửng: Đốn cách mặt đất 60 - 65cm. Đốn dàn: Đốn cách mặt đất 40 - 50cm.
Đốn trẻ lại: Đốn cách mặt đất 10 - 15cm.

Nghiên cứu về đốn chè các tác giả Nguyễn Ngọc Kính (1979), Đỗ Ngọc
Quỹ (1980) đều cho thấy: đốn chè có tác dụng loại trừ các cành già yếu, giúp cho
cây chè luôn ở trạng thái sinh trưởng dinh dưỡng, hạn chế ra hoa, kết quả, kích
thích hình thành búp non, tạo cho cây chè có bộ lá, bộ khung tán thích hợp, vừa
tầm hái.
+ Bón phân: Bón phân cho chè là một biện pháp kỹ thuật quan trọng nhằm
tăng sự sinh trưởng của cây chè, tăng năng suất và chất lượng chè. Trong quá
trình sinh trưởng, phát triển, cây chè đã lấy đi một lượng phân rất cao ở trong đất,
trong khi đó chè lại thường được trồng trên sườn đồi, núi cao, dốc, nghèo dinh
dưỡng... Cho nên, lượng dinh dưỡng trong đất trồng chè ngày càng bị thiếu hụt.
Chính vì vậy, để đảm bảo cho cây chè sinh trưởng tốt và cho năng suất cao,
chất lượng tốt, đảm bảo được mục đích canh tác lâu dài, bảo vệ môi trường và
duy trì thu nhập thì bón phân cho chè là một biện pháp không thể thiếu được.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đều cho
thấy hiệu quả của bón phân cho chè chiếm từ 50 - 60%.
Hiệu quả của các biện pháp nông học đối với năng suất chè, kết quả nghiên
cứu trong 10 năm cho (1988-1997) ở Phú Hộ cho thấy:


15
Đạm có vai trò hàng đầu, sau đó đến Lân và Kali đối với sinh trưởng của
chè nhỏ tuổi.
Đạm và Lân có ảnh hưởng lớn hơn đối với cây chè nhỏ tuổi, lớn hơn vai trò
của tổ hợp Đạm và Kali. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và
năng suất chè ở các giai đoạn khác nhau, tác giả Chu Xuân Ái, Đinh Thị Ngọ, Lê
Văn Đức 1998 cho thấy: phân lân có vai trò với sinh trưởng cả về đường kính
thân, chiều cao cây, độ rộng tán của cây con.
Bón phân cân đối giữa N, P, K cho năng suất cao hơn hẳn so với chỉ bón
đạm và kali hoặc chỉ bón mỗi đạm. Thời kỳ đầu của giai đoạn kinh doanh sự sinh
trưởng tán chè tiếp tục đòi hỏi đủ phân P, K nên cơ sở bón đủ đạm. Như vậy, cây

chè cần được cung cấp N, P, K với lượng cân đối hợp lý và thường xuyên. Tuy
nhiên, mỗi giai đoạn cây cần với liều lượng khác nhau với nguyên tắc: từ không
đến có, từ ít đến nhiều, bón đúng lúc, đúng cách, đúng đối tượng và kịp thời.
Nếu bón phân hợp lý sẽ giúp cho cây chè sinh trưởng và phát triển tốt, tăng
khả năng chống chịu với điều kiện thời tiết bất thuận, sâu bệnh dẫn đến tăng năng
suất.
+ Hái chè: Thời điểm, thời gian và phương thức hái có ảnh hưởng đến chất
lượng chè nguyên liệu, hái chè gồm một tôm hai lá là nguyên liệu tốt cho chế biến
chè, vì trong đó chứa hàm lượng Polyphenol và Caphein cao, nếu hái quá già thì
không những chất lượng chè giảm mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển
của cây chè.
+ Vận chuyển và bảo quản nguyên liệu: Nguyên liệu chè sau khi thu hái có
thể đưa thẳng vào chế biến, có thể để một thời gian nhưng không quá
10h do nhà máy chế biến ở xa hoặc công suất máy thấp. Do vậy khi thu hái
không để dập nát búp chè.
+ Công nghệ chế biến: Tùy thuộc vào mục đích của phương án sản phẩm
mà ta có các quy trình công nghệ chế biến phù hợp với từng nguyên liệu đầu vào,
nhìn chung quá trình chế biến gòm hai giai đoạn sơ chế và tinh chế thành phẩm.


