Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Luận văn tư tưởng hồ chí minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.18 KB, 45 trang )

1

MỤC LỤC

Lời mở đầu..................................................................................................... 3
SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU....................................................... 5
1......................................................................................................................

Tính

cấp

thiết

của

đề

tài

..............................................................................................................
5
2......................................................................................................................

Mục

tiêu,

quan

điểm



về

phòng

chống

tham

nhũng

..............................................................................................................
6
1.1. Mục tiêu......................................................................................... 6
1.2. Quan điểm..................................................................................... 6
3......................................................................................................................

Phạm

vi

nghiên

cứu

..............................................................................................................
6
3.1. Không

gian


nghiên

cứu

......................................................................................................
6
3.2. Thời

gian

nghiên

cứu

6
3.3. Lĩnh

vực

nghiên

cứu

6
Chương I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA
TRONG
THỜI
GIAN
QUA

........................................................................................................................
7


2
1. Thực

trạng

của

tham

nhũng



Việt

Nam

..............................................................................................................
7
2. Đặc

điểm

8
3. Nguyên


của

nhân

của

tham
tham

nhũng



nhũng



Việt

Nam

Việt

Nam

15
Chương II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM
NHŨNG VÀ VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG
THAM
NHŨNG


VIỆT
NAM
HIỆN
NAY
........................................................................................................................
18
1......................................................................................................................



tưởng

Hồ

Chí

Minh

về

chống

tham

nhũng

..............................................................................................................
18
1.1 Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế

quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần
chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng
18
1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới
20
2......................................................................................................................

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong
giai
đoạn
hiện
nay
..............................................................................................................
24

2.1. Xác định bản chất tham nhũng và chủ trương biện pháp phòng,
chống
tham
nhũng
24


3

2.2. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong những năm qua và
định
hướng
của
Đảng
ta

26
3......................................................................................................................

Các giải pháp phòng chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta
..............................................................................................................
31
3.1. Đối

với

các



quan

Đảng

......................................................................................................
32
3.2. Đối

với



quan

Nhà


nước

......................................................................................................
34
3.3. Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân
......................................................................................................
37
KẾT LUẬN....................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................41

----------------


4

LỜI MỞ ĐẦU
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành
để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc
lợi dụng các sơ hở của pháp luật nhằm kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã
hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/02/1998 cũng ghi rõ
trong điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái
pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá
nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng
là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên
quan đến sự sống còn của các Nhà nước”. Mặc dù được thể hiện theo những
cách khác nhau, song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá
pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực
hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân, hay nói một cách khác,

tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay
nguồn lực tập thể.
Tham nhũng là một mối đe dọa đối với sự phát triển, dân chủ và ổn
định. Tham nhũng gây nên cái nhìn sai lệch về thị trường, kìm hãm tăng
trưởng kinh tế và gây e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tham nhũng làm
giảm chất lượng các dịch vụ công và gây xói mòn niềm tin của người dân vào
các quan chức, cán bộ Nhà nước. Tham nhũng cũng góp phần gây nên các
thiệt hại về môi trường và đe dọa sức khỏe cộng đồng qua việc tạo điều kiện
cho các hành vi đổ trái phép vật liệu phế thải độc hại, sản xuất và phân phối
dược phẩm giả. Tác hại của tham nhũng đã không dừng lại ở phương diện
thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô-la của Nhà nước mà
còn là một nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế – chính trị, gây mất đoàn kết nội
bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân.
Ở nước ta, từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa là con đường
hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn bản pháp quy
vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu so với thực tiễn, tạo nhiều sơ hở, dễ bị lợi
dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm giàu có mặt tích


5

cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm
cho một số người bị tha hoá, đánh mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ,
hưởng lạc, trong khát vọng làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý.
Bộ máy Nhà nước của chúng ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ
thời gian và kinh nghiệm để cải cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng trên một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm.

Tình hình đó cùng với hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng
kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ
quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu quả
chưa cao.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế cùng quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
tham nhũng và chống tham nhũng đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã
hội. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), chỉ
số minh bạch của Chính phủ Việt Nam thấp và có chiều hướng đi xuống từ
2,8 (năm 1997) xuống còn 2,6 (năm 2005).
Đảng và Nhà nước ta xác định, tham nhũng là “quốc nạn”, là một trong
những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ và coi chống tham nhũng là
nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức Đảng và cả hệ thống chính trị, từ đó yêu
cầu chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đảng,
Nhà nước và Quốc hội đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc này (Chỉ thị 15
của Bộ Chính trị; Nghị quyết 114 TTg của TT Chính phủ; Kế hoạch 493/Nc
của Chính phủ;... ).
Như vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân đều đồng tình kiên quyết chống
tham nhũng, nhưng tệ tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi. Do vậy, việc phân
tích Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ
bản chất của hiện tượng phức tạp này, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp
phòng, chống tham nhũng có hiệu quả trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy
em đã chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận
dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”.


6

SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Bước vào thế kỷ thứ 21, tất cả thế giới đang vận hành theo xu hướng
mới: hoà bình, đối thoại, hội nhập và cùng phát triển. Các ranh giới ngăn cách
về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc đang dần được xoá bỏ.
Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một nước đang phát
triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập,
nhất là về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công nghệ. Bằng việc phát huy cao
độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ
nước ngoài, Việt Nam đang cố gắng tiến những bước lớn trên con đường phát
triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con đường ấy, đó là
tệ nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng về mức độ phổ biến, quy mô và
thủ đoạn.
Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp
hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách
nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như
xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế đang
chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức
nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài,
làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối
với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đi tài sản
của Chính phủ thông qua các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể.
Mặc dù tham nhũng là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu, nhưng việc
nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống tham nhũng luôn là một vấn
đề bức xúc đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung và đối với sự phát
triển của nước Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích cực và
chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang
đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình
sự nói riêng.
Trong chuyên đề nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào việc nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.



