Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Quản lý nhà nước về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế thành phố thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 93 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Luật thuế Giá trị Gia tăng (GTGT) được thông qua ngày 10/5/1997 tại
kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999.
Qua 14 năm thực hiện, Luật Thuế GTGT đã góp phần tích cực vào việc thúc
đẩy sản xuất trong nước; khuyến khích đầu tư, xuất khẩu; hỗ trợ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo đảm nguồn thu
cho ngân sách nhà nước và cơ bản đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong quá
trình phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ, hội nhập
ngày càng sâu hơn, rộng hơn, với vai trò là một sắc thuế có ảnh hưởng đến
nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề hoàn thiện thuế GTGT, trong
đó có vấn đề hoàn thiện dưới góc độ pháp lý luôn là một nhiệm vụ cần phải
thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường trong thời
kỳ hội nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng
lành mạnh, bền vững. Đồng thời, việc nghiên cứu quá trình triển khai áp dụng
Luật thuế GTGT trong hoạt động quản lý nhà nước và đời sống xã hội là thực
tiễn sinh động để làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về lĩnh
vực này.
Những năm qua Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên đã thực hiện
hoạt động quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với các doanh nghiệp, trong
đó có các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với số thu về thuế GTGT của năm
sau cao hơn năm trước, góp phần hoàn thành nhiệm vụ thu NSNN của thành
phố Thái Nguyên nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung. Tuy nhiên quá
trình triển khai thực hiện công tác quản lý Nhà nước về thuế nói chung và
quản lý Nhà nước về thuế GTGT trong thực tế còn có những khó khăn, vướng
mắc cũng như những tồn tại, hạn chế nhất định như: Công tác kê khai, khấu


2


trừ thuế GTGT, công tác kiểm tra, công tác cưỡng chế nợ thuế GTGT... vẫn
còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ thực tế đó tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về thuế
GTGT đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh tại Chi cục Thuế thành phố
Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu luận văn góp phần thiết thực triển khai
thực hiện cải cách chính sách thuế, đặc biệt là thuế GTGT trong lộ trình thực
hiện Chiến lược cải cách hệ thống Thuế giai đoạn 2011 - 2020 mà Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích thực trạng quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tăng cường
quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại
Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về thuế, quản
lý Nhà nước về thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối
với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về
thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành
phố Thái Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý Nhà nước về
thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành
phố Thái Nguyên.


3

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2010 - 2012.
- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng quản lý Nhà nước về thuế
GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành phố
Thái Nguyên.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn thiết thực; là tài liệu để nghiên cứu, tham khảo đối với hoạt động
quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại
Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên cũng như Chi cục Thuế các Huyện, Thị
trong tỉnh.
- Luận văn nghiên cứu khá toàn diện và có hệ thống các giải pháp tăng
cường quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tại Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên. Các giải pháp này có ý nghĩa
thiết thực giúp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về thuế GTGT nói riêng,
quản lý Nhà nước về Thuế nói chung tại Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm bốn chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước về thuế
GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên
Chương 4: Giải pháp tăng cường công tác quản lý thuế GTGT đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành phố Thái Nguyên.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Cơ sở lý luận về Thuế giá trị gia tăng
1.1.1. Những vấn đề chung về thuế
1.1.1.1. Khái niệm về thuế
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển tổn tại
của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ để
phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Lịch sử
càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình thức thuế khoá và pháp luật
thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, các khoản đóng góp của người dân cho Nhà nước được xác định
và quy định công khai bằng pháp luật của Nhà nước. Các khoản thuế đóng
góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Cùng với sự hoàn thiện chức
năng của Nhà nước, phạm vi sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở
rộng. Nó không chỉ đảm bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà
nước, mà còn để chi tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung và kinh tế.
Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng phi hình
sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập từ lao động, từ
của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ tài sản của các thể
nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà nước để trang trải các khoản
chi phí cho bộ máy nhà nước và các nhu cầu chung của xã hội. Các khoản
thu qua thuế được thể chế bằng luật. (Phan Thị Cúc - Trần Phước - Nguyễn
Thị Mỹ Linh, 2007).