16
Chế biến chè đen gồm các công đoạn: Hái búp chè - Làm héo - Vò - Lên
men - Sấy khô - Vò nhẹ - Phơi khô. Chè đen thường được sơ chế bằng máy móc
hiện đại với năng suất chất lượng cao, trong các khâu này đòi hỏiquy trình kỹ
thuật phải nghiêm ngặt tạo hình cho sản phẩm và kích thích các phản ứng hóa học
trong búp chè.
Chế biến chè xanh: Là phương pháp chế biến được người dân áp dụng rất
phổ biến từ trước đến nay, quy trình gồm các công đoạn: từ chè búp xanh (1 tôm
2 lá) sau khi hái về đưa vào chảo quay xử lý ở nhiệt độ 100oC với thời gian nhất
định rồi đưa ra máy vò để cho búp chè săn lại, đồng thời giảm bớt tỷ lệ nước

trong chè. Sau khi vò xong lại đưa chè vào quay xử lý ở nhiệt độ cho đến khi chè
khô hẳn (chú ý nhiệt độ phải giảm dần). Sau khi chè khô ta có thể đóng bao bán
ngay hoặc sát lấy hương rồi mới bán, khâu này tùy thuộc vào khách hàng. Đặc
điểm của chè xanh là có màu nước xanh óng ánh, vị chát đậm, hương vị tự nhiên,
vật chất khô ít bị biến đổi.
Chế biến chè vàng: Yêu cầu của việc chế biến khác với chè xanh và chè
đen, chè vàng là sản phẩm của một số dân tộc ít người trên các vùng núi cao,
được chế biến theo phương pháp thủ công.
c. Nhóm nhân tố về kinh tế
+ Thị trường và giá cả: Kinh tế học đã chỉ ra 3 vấn đề kinh tế cơ bản: sản
xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?. Câu hỏi sản xuất cái gì
được đặt lên hàng đầu, buộc người sản xuất phải trả lời cho được, để trả lời câu
hỏi này người sản xuất tìm kiếm thị trường, tức là xác định được nhu cầu có khả
năng thanh toán của thị trường đối với hàng hoá mà họ sẽ sản xuất ra được người
tiêu dùng chấp nhận ở mức độ nào, giá cả có phù hợp hay không, từ đó hình thành
mối quan hệ giữa cung và cầu một cách toàn diện.
Nhu cầu trên thế giới ngày càng tăng và tập trung vào hai loại chè chính là
chè đen và chè xanh. Chè đen được bán ở thị trường Châu Âu và Châu Mỹ, còn
chè xanh được tiêu thụ ở thị trường Châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn


17
Quốc...). Chính vì vậy, nghiên cứu thị trường chè cần lưu ý tới độ co giãn cung
cầu về chè.
Cuối cùng là vấn đề sản xuất cho ai? ở đây muốn đề cập tới khâu phân
phối. Hàng hoá sản xuất ra được tiêu thụ như thế nào? ai là người được hưởng lợi
ích từ việc sản xuất đó, cụ thể là bao nhiêu? Có như vậy mới kích thích được sự
phát triển sản xuất có hiệu quả.
Thực tế cho thấy rằng, thực hiện cơ chế thị trường, sự biến động của cơ chế
thị trường ảnh hưởng lớn đến đời sống của người sản xuất nói chung, cũng như

người làm chè, ngành chè nói riêng. Do đó, việc ổn định giá cả và mở rộng thị
trường tiêu thụ chè là hết sức cần thiết cho ngành chè góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành nông nghiệp.
Để ổn định giá cả và mở rộng thị trường chè, một yếu tố cần thiết là hệ
thống đường giao thông. Phần lớn những vùng sản xuất chè xa đường quốc lộ rất
khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm. Do đường giao thông kém, đi lại khó khăn
nên người sản xuất thường phải bán với giá thấp do tư thương ép giá, làm hiệu
quả sản xuất thấp. Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như phát triển ngành
chè trong tương lai cần thiết phải có hệ thống giao thông thuận lợi để nâng tính
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
+ Cơ cấu sản xuất sản phẩm: Đa dạng hoá sản phẩm là quan điểm có ý
nghĩa thực tiễn cao, vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội. Đa dạng hoá sản phẩm
nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của thị trường và tiêu thụ được nhiều sản phẩm
hàng hoá nhưng đồng thời phải phát huy những mặt hàng truyền thống đã có kinh
nghiệm sản xuất, chế biến, được thị trường chấp nhận.
1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè

 Tuổi của chủ hộ
Nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Việc
nghiên cứu nguồn nhân lực trong nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với sự
phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Nguồn nhân lực trong nông nghiệp là tổng thể sức lao động tham gia


18
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng của người
lao động. Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15 đến 60
tuổi, nữ từ 15 đến 55 và những người trên và dưới độ tuổi nói trên tham gia hoạt
động sản xuất nông nghiệp). Như vậy về lượng của nguồn nhân lực trong nông
nghiệp khác ở chỗ, nó không phải chỉ bao gồm những người trong độ tuổi mà bao

gồm cả những người trên và dưới độ tuổi có khả năng và thực tế tham gia lao
động. Vì vậy trong công tác ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp thì độ
tuổi của các thành viên trong gia đình là rất quan trọng. Đặc biệt nhân tố độ tuổi
của chủ hộ giữ vai trò quan trọng nhất trong hộ gia đình đó.

 Trình độ học vấn
Học vấn gắn với người đứng đầu trong hộ nên chủ hộ có học vấn cao tính
bằng số năm đi học sẽ giúp cho họ có nhận thức tốt hơn trong tổ chức sản xuất
của hộ làm hộ có khả năng áp dụng công nghệ kỹ thật vào sản xuất nông nghiệp
cao. Hộ nông dân thường ít cho con em đến trường vì chi phí cho con cái đi học
cao, và việc đi học mất đi lao động tạo thu nhập trước mắt, hơn cả là quan niệm
không cần đi học, chỉ cần có kinh nghiệm là đủ.
Theo các nghiên cứu trước đây, trình độ học vấn có tương quan thuận với
tỷ lệ áp dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Người
nông dân thường không có đủ tiền để trang trải chi phí học tập cho nên thường bỏ
học rất sớm hay thậm chí là không đi học. Trình độ học vấn thấp sẽ là rào cản để
họ tìm kiếm một việc làm có thu nhập ổn định hoặc ứng dụng khoa học và kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, trình độ học vấn của chủ hộ còn có
ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng hay
cho con cái đi học và ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức sản xuất cho hộ gia
đình.
 Kinh nghiệm của chủ hộ
Về chất lượng bao gồm thể lực và trí lực của người lao động, cụ thể là trình
độ sức khoẻ, trình độ nhận thức, trình độ chính trị, trình độ văn hoá, nghiệp vụ và
tay nghề của người lao động.


19
Nguồn nhân lực trong nông nghiệp có những đặc điểm riêng so với các
ngành sản xuất vật chất khác, trước hết mang tính thời vụ cao là nét đặc trưng

điển hình tuyệt đối không thể xoá bỏ. Vì thế số lao động ở lại trong khu vực công
nghiệp thường là những người có độ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng
tăng lên. Còn lại số lao động của hộ mà trực tiếp tham gia vào sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn chủ yếu là lao động thời vụ, và người ngoài độ tuổi lao động.
Kinh nghiệm của chủ hộ có vai trò quan trọng tác động trực đến công tác
ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp của hộ gia đình từ đó làm tăng hiệu quả
kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.