7

2. Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng
2.1. Mục tiêu:
Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển
biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội; củng cố
lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đào
tạo đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính.
2.2. Quan điểm:
- Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân;
thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh
tế, hình sự.
- Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát
triển kinh tế − xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng
cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh.
- Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng
lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết
kiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu.
- Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa
lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững
chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm.
- Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực
tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Không gian nghiên cứu: Việt Nam.

3.2. Thời gian nghiên cứu: Hiện nay.
3.3. Lĩnh vực nghiên cứu: Tham nhũng ở Việt Nam.


8

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA
1. Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn về mọi mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới
hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan
trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên,
cùng với những thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới đất nước đang phải
đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ tham nhũng.
Tham nhũng thực ra không phải chuyện mới lạ ở Việt Nam, trong thời
chiến chúng ta cũng đã từng có, từng xử nhiều vụ tham nhũng lớn. Tuy nhiên,
kể từ thời kỳ đổi mới, nền kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển
mạnh mẽ thì cũng đồng thời với một sự đánh đổi là tham nhũng xảy ra nhiều
hơn với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Tham nhũng có ở mọi nơi, mọi
lúc, nó len lõi đến mọi ngõ ngách, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giảm
uy tín của Đảng và Nhà nước, cản trở công cuộc phát triển đất nước của
chúng ta. Ở nhà thấy tham nhũng (tin tức trên báo chí, ti-vi), ra đường gặp
tham nhũng, vào bệnh viện, đến trường học, đến cơ quan công quyền... đâu
đâu cũng có thể chứng kiến tham nhũng. Đó là những vụ nhỏ lẻ, còn có
những vụ rút ruột công trình xây dựng (được cho là thất thoát trung bình từ 30
– 40%), mua sắm trang thiết bị, những vụ tham nhũng theo “mô hình tập

đoàn"… mà các vụ được phát hiện càng về sau cứ “lớn nhất từ trước đến
nay”. Tham nhũng xuất hiện trong mọi khâu, mọi lĩnh vực, ở mọi ngành, mọi
cấp. Từ các cơ quan quản lý, các đơn vị hành chính sự nghiệp tới các doanh
nghiệp nhà nước, hiệp hội, tổ chức... Tham nhũng không loại trừ các cơ quan
bảo vệ pháp luật (tòa án, viện kiểm sát, quân đội, cảnh sát...) và thậm chí ngay
cả ở cơ quan chống tham nhũng.
Đến nay chúng ta chưa có những nghiên cứu toàn diện và bài bản để
đánh giá, đo lường mức độ tham nhũng. Tuy nhiên, trên thế giới đã có một tổ
chức làm việc đó, đó là Transparency International (TI – Tổ chức Minh bạch


9

Quốc tế). Hàng năm, tổ chức này tiến hành các công trình khảo sát nghiên
cứu ở các quốc gia (do các viện nghiên cứu độc lập triển khai), tổng hợp kết
quả, tính toán chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) và đưa ra bảng xếp hạng
minh bạch các quốc gia. Mức độ tham nhũng càng cao nếu chỉ số CPI càng
thấp.
Năm 2008, tổ chức TI tiến hành khảo sát 180 quốc gia và vùng lãnh
thổ, kết quả xếp hạng: Việt Nam đứng thứ 121, cải thiện được hai bậc so với
năm 2007 với chỉ số CPI là 2,7 điểm. Xét trong khu vực Đông Á, Việt Nam
đứng thứ 9; còn Singapore với chỉ số CPI là 9,2 điểm, đứng đầu khu vực về
độ trong sạch (đứng thứ 4 trong số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ), theo sau là
Hồng Kông và Nhật. Đáng buồn là Việt Nam luôn đứng ở nhóm cuối trong
bảng xếp hạng này và không những thế còn có xu hướng “rớt hạng”.
Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách, pháp luật về vấn đề này, bên cạnh đó đã tham gia
tích cực các diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Sau khi Luật
phòng, chống tham nhũng có hiệu lực (01/06/2006) đã tác động đến nhận thức
và hành động của các cấp các ngành trong việc đấu tranh chống tham nhũng

và tạo ra bước chuyển biến khá tích cực. Tuy nhiên tình trạng tham nhũng vẫn
diễn biến khá phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất
đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng
vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn
các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu
nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi
mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
2. Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các
bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống… và đặc biệt là
bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của
tham nhũng.
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ
quyền hạn làm việc trong bộ máy Nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp từ Trung ương đến địa phương, cán bộ Đảng và các đoàn thể.


10

Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng
chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm
trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp
luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân.
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ
lợi cho bản thân, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Về bản chất, tham nhũng là một hiện tượng xã hội phản ánh các yếu tố
chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc
gia; tham nhũng bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội,
nhà nước và nhân dân. Hậu quả do tham nhũng gây ra cực kỳ lớn cho xã hội,

hậu quả này không chỉ phải là những thiệt hại về vật chất với nhiều tỷ đồng,
mà điều quan trọng hơn, nó làm tha hoá một bộ phận của cán bộ, công chức
của bộ máy Nhà nước, trong tổ chức Đảng và các đoàn thể xã hội, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước, gây nên sự bất bình, oán
thán trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội, làm giảm hiệu
lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của quốc gia dân tộc.
Tham nhũng là tệ nạn mang tính chất toàn cầu, tuy nhiên không phải ở
bất kỳ nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng
giống nhau mà ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau do đặc điểm về kinh tế,
chính trị, xã hội khác nhau. Qua nghiên cứu, có thể thấy được tham nhũng ở
Việt Nam có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến
tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội, người ta thường xác
định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật
chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai
bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham
nhũng ở một số nước trên thế giới bởi những lý do sau:
- Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh
chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn
rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm
thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại
do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt
khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những