5
1.1.1.2. Vai trò của thuế trong quản lý kinh tế xã hội
Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước sử dụng nhiều công

cụ như: Kế hoạch hoá, pháp luật, các chính sách tài chính tiền tệ ...Trong các
công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng vai trò quan trọng nhất và
thuế là một công cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ, thuế được
nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội. Vai trò
của thuế trong quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước được thể hiện theo một
số nội dung cơ bản sau:
a. Thuế là công cụ chủ yếu của nhà nước nhằm huy động tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách nhà nước, thuế là nguồn
thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu
từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều
được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí các hình thức thu khác như: vay
mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác ... Song thực tế
các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều
điều kiện. Do đó thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này
mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này
càng tăng.
b. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và
đời sống xã hội
Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần
cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng
việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản
xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát
triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt
mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.


6
Ngày nay, hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là
nhiệm vụ trọng tâm của chính phủ. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại,

người ta thường xác định các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản mà Chính phủ
phải theo đuổi đó là:
Một là, thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm
Để thực hiện mục tiêu này, một trong những công vụ quan trọng mà nhà
nước sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồm hai mặt:
Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt
trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung - cầu nhằm điều
chỉnh chu kỳ kinh doanh một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu
dùng đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích
tiêu dùng. Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào
đầu tư, có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập
về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào đầu tư, sản xuất
kinh doanh.
Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế
“nóng” phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng
thuế để giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng của xã hội. Song
việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo
vừa tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế,
Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định
hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các
ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ


7
kinh doanh đó là chu kỳ dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ
lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm,

lạm phát ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
Hai là, thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp
phần đảm bảo công bằng xã hội
Kinh tế thị trường làm tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này
có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế xã hội. Do vậy, cần
phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân
hoá này, làm lành mạnh xã hội.
Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và
người nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cụ. Thông
qua thuế Thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh
vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công
bằng xã hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu
nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng như: Thuế GTGT, thuế Tiêu thụ
đặc biệt.
Với những hàng hoá dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho
người nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại
những mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một
bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên khi sử dụng công cụ
thuế để điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng
điều tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm
khả năng tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Ba là, thuế là công cụ kiềm chế lạm phát
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá
tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm
phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế


8
để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu
nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn.

Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát
triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng Thuế hạn chế tăng chi phí
bằng cách giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
Bốn là, thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hòa
nhập nền kinh tế thế giới
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh từ bên
ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện
rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát
triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp
hoặc không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá
đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu
thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và
đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản
xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong
khu vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc
tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa một số
quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế. (Phan Thị Cúc - Trần Phước Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2007).
1.1.2. Lý luận cơ bản về Thuế giá trị gia tăng
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT là một sắc thuế trong hệ thống thuế Việt Nam nhằm góp
phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá và dịch vụ, khuyến khích
phát triển nền kinh tế quốc dân động viên một phần thu nhập của người tiêu
dùng vào ngân sách Nhà nước.


9
Thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với
mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung ứng dịch
vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.

Sau 14 năm thực hiện, Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, phát huy
tác dụng tích cực trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, như: khuyến
khích phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu và đầu tư; thúc
đẩy hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp; tạo nguồn thu lớn và ổn định
cho ngân sách Nhà nước; tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia hội nhập quốc
tế; góp phần tăng cường quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung và quản lý thuế nói riêng.
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm cuả hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.(Quốc
hội, 2008 a).
Thuế GTGT có những đặc điểm sau đây:
+ Ðây là một loại thuế tính vào mỗi giai đoạn sản xuất, lưu thông sản
phẩm hàng hoá, từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến sản phẩm hoàn
thành, và cuối cùng là giai đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà chúng ta còn gọi
là thuế doanh thu có khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước. Thuế gía trị
gia tăng được cộng vào giá bán hàng hoá, dịch vụ, và do người tiêu dùng chịu
khi mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ.
+ Thuế GTGT là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá dịch vụ
nhằm động viên người tiêu dùng.
+ Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh nhưng
chỉ trên phần tăng thêm của hàng hoá dịch vụ ở mỗi giai đoạn luân chuyển.
Theo như cách đánh thuế này thì tổng số thuế thu được ở tất cả các giai đoạn
đúng bằng số thuế tính theo giá bán hàng hoá dịch vụ cho người tiêu dùng
cuối cùng.