 Thu nhập phi nông nghiệp
Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp nó sẽ hình thành một nền sản
xuất hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái của
từng vùng, tạo việc làm và thu hút lao động ở nông thôn, đưa tiến bộ khoa học
vào sản xuất nông nghiệp. Sản xuất phi nông nghiệp góp phần nâng cao về trình
độ công nghệ và thu nhập trên một đơn vị diện tích, năng suất lao động, nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh của một số sản phẩm. Phát triển các hoạt động phi
nông nghiệp một mặt thu hút lao động dư thừa và tạo thu nhập và mặt khác quan
trọng hơn, nó là giải pháp có hiệu quả để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn.
Việc phát triển các hoạt động phi nông nghiệp sẽ thúc đẩy phân công lao
động xã hội, phát triển ngành nghề, thu hút vốn và nguồn lực trong dân.Giúp cho
nền kinh tế nông thôn ngày càng phát triển, vượt qua những khó khăn, nâng cao
hiệu quả sản xuất hướng tới sự phát triển toàn diện của bản thân người nông dân
và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Sản xuất phi nông nghiệp được hiểu
không phải chỉ từ công nghiệp và xây dựng, mà còn từ hoạt động buôn bán, vận
tải, tài chính, tô tức và du lịch; thu nhập từ bán trực tiếp nông sản, bán sức lao
động trong vùng và ở đô thị…..
 Số mảnh đất
Đất đai trong nông nghiệp ngày càng thu hẹp do có sự chuyển dịch sang
các loại đất khác bởi nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong khi đất đai
không thể thiếu trong hộ sản xuất nông nghiệp vì vậy sẽ làm cho các hộ thiếu đất



20
sản xuất gần với khả năng nghèo hơn, do đó công tác ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp càng trở nên khó khăn hơn. Nếu địa phương có quỹ đất
rộng đồng nghĩa với việc hộ gia đình sẽ có diện tích đất lớn. Từ đó việc áp dụng
công nghệ trên quy mô lớn sẽ được hưởng ứng nếu công nghệ đó hiệu quả.
Các nguồn lực cơ bản và cần thiết cho sản xuất nông nghiệp là đất đai và
vốn. Người nông dân thiếu các nguồn lực đó nên nghèo lại hoàn nghèo. Diện tích
và chất lượng đất đóng vai trò quyết định đến mức sống của những hộ sống bằng
nông nghiệp. Không có đất hoặc thiếu đất canh tác sẽ khiến cho hộ nông dân rơi
vào hoàn cảnh sản xuất không đủ lương thực và thu nhập thấp. Thêm vào đó,
người nông dân chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như
khuyến nông, khuyến ngư nên khó có thể nâng được giá trị của sản phẩm cây
trồng, vật nuôi.
 Công tác khuyến nông
Công việc của khuyến nông là:
- Tiếp thu, tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học- kỹ thuật nông
nghiệp (Tập huấn kỹ thuật, tiếp thu chủ trương của tỉnh sau đó phổ biến cho cho
dân).
- Tổ chức, tham gia thực hiện xây dựng mô hình trình diễn về khuyến nông
tại địa bàn phụ trách.
- Báo cáo, phản ánh tình hình sản xuất nông lâm nghiệp của xã theo định
kỳ (tháng, quý, năm).
- Tìm hiểu nguyện vọng của nông dân để đề đạt lên tổ chức khuyến nông
cấp trên.
- Tổng hợp nội dung liên quan đến quản lý sản xuất nông lâm nghiệp, cấp xã.
- Tổ chức và hướng dẫn hoạt động cho các nhóm nông dân.
- Tham gia các hoạt động khác ỏ địa phương khi có yêu cầu (Tham gia ban
quản lý HTX, thu thuế, tham gia công tác đoàn thể...).

Từ những công việc trên ta thấy công tác khuyến nông có vai trò quan
trọng với việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
 Tiếp cận tài chính vi mô
Giúp cho hộ có khả năng đầu tư cải thiện điều kiện làm việc, mở rộng việc
làm, tăng nguồn thu nhập cho hộ sẽ giúp hộ nhanh chóng tiếp cận được tiến bộ
khoa học- công nghệ trong nuôi trồng, từ đó phát triển sản xuất và tăng thu nhâp.