11

năm qua có xu hướng giảm, chẳng hạn: Năm 1997 cơ quan điều tra các cấp đã
phát hiện, khởi tố 3856 vụ án kinh tế (tăng 5,6% so với năm 1996), trong đó

các tội về tham nhũng tăng đáng kể: tham ô 594 vụ (tăng 14%), lừa đảo chiếm
đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa (có liên quan đến cán bộ trong các cơ quan Nhà
nước) 273 vụ (tăng 37,1%); lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội
Chủ nghĩa 350 vụ (tăng 3,2%). Năm 1998, khởi tố 3546 vụ án kinh tế (giảm
8,1% so với năm 1997), trong đó tham ô 534 vụ, lừa đảo 217 vụ, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 284 vụ. Năm 1999, khởi tố 3016
vụ án kinh tế (giảm 15,% so với năm 1998), trong đó: tham ô 465 vụ; lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ Nghĩa 169 vụ...
- Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như
đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan Nhà nước... vì
thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ, đến nền độc lập và
chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có
nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội.
- Lâu nay ở Việt Nam, khi đánh giá tham nhũng thường theo quan
điểm của cơ quan điều tra, thường lấy số lượng các vụ án kinh tế để chứng
minh nạn tham nhũng. Do vậy, những con số về thiệt hại do tham nhũng của
các cơ quan có trách nhiệm chưa đúng với bản chất của tham nhũng nên cách
nhìn nhận và đánh giá đó chưa chuẩn xác vì: các bị can, bị cáo về kinh tế,
không phải tất cả họ đều bị xét xử về tội tham nhũng mà phần nhiều họ bị
chịu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm trái… tội phạm
không có động cơ vụ lợi hoặc không do lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi.
Các cán bộ bị kỷ luật hành chính liên quan đến các vụ án cũng là do phải chịu
trách nhiệm về hành vi quản lý (chủ quan, buông lỏng quản lý, năng lực quản
lý yếu kém mà thực chất là quan liêu) chứ không phải do hành vi tham nhũng.
Chẳng hạn: Những vụ án gần đây như Tân Trường Sanh, Minh Phụng –
EPCO… trừ một số cán bộ cấp phòng, sở, cục của hai ngành Hải quan và
Ngân hàng bị truy tố về các tội tham nhũng còn đa phần các cán bộ khác, kể
cả những cán bộ chủ chốt của hai ngành đó chỉ bị xử lý về trách nhiệm quản
lý, dễ dãi trong quan hệ, chứ không phải tham nhũng. Hoặc trong vụ án được
coi lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam được xét xử tại Thành phố Hồ

Chí Minh – Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn có liên quan đến rất nhiều
quan chức trong ngành tư pháp từ Trung ương đến địa phương, nhưng tài sản
có được do tham nhũng không nhiều (vài chục ngàn đô-la và những bữa tiệc


12

tại các nhà hàng sang trọng cho mỗi quan chức) và có nhiều quan chức chỉ bị
truy cứu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý mà không bị
truy cứu trách nhiệm về các hành vi tham nhũng mà điển hình là bị cáo Bùi
Quốc Huy, nguyên Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên thứ
trưởng Bộ Công an, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng...
Cũng cần phải nói thêm là, số tài sản bị thất thoát trong các vụ án kinh tế
không phải đều là tài sản bị tham nhũng mà phần nhiều là do làm ăn thua lỗ
hoặc là hậu quả của phương thức làm ăn sai lầm của các doanh nghiệp.
Từ sự phân tích trên có thể nhận định về tính chất tham nhũng ở Việt
Nam chưa đến mức trầm trọng như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ. Nhận thức
đúng thực trạng tham nhũng tránh được cho chúng ta hai khuynh hướng tiêu
cực: hoặc quá bi quan về nạn tham nhũng hoặc quá lạc quan về sự trong sạch
của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội. Vì vậy, vấn
đề nhận thức đúng bản chất của thực trạng tham nhũng có ý nghĩa hết sức to
lớn trong việc hoạch định các chính sách và biện pháp đấu tranh phòng ngừa
tham nhũng trong tình hình hiện nay, đặc biệt trong việc tuyên truyền đến
nhân dân về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Thứ hai, tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia
Theo cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu
tranh chống tội phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức
chặt chẽ, có sự phân công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc
thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp (Luật hình sự gọi với các

tên: Tổ chức phạm tội, tập đoàn phạm tội, băng nhóm phạm tội...) và có sự
tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ. Diễn giải theo công thức thì
Maphia = Tội phạm có tổ chức + Sự cấu kết của quan chức chính phủ. Ở
những nước khác, tham nhũng không còn chỉ là những hiện tượng đơn lẻ của
cá nhân các quan chức mà đã thành một đường dây với sự tham gia của hệ
thống quan chức các cấp, các ngành cùng với sự chỉ đạo, bày mưu, tính kế
của các quan chức cấp cao trong bộ máy Nhà nước, kể cả những người đứng
đầu chính phủ, đứng đầu Nhà nước. Vì thế, các hoạt động tội phạm được thực
hiện thống nhất, trắng trợn chiếm đoạt tài sản công, bòn rút tiền viện trợ, giao
cho con cháu, họ hàng thân thích quản lý những tập đoàn kinh tế lớn với các
ưu đãi đặc biệt trong hoạt động kinh tế. Điều tồi tệ hơn là những hành vi tham
nhũng đó của các quan chức được sự hỗ trợ của các băng nhóm xã hội đen để