10
+ Thuế GTGT có tính trung lập cao. Thuế GTGT không chịu ảnh
hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố của
chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản được cộng thêm vào giá bán của người

cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi quá trình
phân đoạn sản xuất. Nghĩa là mỗi loại sản phẩm hàng hoá dù qua nhiều hay ít
khâu sản xuất kinh doanh đều phải nộp thuế như nhau. Do vậy sẽ khuyến
khích chuyên môn hoá trong sản xuất lưu thông.
+ Thuế GTGT có tính lãnh thổ rõ rệt. Đối tượng chịu thuế GTGT chỉ
giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia.
+ Thuế GTGT có khả năng đem lại số thu ổn định cho Ngân sách Nhà
Nước. Thuế GTGT phụ thuộc vào mức tiêu dùng xã hội và xu thế xã hội càng
phát triển thì nguồn thu từ thuế GTGT ngày càng cao hơn.
1.1.2.2.Vai trò của Thuế giá trị gia tăng
Luật Thuế GTGT được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999, thay thế Luật Thuế doanh thu. Đây
chính là một bước đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế
bước 2 của Việt Nam. Đến nay Luật Thuế GTGT đã đi vào cuộc sống được
14 năm và phát huy được tác dụng đối với nền kinh tế nói chung và các cơ sở
kinh doanh nói riêng. Đồng thời thuế GTGT có tác dụng rất lớn trong công
cuộc phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Thuế GTGT không thu trùng lặp cho nên góp phần khuyến khích
chuyên môn hoá để nâng cao năng suất, chất lượng.
- Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng
rãi, có phạm vi đối tượng thu rất rộng (thu vào mọi tổ chức, cá nhân có tiêu
dùng hàng hoá, dịch vụ) nên có thể tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
ngày càng tăng. Ngoài ra, nó còn là loại thuế do người tiêu dùng chịu, không
gây ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.


11
- Thuế GTGT góp phần khuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng hoá
xuất khẩu, do hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% và được hoàn

trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở khâu trước. Đồng thời nó còn kết hợp
với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn của hàng hoá nhập khẩu với mục đích
bảo vệ sản xuất kinh doanh nội địa.
- Thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt việc hạch toán và thực hiện
mua bán hàng hoá dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, nâng cao tính tự giác của đối
tượng kinh doanh.
- Thuế GTGT tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ nên việc tổ
chức quản lý thu dễ dàng hơn các loại thuế trực thu.
- Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế GTGT mà còn
được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào nên có tác dụng
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho
hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao.
Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã
thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng
với hoạt động mua bán; khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người
mua và người bán để trốn lậu thuế. Trong hoạt động bán lẻ người tiêu dùng
với vai trò là đối tượng tiêu dùng cuối cùng, họ không cần hoá đơn vì không
được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, điều này dẫn đến việc không xuất hóa đơn
của người bán để trốn thuế. Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng
thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều.
- Thuế GTGT thường có 03 mức thuế suất là 0%, 5% và 10% do đó bảo
đảm tính đơn giản, rõ ràng. Với ít thuế suất, loại thuế này mang tính trung lập,
vì về cơ bản không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khính hay hạn chế sản
xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng, theo ngành nghề cụ thể; không gây phức


12
tạp trong việc xem xét từng mặt hàng, ngành nghề có thuế suất chênh lệch
nhau nhiều.

- Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
người nộp thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan
thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp
thuế. Từ đó, tạo tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải
hiệp thương, thoả thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc
kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán
phải nộp và lưu giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát
với hoạt động kinh doanh từ đó tập trung được nguồn thu thuế GTGT vào
ngân sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm
tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán
hàng hoá có hoá đơn chứng từ; việc tính thuế đầu ra được khấu trừ số thuế
đầu vào là biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán
cùng thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ.
- Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích
hiện đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang
thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm.
- Thuế GTGT được ban hành gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung một số
loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...góp phần làm
cho hệ thống chính sách thuế cuả Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp
với sự vận động và phát triển cuả nền kinh tế thị trường, tương đồng với hệ
thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh việc mở rộng
hợp tác kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Nhìn chung trong các loại thuế gián thu, thuế GTGT được coi là
phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các


13
mục tiêu lớn của chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách
Nhà nước, đơn giản, trung lập...Tuy nhiên, trong thời gian đầu áp dụng thuế

GTGT đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc và Nhà nước ta đã từng
bước tháo gỡ những khó khăn đó trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT.
- Thuế GTGT góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta
phù hợp với thông lệ quốc tế, thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu
vực và trên thế giới.(Phan Thị Cúc - Trần Phước - Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2007).
1.2. Những vấn đề chung về doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện hoạt động kinh doanh.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm Công ty TNHH, Công ty
cổ phần, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân và Hợp tác xã. Trong nền
kinh tế thị trường các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế
không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, đóng góp xứng đáng vào
sự tồn tại, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Để phát
huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đòi
hỏi Nhà nước phải có các chính sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát
huy được vai trò của mình trong nền kinh tế hiện nay. (Quốc hội, (2005),
Luật Doanh nghiệp)
1.2.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân,
toàn bộ vốn, tài sản … đều thuộc sở hữu tư nhân.
- Nhiều loại hình doanh nghiệp, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh đa dạng.
- Đối tượng lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trình độ
chưa cao, trình độ quản lý, trình độ công nghệ còn hạn chế.


14
- Mô hình của các các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là nhỏ
và vừa, vốn điều lệ thấp.

1.2.3. Vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có những vai trò sau:
Một là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển góp phần làm
tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nước ta là nước có nền kinh tế đang phát triển, cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước, rút ngắn khoảng cách về thu nhập
giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to
lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường ... mà vẫn chưa
được khai thác một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt,
nhanh nhạy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có khả
năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của
thị trường. Vậy khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là khu vực có vai trò
hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ
tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra.
Hai là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần giải quyết việc
làm cho người lao động
Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động
là rất lớn, vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khu vực
kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi
lao động phải có văn hoá, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc
trong khu vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao động
không thể làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so
với hai khu vực trên thì khu vực kinh tế doanh nghiệp ngoài quốc doanh có


15
vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình độ cao
đến những lao động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp

đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định ... Do đó khu vực
này góp phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền
kinh tế.
Ba là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển tạo nguồn thu
ngân sách ổn định và ngày càng tăng
Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực doanh
nghiệp ngoài quốc doanh mới đúng là bản chất là “thuế”. Vì khác với doanh
nghiệp Nhà nước, Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà
nước thu thuế từ khu vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực
này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày càng tăng và được dùng chủ yếu
để đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các
ngành kinh tế yếu kém ... đồng thời khu vực này còn tham gia đóng góp tài
chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện hưởng
ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng bào bị
lũ lụt, thương binh, gia đình liệt sỹ, xây dựng trường học, đường xá đóng góp
vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa ... Vậy khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách nhà nước
rất lớn.
Bốn là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển góp phần tăng
vốn đầu tư cho xã hội.
Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều
tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh
tế, nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đã hình thành và huy động một lượng vốn đầu tư
lớn cho xã hội. Đây là một nguồn vốn quan trọng, song khai thác chưa hiệu