21
Vì những người nông thường có nhu cầu trong tương lai chỉ hạn chế ở mức tránh
được rủi ro thường gặp trong đời sống hàng ngày. Thiếu vốn và kỹ thuật nên khó
có kế hoạch dài hạn và càng dễ gặp khó khăn bất trắc trong cuộc sống, cuộc sống
gắn liền với bệnh tật và mất vệ sinh bên cạnh môi trường ô nhiễm. Vì thế, tiếp cận
được các nguồn vốn sẽ là điều kiện rất thuận lợi giúp họ ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp.
Không có vốn thì không thể hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thiếu vốn
đầu tư dẫn đến năng xuất thấp, kéo theo thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư thấp,
thu nhập lại tiếp tục thấp … Như vậy hộ gia đình sẽ không có điều kiện áp dụng
các ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp. Các nghiên cứu ở Việt Nam
cho thấy người nông dân hay gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tín dụng
chính thức của Chính phủ, trong khi đó những nguồn tín dụng phi chính thức chỉ
mang giải pháp tình thế chứ ít có khả năng giúp hộ gia đình ứng dụng công nghệ
trong sản xuất nông nghiệp. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nếu loại trừ nguyên
nhân do sự nhũng nhiễu của những người có trách nhiệm thì nguyên nhân còn lại
là do người nông dân thiếu hiểu biết, không có tài sản thế chấp, không biết cách
làm ăn dẫn đến không có khả năng áp dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có 58 nước phát triển sản xuất chè ở các quy mô khác
nhau tập trung nhiều nhất là ở châu Á có 20 nước (chủ yếu là ở Ấn Độ, Trung

Quốc, Srilanca, Indonexia, Nhật Bản, Việt Nam...) với diện tích chiếm khoảng
80% diện tích chè toàn thế giới. Tiếp đó là đến châu Phi có 21 nước, châu Mỹ có
12 nước, châu đại dương có 3 nước, châu Âu chỉ có Nga và Bồ Đào Nha.
Năm 2011, tổng kim ngạch của 10 nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới đạt
2,18 tỉ USD Mỹ, chiếm trên 50% tổng kim ngạch nhập khẩu chè toàn thế giới. So
với cùng kỳ năm 2009, kim ngạch nhập khẩu chè các nước này tăng trung bình
16,89%. Năm nước có kim ngạch nhập khẩu chè lớn nhất thế giới năm 2011 là


22
Nga (510,6 triệu USD), Anh (364 triệu USD), Mỹ (318,5 triệu USD), Nhật Bản
(182,1 triệu USD) và Đức (181,4 triệu USD).
Trong khi đó, tổng kim ngạch của 10 nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới
đạt gần 3,5 tỉ USD Mỹ, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2009. Danh sách các
nước trong bảng xếp hạng top 10 nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới năm 2010
không có nhiều thay đổi so với năm 2009 với ba nước dẫn đầu là Sri Lanka (đạt
1,2 tỉ USD), Trung Quốc (682,3 triệu USD) và Ấn Độ (501,3 triệu USD).
Theo Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO), năm 2011 nguồn cung chè
thế giới có thể giảm nhẹ so với năm 2010 do ảnh hưởng của thời tiết xấu đã làm
giảm sản lượng chè ở một số quốc gia sản xuất chè. Như tại Kenya, nước xuất
khẩu chè đen lớn nhất thế giới, những tháng đầu năm 2011 đang phải đối mặt với
thời tiết khô hạn kéo dài, làm sản lượng chè giảm mạnh. Sản lượng chè thu hoạch
của Kenya trong bốn tháng đầu năm nay đã giảm 50% so với cùng kỳ năm 2010.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Sri Lanka, khiến sản lượng chè của nước này
năm 2011 được dự báo sẽ giảm so với năm 2010.
Về thị trường tiêu thụ, theo dự báo của FAO, trong giai đoạn 2010 - 2011,
nhập khẩu chè đen thế giới ước tính khoảng 1,15 triệu tấn, mức tăng trung bình
khoảng 0,6%/năm. Các nước nhập khẩu chính như Anh, Nga, Pakistan, Mỹ, Nhật
Bản... sẽ chiếm khoảng 60% tổng lượng nhập khẩu chè toàn thế giới vào năm
2011. Cụ thể, Pakistan tăng 2,9%/năm, từ 109.400 tấn lên 150.000 tấn; Nhật Bản

cũng tăng từ 18.000 lên 22.000 tấn, tăng 1,8%/năm.
Tại thị trường Mỹ, mặc dù kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm nhưng nhu
cầu tiêu thụ chè không những không giảm mà còn tăng mạnh. Người tiêu dùng
Mỹ đã hạn chế mua những đồ uống đắt tiền như cà phê, nước trái cây, nước
ngọt...mà thay vào đó là tiêu dùng các sản phẩm rẻ hơn như chè, đặc biệt là những
loại chè có chất lượng trung bình.
Tại thị trường châu Âu, các nước Đức, Anh, Nga đều có xu hướng tăng nhu
cầu tiêu dùng chè. Ngay từ những tháng đầu năm 2011, tại các thị trường này,
người dân đã có xu hướng chuyển từ các đồ uống khác sang tiêu dùng các sản