13

gây áp lực với đối thủ, giết người để bịt đầu mối hoặc thực hiện những tội ác
man rợ khác... Chúng ta đã biết nhiều đến Maphia Italia với mẫu hình này và
hiện đang nổi lên Maphia của Nga trong thời Boris Ensin và hiện nay...
Trên cơ sở quan niệm này, đối chiếu với thực trạng của tình hình tham
nhũng ở Việt Nam thời gian qua thì ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu
Maphia vì: Những năm qua chúng ta chưa xử lý (hoặc chưa phát hiện được)
những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước về hành vi tham nhũng, nhất là
những cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính
phủ mà chúng ta mới chỉ phát hiện và xử lý một số cán bộ trong các ngành
Hải quan, Ngân hàng, Công an, Viện Kiểm sát... nhưng họ chỉ là những cán
bộ sơ, trung cấp. Chúng ta cũng kỷ luật vài Đảng viên và chính quyền một số
cán bộ cao cấp nhưng phần lớn những người đó không phải bị chịu trách
nhiệm về tham nhũng mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm về công tác quản lý mà
họ không hoàn thành hoặc chủ quan, lơi lỏng mất cảnh giác trong khi thực thi

nhiệm vụ. Điều quan trọng hơn để khẳng định ở nước ta chưa có tham nhũng
theo kiểu Maphia là những cán bộ bị xử lý về tham nhũng đều không phải là
những người chủ động, bày mưu tính kế, đều không phải là những người tổ
chức, chỉ huy, cầm đầu trong các vụ án mà chỉ là những kẻ tha hoá, biến chất,
đồng lõa, bị những kẻ phạm tội từng bước lôi kéo vào làm vai trò giúp sức
cho chúng. Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn mặc dù là vụ án lớn, có
nhiều quan chức tham gia nhưng tất cả họ đều chỉ là những người bị Trương
Văn Cam lôi kéo, lợi dụng, từ Dương Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Trung đến
Trần Mai Hạnh, Phạm Sỹ Chiến, Bùi Quốc Huy... không một ai trong số họ là
người chủ động tham gia băng nhóm tội phạm này.
Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan thì ngoài một số cán bộ sơ,
trung cấp, còn lại thì tuyệt đại bộ phận cán bộ và đặc biệt là cán bộ cao cấp
trong Bộ máy Đảng và Nhà nước ta là những người có đạo đức phẩm chất tốt,
nhiệt tình, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng, không cầm đầu hoặc tham gia
các đường dây tham nhũng, không chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, không
đồng lõa tiếp tay cho cho bọn tội phạm, không vòi vĩnh nhận hối lộ khi thi
hành công vụ. Ở những người này, họ luôn rèn luyện cho mình đạo đức cách
mạng, năng lực chuyên môn để phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng, họ tự biết có những thu nhập ngoài lương (nếu có) thì như thế nào cho
trong sạch, thanh thản, biết tự kiềm chế mình trước cám dỗ vật chất, tỉnh táo
và giữ được lương tâm của mình trước những diễn biến phức tạp của đời sống


14

kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể quá lạc quan mà mất
cảnh giác, lơ là việc chăm lo giáo dục phẩm chất và tư cách đạo đức của đội
ngũ cán bộ, công chức ở nước ta. Những phẩm chất tốt đẹp này là “tài sản”
quý giá của sự nghiệp cách mạng, của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa,

hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Vì vậy, chúng ta phải luôn có biện pháp thích hợp giáo dục bồi dưỡng
tư cách đạo đức, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, có những biện pháp quản
lý có hiệu quả không để cán bộ sa ngã, tham nhũng, đi theo tiếng gọi của
đồng tiền, đồng lõa với những kẻ phạm tội. Mặt khác, việc chưa phát hiện
được cán bộ câu kết, chủ động tham gia chỉ huy, điều hành các đường dây
phạm tội không đồng nghĩa với việc cán bộ không có những biểu hiện đó. Do
đặc điểm nhân thân của các hành vi tham nhũng nên việc phát hiện nó vô
cùng khó khăn. Việc đó càng khó khăn khi có các quan chức cấp cao tham gia
nên phần tội phạm ẩn của tham nhũng rất lớn. Trong khi đó cơ chế, tổ chức,
phương tiện, kinh nghiệm điều tra phát hiện loại tội phạm này còn nhiều hạn
chế, vì vậy chúng ta không nên quá lạc quan mà nên có thái độ khách quan
đón nhận sự việc một cách bình tĩnh.
Thứ ba, tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở
tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Do những
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức truyền thống mà nạn tham nhũng
ở nước ta trong thời kỳ hiện nay không to, không mang tính chất đặc biệt
nghiệm trọng như các quốc gia khác (như đã nói ở phần đặc điểm thứ nhất),
mà nhỏ nhặt (vụ lớn cũng chỉ vài trăm ngàn đôla), thậm chí nó còn nhỏ nhặt
tới mức tiền hoặc tài sản của đương sự hối lộ cho các quan chức chỉ trên mức
quà biếu thông thường một chút mà xã hội có thể chấp nhận được, nhưng nó
lại mang tính phổ biến. Và điều nguy hại nhất của tệ nạn tham nhũng ở nước
ta lại nằm ở chính đặc điểm này, nó cũng chính là nguyên nhân của việc đấu
tranh chống tham nhũng của các cơ quan chức năng kém hiệu quả, làm cho
thói quen nhận hối lộ của quan chức và việc đưa hối lộ của người dân khi có
việc trở thành bình thường trong đời sống hằng ngày, thậm chí còn coi là văn
hoá ứng xử khi đến làm việc tại cơ quan công quyền và chính việc nhận và
đưa hối lộ trở thành bình thường đã dẫn đến việc tham nhũng ở nước ta mang
tính phổ biến. Vì vậy, không có giải pháp tích cực nó sẽ phát triển trở thành
một qui luật trong hoạt động công quyền thì hậu quả sẽ khó lường cho sự phát