16
quả. Bên cạnh đó khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng phát triển thì
nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân

hàng, đóng góp vào sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy
động vốn.
Năm là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển còn có
tác dụng trên nhiều mặt
Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển thoả mãn một phần
nhu cầu tiêu dùng xã hội, giúp cho Nhà nước trong điều kiện vốn còn hạn
hẹp, có thể tập trung đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng đến
toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội, tránh đầu tư phân tán, dàn trải ... Thực
tiễn cho thấy có khu vực này nhiều ngành nghề, mặt hàng và lĩnh vực kinh
doanh Nhà nước không cần phải đầu tư hoặc chỉ đầu tư có hạn chế còn về cơ
bản khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đảm đương các chức năng bán lẻ
các mặt hàng tiêu dùng và tổ chức các dịch vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc biệt ở
địa bàn nông thôn và miền núi.
Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển góp phần
thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh
sống động trên thị trường, thúc đẩy kinh tế Nhà nước tăng cường hạch toán
kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm. Trước đây trong điều kiện chỉ có kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác,
sản phẩm hàng hoá dù sản xuất ra với bất kỳ chất lượng nào, giá cả ra sao đều
được tiêu thụ. Nhưng từ khi có khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh với
đặc điểm tư hữu cao, khu vực này rất linh hoạt năng động với tinh thần trách
nhiệm cao trong sản xuất, tìm kiếm thị trường đồng thời luôn tập trung cao độ
làm việc với tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình.
Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh hình thành và phát triển còn
tác động cả vào cơ chế quản lý làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất


17
kinh doanh, thay đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức nhà
nước, của người lao động.

Trước hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nước
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp
không còn thích hợp nữa vì Nhà nước không thể ra lệnh cho các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh phải sản xuất ra cái gì, bán theo giá quy định, mà do quy
luật giá trị, do thị trường, do nhu cầu xã hội quyết định. Với khu vực doanh
nghiệp ngoài quốc doanh các cơ quan quản lý, công chức Nhà nước không
thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Đây chính là những
tiền đề đặt ra cần phải đổi mới cơ chế quản lý và phải luôn hoàn thiện cơ chế
quản lý của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Phát triển khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có tác động
và làm thay đổi ý thức, tác phong làm việc của công chức các cơ quan Nhà
nước. Vì khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh toàn bộ vốn và tài sản
thuộc sở hữu của tư nhân, họ có quyền quyết định phương án sản xuất kinh
doanh và chỉ chịu sử quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Cán bộ công
chức Nhà nước không có quyền can thiệp vào công việc kinh doanh của họ.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và công chức chỉ là quan
hệ bình đẳng trước pháp luật.
Đối với người lao động và những người quản lý sản xuất kinh doanh,
câu hỏi đặt ra là làm sao thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến
sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá
chất lượng cao, giá thành hạ. (Trịnh Văn Tuyến (2008), Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội, Hà nội)
1.3. Quản lý Nhà nước về Thuế giá trị gia tăng
1.3.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về Thuế giá trị gia tăng
Một cách chung nhất "quản lý Nhà nước" là sự tác động, điều chỉnh có
tổ chức và bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội, các hành vi