23
phẩm từ chè như các loại chè truyền thống, chè uống liền, chè chế biến đặc biệt.
Như tại Nga (một trong những nước tiêu thụ chè lớn trên thế giới), với mức tiêu
thụ trung bình khoảng hơn 1 kilôgam chè/người/năm.
Trong giai đoạn 2010-2011, nhập khẩu chè đen của Nga sẽ tăng từ 223.600
tấn lên 315.200 tấn, mức tăng trung bình hàng năm là 3%. Tuy nhiên, mức tiêu
thụ chè đen (loại chè chiếm gần 80% mức tiêu thụ hàng năm) sẽ trong xu hướng
suy giảm. Tỷ lệ chè xanh, chè hoa quả, chè làm từ các loại cây thảo mộc sẽ có xu
hướng gia tăng.
Các thị trường khác như Ai Cập, Iran, Irắc nhu cầu tiêu dùng chè cũng tăng.
Như vậy, có thể thấy nhu cầu tiêu dùng chè tại các nước phát triển đang
chuyển dần từ các sản phẩm chè thông thường sang các sản phẩm chè uống liền
và chè chế biến đặc biệt trong khi tại các nước Tây Á và châu Á vẫn thích dùng
các sản phẩm chè truyền thống.
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất, sản lượng chè của một số nước
trên thế giới năm 2011
STT
1
2

3
4
5
6
7

Tên nước
Trung Quốc
Ấn Độ
Srilanka
Indonesia
Nhật Bản
Thái Lan
Việt Nam
Thế giới

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(ha)
(tạ khô/ha)
khô (tấn)
943.100
8,70
821.000
445.000
18,98

845.500
210.600
14,39
303.230
116.200
13,67
158.843
47.000
20,21
95.000
19.000
2,95
5.600
102.000
9,51
97.000
2.460.982
12,99
3.196.880
(Nguồn: Theo thống kê của FAO năm 2011)

Sản lượng chè đen toàn cầu năm 2013 giảm 6,89% so với cùng kỳ năm
2012. Sản lượng chè năm 2013 giảm xuống còn 247,95 triệu kg so với 266,3 triệu
kg, giảm 18,35 triệu kg hoặc 6,89%, do sản lượng tại Sri Lanka, Kenya và
Uganda giảm.
Sản lượng chè tại Sri Lanka giảm xuống còn 73,39 triệu kg, so với 80,29
triệu kg và sản lượng chè Kenya giảm xuống còn 112,08 triệu kg so với 117,26