15

triển của đất nước, của dân tộc. Tính phổ biến của tham nhũng Việt Nam được
biểu hiện trên các mặt sau:
- Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở
mọi cấp mọi ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền
lót tay sẽ không giải quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều
kiện và thủ tục pháp luật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã
trở thành “tập quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện
tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến Ủy
ban Nhân dân xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ...
cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc
điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe
doạ sự tồn tại của Nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của
Đảng.
- Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra
nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều
tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã
làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ
lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Sau
khi có Nghị Quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong báo cáo của
ngành Toà án năm 2002 đã công khai những trường hợp làm oan người vô tội
(những người các cấp xét xử của toà án tuyên không phạm tội), tổng số 58
trong đó: Sơ thẩm cấp huyện 27 người; sơ thẩm cấp tỉnh 28 người; phúc thẩm
cấp tỉnh 4 người, phúc thẩm tối cao 12 người; giám đốc thẩm cấp tỉnh 3
người; giám đốc thẩm cấp tối cao 4 người. Đó là chưa kể các quyết định đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì lý do không có tội của cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát.

- Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số
làm kinh tế, phụ trách tài chính − hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết
bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên
trách kiểm tra, thanh tra của Nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật
quân sự.
- Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham
nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu
lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh


16

nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây mất
đoàn kết nội bộ cơ quan.
- Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập
viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư
lợi mà những người này dùng báo chí để dọa dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và
quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn
hại ai thì dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội.
- Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những
“quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của
Nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước.
3. Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân thuộc về khách
quan, có nguyên nhân chủ quan. Có thể khái quát bao gồm những nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ: Đây là nguyên
nhân đầu tiên, quan trọng, có tính quyết định. Sự nghiệp đổi mới mà trọng
tâm là đổi mới quản lý kinh tế với việc xác định phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là
phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách pháp luật đầy đủ và từng bước
hoàn thiện. Trong khi đó, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng nhưng việc xây
dựng thể chế pháp luật vẫn không theo kịp, mặt khác chưa phản ánh và điều
chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường có định hướng. Cơ chế chính sách pháp luật trong thời kỳ đổi mới
chưa được hoàn thiện, thiếu cụ thể, còn có sơ hở và thiếu nhất quán. Việc
phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, việc phân biệt giữa quản lý
Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh còn chưa được tách bạch, rõ ràng.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn diễn ra chậm và thiếu sự
kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong
doanh nghiệp Nhà nước chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng “vô chủ”, thiếu
trách nhiệm... Những nhược điểm đó làm nảy sinh tệ quan liêu, tham nhũng
và thiếu kỷ cương, tạo điều kiện cho tệ hối lộ, lạm dụng công quỹ, nhũng
nhiễu cấp dưới và nhân dân.


17

Thứ hai, việc kiện toàn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị
chưa theo kịp sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội: Đây là một nguyên
nhân rất quan trọng của những yếu kém và bất cập trong quá trình đổi mới đất
nước, trong đó có tệ nạn tham nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ
máy Nhà nước tốt. Ở nước ta, sự quản lý, lãnh đạo điều hành đất nước là sự
thống nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý
của Nhà nước và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn
thể quần chúng. Các yếu tố trong hệ thống chính trị phải thực hiện đúng vai
trò của mình thì mới phát huy được tác dụng. Hiện nay, sự lẫn lộn giữa các
yếu tố trong hệ thống chính trị vẫn chưa được khắc phục, làm giảm hiệu quả
lãnh đạo quản lý điều hành xã hội, gây ra nhiều tệ nạn trong đó có tham

nhũng.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, ý
thức tu dưỡng, rèn luyện kém về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống còn
thấp: Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, công
chức do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã chạy theo các lợi ích riêng
trước mắt dẫn đến vi phạm pháp luật, nảy sinh tham nhũng. Giá trị đạo đức
“cần, kiệm, liêm, chính” nhiều lúc bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át.
Công tác quản lý, giáo dục, kiểm tra cán bộ, công chức bị buông lỏng, yếu
kém, không theo kịp với tình hình. Việc sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ
chưa được thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, trau dồi phẩm chất chính trị. Nhiều tổ chức Đảng, thủ trưởng cơ quan
quản lý cán bộ, Đảng viên còn lỏng lẻo, chế độ sinh hoạt, kiểm điểm công tác
bị bỏ bê hoặc mang tính hình thức, sức chiến đấu của các chi bộ, Đảng bộ bị
hạn chế, công tác phê bình và tự phê bình kém. Một số cán bộ chủ chốt các
cấp chưa tự giác tự phê bình và phê bình, chưa làm gương cho cán bộ, Đảng
viên trong đấu tranh chống tham nhũng. Còn tình trạng e dè, nể nang hoặc vì
lợi ích cục bộ mà không dám đấu tranh với các vi phạm của cán bộ, Đảng
viên trong chi bộ, tổ chức của mình. Việc xử lý cán bộ vi phạm còn chậm trễ,
thiếu nghiêm khắc, nương nhẹ, thậm chí còn bao che lẫn nhau, vẫn còn có
những vụ việc có biểu hiện “trên nhẹ, dưới nặng”, không xử lý hoặc xử lý
không nghiêm về trách nhiệm đối với người đứng đầu nơi để xảy ra những vụ
tiêu cực, tham nhũng lớn.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá
X) nhận định “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ,