18
hoạt động của công dân và mọi tổ chức trong xã hội nhằm duy trì và phát

triển trật tự xã hội, bảo toàn, củng cố và phát triển quyền lực Nhà nước. Quản
lý Nhà nước theo nghĩa hẹp là hoạt động quản lý hành chính do Chính phủ đại
diện Nhà nước thực thi và đảm bảo bằng quyền lực của Nhà nước.
"Quản lý Nhà nước về thuế" là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu
lập pháp, hành pháp và tư pháp về thuế. Khi xem xét lĩnh vực thuế dưới góc
độ quản lý Nhà nước là xem xét ở tầm vĩ mô. Quản lý Nhà nước về thuế là
quản lý nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Chủ thể quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế là các cơ quan nhà nước có chức năng lập pháp, hành
pháp và tư pháp về thuế. Đối tượng của quản lý nhà nước về thuế là "các quá
trình xã hội, hành vi của cá nhân và tổ chức xã hội" trong lĩnh vực thuế. Tuy
nhiên, luận văn này chỉ xét đến lĩnh vực quản lý Nhà nước về Thuế GTGT.
Quản lý Nhà nước về Thuế GTGT là hoạt động của Nhà nước mà cơ
quan thuế là đại diện để nhằm huy động tiền thuế vào ngân sách nhà nước
theo những quy định của pháp luật về Thuế GTGT.
Quản lý Nhà nước về Thuế GTGT là hoạt động quản lý gắn liền với cơ
quan thuế - một tổ chức nhà nước có tư cách pháp nhân công quyền. Do đó,
quản lý Nhà nước về thuế GTGT là một hình thức quản lý công. Quản lý Nhà
nước về thuế GTGTchỉ gồm khâu hành pháp và tư pháp về thuế.
Quản lý Nhà nước về thuế GTGT bao gồm những hoạt động có tổ chức
trong bộ máy nhà nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế GTGT
của cơ quan thuế các cấp, với các chức năng nhiệm vụ quyền hạn do luật
định, nhằm thực hiện chính sách thuế GTGT đã được cơ quan có thẩm quyền
thông qua. Nói cách khác, quản lý Nhà nước về thuế GTGT là khâu tổ chức
thực hiện chính sách thuế của cơ quan thuế các cấp, là việc định ra một hệ
thống các tổ chức, phân công trách nhiệm cho các tổ chức này, xác lập mối
quan hệ phối hợp giữa các bộ phận một cách hữu hiệu trong việc thực thi


19
chính sách thuế GTGT nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra, trong điều kiện môi

trường quản lý luôn biến động.
1.3.2. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý Nhà nước về Thuế GTGT
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế của nước ta.
Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu sẽ đảm bảo tập trung một số
thu lớn cho NSNN. Với đường lối đổi mới kinh tế tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế cùng phát triển, cùng bình đẳng trước pháp luật thì việc quản lý
khu vực kinh tế nào cũng quan trọng. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
đang phát triển cả về qui mô và số lượng, khả năng thu nhập tăng nhanh thì
việc tăng cường quản lý thu thuế khu vực kinh tế này là rất cần thiết.
Mặt khác, đảm bảo sự công bằng xã hội là một yêu cầu đặt ra với chính
sách thuế và bản thân với chính sách thuế cũng phải đảm bảo sự công bằng xã
hội, vì có công bằng xã hội thì mới có thể động viên số thu lớn nhất trong thời
gian ngắn nhất.Tăng cường quản lý thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh một cách chặt chẽ chính là biện pháp để đảm bảo tính công bằng
xã hội, từ đó sẽ giảm tối đa hiện tượng trốn lậu thuế, tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, thông qua quản lý Nhà nước về thuế GTGT đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý vĩ mô nền
kinh tế thông qua việc kiểm tra, kiểm soát các ngành nghề, mặt hàng kinh
doanh, từ đó giúp cho các cơ quan quản lý kinh tế có định hướng phát triển
ngành nghề phù hợp.
1.3.3. Nội dung của quản lý Nhà nước về Thuế GTGT đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh
Theo quan điểm về quản lý Nhà nước về thuế GTGT: Quản lý Nhà
nước về thuế GTGT bao gồm những hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà
nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế GTGT của cơ quan thuế