24

triệu kg. Sản lượng chè Uganda đạt 4,03 triệu kg so với 14,56 triệu kg. Tại nam
Ấn Độ giảm 0,48 triệu kg, xuống còn 30,96 triệu kg. Bắc Ấn Độ đạt 4,97 triệu kg,
so với 4,34 triệu kg cùng kỳ năm ngoái.
Thời tiết bất lợi là nguyên nhân gây ra sản lượng chè tại các nước ở mức
thấp. Thời tiết trong tháng này được cải thiện, hầu hết diện tích trồng chè đều có mưa.
1.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè ở Việt Nam
Hiện với khoảng 120 ngàn ha trồng chè, Việt Nam đã đứng vào hàng thứ 5
về diện tích trong các nước trồng chè, và với khoảng hơn 80.000 tấn chè xuất
khẩu, Việt Nam xếp thứ 8 về khối lượng trong các nước xuất khẩu chè trên
thế giới.
Chè tại Việt Nam được sản xuất chủ yếu là trên quy mô thương mại và công
nghiệp, có khoảng 174.900 tấn chè được sản xuất mỗi năm có giá trị 204.018.000
USD trên thị trường quốc tế. Giá chè xuất khẩu bình quân từ Việt Nam là 1.340
USD/tấn, đạt mức cao so với các nước khác. Tuy nhiên, chè của Việt Nam đã
được xuất khẩu đến 61 quốc gia khác trên thế giới, trong đó có một số lượng nhỏ
là được xuất khẩu sang châu Âu và Mĩ. Đài Loan và Pakistan là hai quốc gia nhập
khẩu gần như toàn bộ các nguồn cung cấp chè từ Việt Nam.
Theo tổng công ty chè Việt Nam, đến nay cả nước đã có 34 địa phương
trồng chè và trên 600 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè với hơn 2.000
thương hiệu khác nhau. Đặc biệt, ngành chè đã thiết lập được nhiều vùng chè chất
lượng cao như: Lâm Đồng, Lạng Sơn, Sơn La, Lào Cai, Cao Bằng... Đồng thời,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho phép khảo nghiệm khu vực hoá
trên diện rộng 7 giống chè chất lượng cao như: Bát Tiên, Kim Tuyên, Thuý Ngọc,
Keo Am Tích... tại các vùng chè chủ lực. Theo Bộ thương mại, ước tính năm
2011, xuất khẩu chè của cả nước đạt con số cao nhất từ trước tới nay với khoảng
97.000 tấn, trị giá 93 triệu USD, tăng 60,8% về lượng và tăng 55% về trị giá so
với năm 2010. Dự báo năm 2012, con số này tăng lên tới 100.000 tấn, đạt trị giá
107 triệu USD. Trong cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam, chè xanh
hiện chiếm khoảng 20%, chè đen 79% và 1% là các loại chè khác.Khối lượng chè



25
xuất khẩu của Việt Nam tăng đột biến trong năm 2007, tăng khá trong năm 2008,
tăng đều trong 2009, 2010, 2011 và tăng mạnh trong năm 2012.
Tuy nhiên, trị giá xuất khẩu chè lại tăng chưa tương ứng, mặt do giá chè
chung trên thị trường thế giới giảm, mặt khác do phẩm cấp chè Việt Nam thấp,
chủ yếu dùng để làm nguyên liệu chế biến chè các loại.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, cuộc cạnh
tranh giữa các nước trồng, chế biến và xuất khẩu chè diễn ra rất gay gắt. Việt
Nam không những phải khai thác tối đa tiềm năng về trồng và chế biến chè mà
còn phải tìm và chuẩn bị thị trường tiêu thụ. Không thể phát triển và mở rộng
diện tích chè ồ ạt mà cần có quy hoạch, kế hoạch cụ thể và chặt chẽ. Nhìn chung
thị trường chè xuất khẩu của Việt Nam chưa thật sự ổn định. Nguyên nhân hiện
nay là sản phẩm chè cấp thấp chiếm tỷ trọng lớn, chất lượng chè không cao, chè
được bán dưới dạng nguyên liệu là chính với giá thấp. Tuy Việt Nam là một trong
những quốc gia sản xuất chè lớn trên thế giới từ mấy thập niên qua, nhưng thời
gian gần đây mới được các nhà nhập, xuất khẩu biết đến qua biểu tượng chè ba lá,
tên giao dịch là VINATEA.
Sản phẩm chè Việt Nam hiện đã có mặt ở 92 thị trường trên thế giới. Các
thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Pakistan, Đài Loan, Nga, Trung
Quốc, Afghan, Indonesia, Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ, nước tiêu thụ chè lớn thứ 8 thế giới với cơ cấu 84% là chè đen,
còn lại là chè xanh và các loại chè khác. Năm 2012, thị trường này nhập 1.300 tấn
chè của Việt Nam và trong 9 tháng đầu năm nhập khoảng 2.000 tấn. Lợi thế hiện
nay của Việt Nam là giá chè xanh xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn nhiều so với
giá của các nước xuất khẩu khác. Song, chè lại thuộc nhóm mặt hàng khó nhập
khẩu vào nước này và phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Cơ quan Quản lý Thực
phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ.
Biểu đồ 1.1. Top 10 thị trường xuất khẩu của Việt Nam 2012



×