18

Đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
Đảng viên, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối

sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ
lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo
đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
thực hành tiết kiệm”.
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp về phòng,
chống tham nhũng được đề ra trong những năm qua chưa đáp ứng được nhu
cầu, hiệu quả chưa cao: Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng,
phổ biến. Đánh giá về hệ thống chính sách pháp luật về phòng, chống tham
nhũng của nước ta có thể nói đã khá tiến bộ (đánh giá của nhiều tổ chức quốc
tế), tuy nhiên, hiệu quả thực hiện chưa đáp ứng được mong muốn của các
tầng lớp nhân dân. Việc tổ chức thực hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc còn mang
tính phong trào, chưa tạo được ý thức tự giác, thường xuyên của các cơ quan,
tổ chức, đơn vị trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Qua
các cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng cho
thấy ngoài ý thức thực hiện của các cơ quan, đơn vị còn có những khó khăn
khác về điều kiện vật chất, con người trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận
thức về các quy định phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, nhằm
tạo tiền đề cho việc triển khai có hiệu quả trong thực tiễn.
Thứ năm, thiếu một chương trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng
tổng thể, dài hạn: Trước khi Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về
phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, chúng ta chưa xây dựng được một
chương trình, kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng thống nhất
đồng bộ, vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa có trọng tâm, trọng điểm trong
từng giai đoạn nhằm huy động và phối hợp sức mạnh của toàn thể bộ máy
trong phòng, chống tham nhũng.


19

CHƯƠNG II

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ
CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng là bộ phận hợp thành
quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc và nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng đã và đang được Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta vận dụng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong giai đoạn hiện nay.
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ, là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng
dân tộc ở thế kỷ 20, đồng thời cũng là lãnh tụ, là chiến sĩ tiên phong chống
tham nhũng – một vấn đề mang tính toàn cầu. Bởi vì hiếm có một lãnh tụ nào,
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình lại kiên trì, liên tục và
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng như Hồ Chí Minh. Người luôn lên án
nạn tham nhũng ở các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa, tay sai trước kia và
cả trong chế độ mới của chúng ta. Sự thống nhất tuyệt đối giữa nói và làm,
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và tự mình nêu tấm gương sáng nhất
về đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” đã làm nên nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong tư tưởng chống tham
nhũng nói riêng. Tư tưởng chống tham nhũng của Người thể hiện qua những
nội dung cơ bản sau:
1.1. Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân,
đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần chúng
nhân dân, tiến hành vận động cách mạng
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi còn đi tìm đường cứu
nước, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều bài báo, phóng sự tố cáo nạn tham
nhũng trong các loại quan chức chính quyền thực dân ở Đông Dương, coi
tham nhũng là hiện tượng bản chất của chế độ này, Người viết: “Trong cái xứ
này, do thiếu sót hay nói đúng hơn do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu từ
trên xuống dưới cũng đều có nạn tham nhũng mua quan bán tước” (1).

_______________________________
(1)

Báo L’ Populaire, ngày 04/09/1919; Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, tr.12 – 13.


20

Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản
tại Paris năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một chương để viết về nạn
tham nhũng trong bộ máy cai trị, của những kẻ tự xưng là “quan phụ mẫu” của
dân. Người vạch ra các thủ đoạn phung phí tiền của dân cho việc tham quan,
triển lãm, tiếp khách, giải trí, mua sắm biệt thự, xe cộ, các thủ đoạn rút tiền từ
việc nhận thầu các công trình xây dựng, làm đường, khai man để rút tiền công
quỹ, chi tiêu sử dụng cho riêng mình. Tệ tham ô cùng các thủ đoạn bóc lột làm
cho gánh nặng thuế khoá đè lên vai người dân thuộc địa. Trong bài báo “Văn
minh Pháp ở Đông Dương” viết bằng tiếng Đức, đăng trên tập san Inprekorr,
số 17 (1927), với bút danh A.P, Người đã tố cáo sự thối nát của thực dân Pháp
qua thú nhận của tờ L' Impartial của Pháp ở Đông Dương rằng viên thống đốc
Cônhắc đã phạm một loạt hành động tham nhũng. Cả người “Đảng viên xã
hội” Varen cũng tham gia hăng hái vào việc tham nhũng vì chỉ “vài tháng sau
khi tới Đông Dương, ông ta đã gửi về Pháp 74 hòm tặng phẩm có trọng lượng
4.810 kg và kích cỡ là 30 mét khối”. Trong bài báo “Phong trào nông dân tỉnh
Quảng Đông” viết bằng tiếng Anh ngày 16/10/1925, với bút danh Nilôpxki,
Người cũng tố cáo nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền cũ ở Trung
Quốc. Trong tập thơ “Nhật ký trong tù” viết bằng chữ Hán, Người tố cáo nạn
tham nhũng trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, qua bài Lai Tân:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc. Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn
quanh. Chong đèn, huyện trưởng làm công việc. Trời đất Lai Tân vẫn thái
bình” (2).