20
các cấp, với các chức năng nhiệm vụ quyền hạn do luật định, nhằm thực hiện

chính sách thuế GTGT đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Nói cách
khác, quản lý Nhà nước về thuế GTGT là khâu tổ chức thực hiện chính sách
thuế của cơ quan thuế các cấp, là việc định ra một hệ thống các tổ chức, phân
công trách nhiệm cho các tổ chức này, xác lập mối quan hệ phối hợp giữa các
bộ phận một cách hữu hiệu trong việc thực thi chính sách thuế GTGT nhằm
đạt các mục tiêu đã đề ra, trong điều kiện môi trường quản lý luôn biến động.
Căn cứ vào quan điểm này, quản lý Nhà nước về thuế GTGT bao gồm
các nội dung chủ yếu sau đây. (Quốc hội, (2006) Luật quản lý thuế).
1.3.3.1. Quản lý công tác đăng ký, kê khai, nộp thuế, ấn định thuế
- Đối tượng đăng ký thuế: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh,
Tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật về thuế.
- Thời hạn đăng ký thuế: Đối tượng đăng ký thuế phải đăng ký thuế
trong thời hạn mười ngày làm việc.
- Hồ sơ đăng ký thuế gồm: Tờ khai đăng ký thuế, Bản sao giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy
chứng nhận đầu tư.
- Địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế: cơ quan thuế nơi tổ chức, cá nhân
đó có trụ sở chính.
- Trách nhiệm của cơ quan thuế, công chức thuế trong việc tiếp nhận hồ
sơ đăng ký thuế: sau khi nhận được hồ sơ khai thuế, công chức thuế tiếp nhận
và đóng dấu tiếp nhận hồ sơ, ghi thời gian nhận hồ sơ, ghi nhận số lượng tài
liệu trong hồ sơ.
- Cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế: Cơ quan thuế cấp giấy chứng
nhận đăng ký thuế cho người nộp thuế trong thời hạn mười ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký thuế hợp lệ.
- Nguyên tắc khai thuế và tính thuế.


21
+ Người nộp thuế phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung

trong tờ khai thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các loại
chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan quản lý thuế.
+ Người nộp thuế tự tính số thuế phải nộp, trừ trường hợp việc tính
thuế do cơ quan quản lý thuế thực hiện theo quy định của Chính phủ.
- Hồ sơ khai thuế.
- Thời hạn, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế: Chậm nhất là ngày thứ hai
mươi của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế đối với loại thuế khai
và nộp theo tháng.
- Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế trong
việc tiếp nhận hồ sơ khai thuế.
- Ấn định thuế đối với người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê
khai trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế.
- Thời hạn nộp thuế.
+ Trường hợp người nộp thuế tính thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất
là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế.
+ Trường hợp cơ quan quản lý thuế tính thuế hoặc ấn định thuế, thời
hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan quản lý thuế.
- Đồng tiền nộp thuế: Đồng tiền nộp thuế là Đồng Việt Nam, trừ trường
hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ.
- Thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt.
+ Tiền thuế nợ;
+ Tiền thuế truy thu;
+ Tiền thuế phát sinh;
+ Tiền phạt.
1.3.3.2. Quản lý thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế
- Hồ sơ hoàn thuế GTGT đối với trường hợp trong ba tháng liên tục có
số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết, hoặc đối với trường hợp đang trong


22

giai đoạn đầu tư chưa có thuế GTGT đầu ra, hoặc bù trừ số thuế GTGT của
hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án đầu tư cùng với việc kê khai
thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh là: Giấy đề nghị hoàn trả
khoản thu NSNN theo mẫu quy định.
- Trường hợp người nộp thuế tự xác định số tiền thuế được miễn thuế,
giảm thuế.
- Trường hợp cơ quan thuế quyết định miễn thuế, giảm thuế.
- Thời hạn giải quyết hồ sơ miễn thuế, giảm thuế:
+ Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan thuế
ra quyết định miễn thuế, giảm thuế theo mẫu hoặc thông báo cho người nộp
thuế lý do không thuộc diện được miễn thuế, giảm thuế theo mẫu quy định.
+ Trường hợp cần kiểm tra thực tế để có đủ căn cứ giải quyết hồ sơ thì
thời hạn ra quyết định miễn thuế, giảm thuế là sáu mươi ngày, kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ.
- Thẩm quyền giải quyết việc miễn thuế, giảm thuế.
1.3.3.3. Quản lý xoá nợ tiền thuế, tiền phạt
- Trường hợp được xoá nợ tiền thuế, tiền phạt bao gồm:
+ Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (không bao gồm doanh nghiệp tư
nhân, công ty hợp danh bị tuyên bố phá sản) đã thực hiện các khoản thanh
toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền
thuế, tiền phạt.
+ Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi
dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ.
- Hồ sơ xóa nợ tiền thuế, tiền phạt
- Trình tự giải quyết hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
1.3.3.4.Quản lý thông tin về người nộp thuế
- Hệ thống thông tin về người nộp thuế