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong bài “Công lý của Mỹ” đăng
trên báo Cứu quốc, số 1877, ngày 06/08/1951, ký bút danh Đ.X. Người tố cáo
chế độ xã hội Mỹ nhân danh công lý, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng
“Quốc hội Mỹ đã thừa nhận những tổ chức chính trị, kinh tế, tài chính, pháp
luật, báo chí của Mỹ thông đồng với lũ trộm cướp để ăn hối lộ và để trị
những công nhân và công chức giác ngộ. Và vì vậy nên Mỹ không trị những
bọn trộm cướp đó” (3).
Trong bài “Tâm lý của binh sĩ Hoa Kỳ” đăng báo Nhân Dân, số 4384,
ngày 07/04/1966, với bút danh Chiến Sĩ, Người đã nêu bức thư của một binh
sĩ Mỹ ở Nam Việt Nam gửi bạn ở Hoa Kỳ biểu thị thái độ phản chiến vì phải
chiến đấu để bảo vệ chế độ tham nhũng làm tay sai Mỹ. Bức thư có đoạn:
_______________________________
(2)

Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb. Phổ thông, Hà Nội, 1960.


21
(3)

Báo Cứu quốc, số 1877, ngày 06/08/1951.


22

“Những người lãnh đạo cái Nhà nước Nam Việt Nam đều là bọn trộm cướp,
hủ bại, đê hèn, hồ đồ. Họ đều ghét cộng sản nhưng tên nào cũng có rất nhiều
tiền bạc gửi nhà băng nước ngoài. Số tiền đó nhiều gấp mấy lần số tiền lương
của họ. Nơi tôi làm cố vấn, Chính phủ Mỹ trả lương cho 338 nhân viên,
nhưng thực tế chỉ có 50, 60 người làm việc. Thế là mỗi tháng, bọn quan lại

Nam Việt Nam tham ô hơn 4.000 đô-la. Tôi đã báo cáo việc đó lên cấp trên.
Nhưng kết quả là tôi đã bị điều đến một đơn vị trực tiếp chiến đấu” (4).
Đó chỉ là những ví dụ điển hình cho thấy các chế độ thực dân, đế quốc,
thuộc địa, tay sai đều bị Hồ Chí Minh vạch trần bản chất tham nhũng, thối
nát, nhằm mục đích thức tỉnh quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh đánh
đổ những chế độ đó, xây dựng chế độ mới, tốt đẹp hơn.
1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới
Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tiếp đến kháng
chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội, Hồ Chí Minh không lúc nào lơi lỏng cuộc đấu tranh chống tệ tham
nhũng ngay trong lòng chế độ mới mà Người đã sáng lập nên. Có điều, mục
tiêu đấu tranh không phải là để xoá bỏ chế độ mới mà để xây dựng, củng cố,
hoàn thiện nó. Bởi vì tham nhũng, thối nát không phải là bản chất của chế độ
mới, nó chỉ là một tệ nạn nguy hiểm, một biểu hiện cao độ của sự thoái hoá,
biến chất trong một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước.
Chính quyền cách mạng non trẻ ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm
nhận ra căn bệnh hết sức nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ làm cho những người
có chức quyền dễ bị tha hoá biến chất, không còn là “đầy tớ của nhân dân”,
làm cho dân mất niềm tin và bất bình. Hơn một tháng sau ngày đọc Tuyên
ngôn độc lập, trong thư gửi cho ủy ban các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã
vạch ra và cảnh báo một số hành vi tham nhũng mà công chức Nhà nước dễ
mắc phải, đó là tham ô của công, đục khoét của dân, nhận hối lộ và mắc một
số sai phạm khác như: làm việc trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo, bè phái quan liêu, địa phương chủ nghĩa, hẹp hòi, quân phiệt, v.v....
Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu
nước cũng như trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đều không quên nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng.
Tổng hợp các bài báo, bài nói chuyện tại các hội nghị, hoặc thư gửi các đoàn



23

thể, địa phương, các ngành, giới, có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập
một cách khá cơ bản, toàn diện các vấn đề chống tham nhũng.
Về khái niệm và tính chất xấu xa, nguy hại của nạn tham nhũng:
Người thường dùng từ tham ô (hoặc nhũng lạm) và hay gắn với tệ quan
liêu, lãng phí. Theo Người, “Tham ô là lợi dụng quyền hành hoặc chức trách
(4)
đểBáo
ănNhân
cắp Dân,
của số
công;
phí là làm tốn kém hao tổn một cách vô ích. Tham ô
4384,lãng
ngày 7/4/1966.
là lấy của công làm của tư, là gian lận, tham lam, là không tôn trọng của
công, là không thương tiếc tiền gạo, mồ hôi nước mắt của đồng bào kiếm ra,
do xương máu của chiến sĩ làm ra. Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn
cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít
mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ làm quỹ riêng cho địa
phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô. Người còn cho rằng, tham ô còn
là “ăn cắp thì giờ của Chính phủ, của nhân dân, vì nhân dân đã trả lương
cho mình mà không làm việc tốt”; “Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không
lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính
phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”; Người lên án “Tham ô là hành động
xấu xa nhất, tội lỗi nhất trong xã hội, nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng
nước nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân, hại đến đạo
đức cách mạng của cán bộ và công nhân” (Thư gửi các đồng chí Bắc bộ và
Trung bộ). Một lần khác, Người lại viết: “Tham ô là hành động xấu xa nhất

của con người. Nhân dân lao động ta làm lụng đổ mồ hôi sôi nước mắt để
góp phần xây dựng của công – của Nhà nước và của tập thể. Của công ấy là
nền tảng vật chất của chế độ Xã hội Chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để
nâng cao đời sống của nhân dân ta...”. Người coi bọn tham nhũng là “kẻ
địch”, là “giặc nội xâm”, hoặc ngang hàng với “kẻ phản quốc”…
Về nguyên nhân, nguồn gốc và điều kiện phát sinh tham nhũng:
Về khách quan, nguồn gốc xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô, lãng
phí là căn bệnh “tứ chứng nan y” của mọi nhà nước. Dù Nhà nước Phong
kiến, Nhà nước Tư bản hay Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa… nếu không có sự
giáo dục sâu sắc và mọi hoạt động của Nhà nước không được đặt dưới sự
kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô, lãng phí.
Những người có chức có quyền, dù to hay nhỏ đều có điều kiện để tham
nhũng. Người viết: “Những người trong các công sở, từ làng cho đến Chính
phủ Trung ương đều có nhiều hoặc ít quyền hành, đều có dịp phát tài hoặc