23

+ Hệ thống thông tin về người nộp thuế bao gồm những thông tin, tài
liệu liên quan đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
+ Thông tin về người nộp thuế là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh
giá mức độ chấp hành pháp luật của người nộp thuế, ngăn ngừa, phát hiện vi
phạm pháp luật về thuế.
+ Nghiêm cấm hành vi làm sai lệch, sử dụng sai mục đích, truy cập trái
phép, phá huỷ hệ thống thông tin về người nộp thuế.
- Xây dựng, thu thập, xử lý và quản lý hệ thống thông tin về người
nộp thuế.
- Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc cung cấp thông tin
- Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp
thông tin về người nộp thuế.
- Bảo mật thông tin của người nộp thuế.
- Công khai thông tin vi phạm pháp luật về thuế.
1.3.3.5. Quản lý công tác kiểm tra thuế.
- Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế: Kiểm tra thuế tại trụ sở
cơ quan quản lý thuế được thực hiện thường xuyên đối với các hồ sơ thuế
nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong hồ sơ
thuế, sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
- Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế: Trường hợp hết thời hạn
theo thông báo của cơ quan quản lý thuế mà người nộp thuế không giải trình,
bổ sung thông tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế hoặc giải trình,
khai bổ sung hồ sơ thuế không đúng thì thủ trưởng cơ quan quản lý thuế quản
lý trực tiếp ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ra quyết định kiểm tra thuế tại
trụ sở của người nộp thuế.
- Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong kiểm tra thuế tại trụ sở
của người nộp thuế


24

- Nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế ra quyết
định kiểm tra thuế và công chức quản lý thuế trong việc kiểm tra thuế
- Các trường hợp thanh tra thuế
+ Đối với doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi
kinh doanh rộng thì thanh tra định kỳ một năm không quá một lần.
+ Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế.
+ Để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ
quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Quyết định thanh tra thuế
- Thời hạn thanh tra thuế: Thời hạn một lần thanh tra thuế không quá ba
mươi ngày, kể từ ngày công bố quyết định thanh tra thuế.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra thuế
- Nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra thuế, thành viên đoàn
thanh tra thuế.
- Nghĩa vụ và quyền của đối tượng thanh tra thuế.
- Kết luận thanh tra thuế.
1.3.3.6. Quản lý công tác cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
- Trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
+ Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế đã
quá chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, nộp tiền phạt vi phạm
pháp luật về thuế theo quy định.
+ Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế khi
đã hết thời hạn gia hạn nộp tiền thuế.
+ Người nộp thuế còn nợ tiền thuế, tiền phạt có hành vi phát tán tài sản,
bỏ trốn.
- Biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
- Thẩm quyền quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.


25

- Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
- Trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính thuế.
1.3.3.7. Quản lý xử lý vi phạm pháp luật về thuế
- Hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế
+ Vi phạm các thủ tục thuế.
+ Chậm nộp tiền thuế.
+ Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế
được hoàn.
+ Trốn thuế, gian lận thuế.
- Nguyên tắc, thủ tục xử phạt vi phạm pháp luật về thuế
- Xử phạt đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế
- Xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế
- Xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp
hoặc tăng số tiền thuế được hoàn
- Xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế
- Thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế.
1.3. Kinh nghiệm về quản lý Nhà nước về Thuế giá trị gia tăng đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt nam
1.3.1. Kinh nghiệm về quản lý Nhà nước về Thuế giá trị gia tăng của một
số nước trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Philippines
Tại Khi Chính phủ mới ra đời (tháng 12 năm 1986) việc cải cách sửa
đổi hệ thống thuế là việc làm trước tiên của nước này. Chương trình thuế năm
1986 bao gồm 29 khâu cải cách phải tiến hành và đã được soạn thảo. Một
trong những cải cách về cơ cấu đưa ra trong chương trình là ban hành thuế



×