24

xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân. Nếu không giữ cần kiệm
liêm chính, chí công, thì trở nên hủ hóa, biến thành sâu mọt của nhân dân”.
Về chủ quan, do cán bộ, công chức “vì thiếu đạo đức cách mạng, vì cá
nhân chủ nghĩa mà sinh tham ô”, Người nói: “Chủ nghĩa cá nhân như một
thứ vi trùng rất độc, nảy sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại
gian khổ, khó khăn, tham lam, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tham ô, hủ
hóa, lãng phí, xa hoa… Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu
tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích cách mạng, của nhân
dân. Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm nhiều sai lầm”. Người còn chỉ
ra rằng, có tham ô, lãng phí là vì bệnh quan liêu. Bệnh quan liêu là chỗ gieo
hạt, vun trồng cho tham ô, lãng phí nảy nở. Tham ô, lãng phí và bệnh quan

liêu là kẻ thù của nhân dân, bộ đội và Chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm,
vì nó không mang gươm, mang súng và nằm trong các tổ chức của ta để làm
hỏng công việc của ta, làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của
cán bộ ta; phá hoại đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính… Nó là một thứ
giặc trong lòng, “giặc nội xâm”… Vì vậy, “chống tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là
mặt trận tư tưởng và chính trị”.
Tham ô, lãng phí còn do trình độ hiểu biết, trình độ văn hoá và trình độ
tổ chức, quản lý của Nhà nước còn yếu kém. Cho nên muốn chống tham ô,
lãng phí, cần phải nâng cao trình độ của cán bộ, công chức cả về phẩm chất
đạo đức và văn hoá cũng như năng lực tổ chức, quản lý Nhà nước.
Các biện pháp, “phương thuốc” chống tham nhũng
Từ những nguyên nhân cơ bản trên, Người nêu ra các biện pháp,
“phương thuốc” chống tham nhũng (và thường gắn với quan liêu, lãng phí)
một cách toàn diện, đồng bộ, thống nhất, từ các biện pháp chính trị đến kinh
tế, tư tưởng đến tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế,
bắt buộc theo pháp luật, v.v…
Một là, muốn chống tham ô, lãng phí, quan liêu, trước hết và quan
trọng nhất là phải chống chủ nghĩa cá nhân, vì nó là thứ vi trùng rất độc, là kẻ
thù nguy hiểm gây ra mọi sai lầm, tội lỗi. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa
cá nhân trong mỗi cán bộ, Đảng viên, trong bộ máy của Đảng, Nhà nước thì
Đảng mới thực sự trong sạch và vững mạnh. Đảng phải thực hành kỷ luật


25

nghiêm minh, Nhà nước phải có các thể chế, luật pháp cụ thể, rõ ràng; phải
biết dựa vào quần chúng đấu tranh, phê bình, giáo dục và xử lý nghiêm minh
những cán bộ, Đảng viên mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, tham ô, lãng phí gây
nguy hại cho Đảng, cho Nhà nước, cho nhân dân. Như thế, Đảng, Nhà nước

mới thật sự trong sạch, vững mạnh, mới giành được sự tin yêu thực sự của
nhân dân.
Hai là, phải thực hành dân chủ, phát huy tối đa quyền làm chủ của
nhân dân, phải biết dựa vào dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân chủ là
thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng,
ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân chứ không
phải là làm quan cách mạng. Thực hiện dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có
thể giải quyết mọi khó khăn”. Người nhấn mạnh, chỉ khi nào toàn thể nhân
dân đều tham gia vào công tác quản lý, thực hiện nghiêm chỉnh và đồng bộ
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mới có thể chống
tham ô, lãng phí, quan liêu một cách tích cực, có hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi người dân phải biết phát huy quyền làm
chủ của mình, Người nói “Quan tham vì dân dại”, vì vậy, dân phải biết quyền
hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hành chữ liêm.
Nếu nhà bị mất cắp, mất trộm thì hô hoán lên và cả xóm, cả làng đuổi bắt kẻ
trộm. Khi của công bị mất cắp, mất trộm thì mọi người đều có trách nhiệm
vạch mặt kẻ gian và đưa nó ra trước pháp luật vì mọi người đều có trách
nhiệm giữ gìn của công… Của công, của Nhà nước là bất khả xâm phạm,
tham ô của công tức là xâm phạm đến lợi ích của nhân dân, tức là kẻ địch.
Cán bộ phải thi đua thực hành liêm khiết. Dùng cách thật thà tự phê bình và
phê bình để tẩy trừ những thói tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu để cùng
nhau tiến bộ… Một dân tộc biết kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật
chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Người nhiều lần
nhấn mạnh “kiên quyết chống tham ô là trách nhiệm chung của toàn Đảng,
toàn dân”. Thực hiện ý kiến của Người, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động
“Ba xây ba chống” là: “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, Tăng cường quản lý
kinh tế tài chính, Cải tiến kỹ thuật; Chống tham ô, lãng phí, quan liêu” (phát
động vào những năm 60 của thế kỷ trước).
Ba là, không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước, đào tạo, bồi
dưỡng và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cở sở đó, xây

dựng được bộ máy quản lý Nhà nước gọn nhẹ, có hiệu lực, thể hiện và thực


×