Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Khoá luận tốt nghiệp Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học thuộc khối khoa học xã hội và nhân văn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.87 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh viên là lực lượng đặc thù của xã hội, có vai trị quan trọng trong
quá trình phát triển đất nước. Họ là những người dồi dào về thể chất và trí
tuệ, năng động và sáng tạo trong học tập và lao động. Nhưng họ còn thiếu
kinh nghiệm sống nên rất cần sự quan tâm của xã hội. Nhận thức được điều
đó trong Đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giáo
dục trí thức, giáo dục đạo đức cho sinh viên để họ trưởng thành về mọi mặt
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính vì vậy mà nhiệm vụ bồi
dưỡng thế hệ trẻ là việc làm rất quan trọng và cần thiết nó có ý nghĩa chiến
lược lâu dài đối với sự phát triển của xã hội.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội
chủ nghĩa theo Người là phải hội tụ đủ cả hai yếu tố “đức” và “tài”. Vì vậy,
Người ln chú trọng tới việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau về cả
tài và đức, bởi “có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng
có tài thì làm việc gì cũng khó”. Xác định đạo đức là gốc của mọi việc, giáo
dục đạo đức trở thành nhiệm vụ trung tâm của nền giáo dục nước ta.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng
định: Thanh niên, sinh viên là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng
xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Giáo dục đại học khơng chỉ có
nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ, giáo dục đại học còn mang trọng trách giáo dục nên lớp thanh niên sinh
viên sống có hồi bão, có lý tưởng, vừa “hồng”, vừa “chuyên”.


2



Điều 2 của Luật giáo dục số 38/2005/QH11 nêu rõ giáo dục đại học có
mục tiêu: “đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, trí
thức, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, hình thành bồi sưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
[58,tr5]. Giáo dục đạo đức trong các trường đại học trở thành yêu cầu khách
quan trong quá trình xây dựng nguồn nhân lực cho sự nghiệp cách mạng của
đất nước ta.
Q trình giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức cho thanh niên, sinh viên
nói riêng khơng tách rời các q trình xã hội. Một mặt, giáo dục đạo đức cho
sinh viên góp phần làm nên thành công trong các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, văn hố, chính trị xã hội. Mặt khác, chính các quá trình xã hội lại tác động
đến việc giáo dục đạo đức cho sinh viên. Những thành tựu đạt được trong mọi
lĩnh vực đã tác động tích cực đến sinh viên, tạo điều kiện cho đội ngũ này tiến
bộ trong quá trình xây dựng, phát triển giá trị đạo đức cũng như quá trình rèn
luyện đạo đức. Nhiều sinh viên có lối sống trong sạch, lành mạnh, biết vươn
tới các giá trị chân, thiện, mỹ, sống có hồi bão, lý tưởng. Họ ý thức được
trách nhiệm của mình trong mơi trường học đường và trong xã hội. Nhiều
sinh viên biết đấu tranh bảo vệ cái đúng, lẽ phải, lên án cái xấu, cái ác, sự lãng
phí...Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập
khiến cho khơng ít sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, hư hỏng,
xa rời thang giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, xa lạ với định hướng giá trị
đạo đức cách mạng. Điều nguy hiểm hiện nay là đã xuất hiện một bộ phận
thanh niên tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất,
coi đồng tiền là trên hết. Hiện tượng sinh viên phạm vào các tệ nạn xã hội, vi
phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Một trong các nguyên nhân của
những biểu hiện yếu kém ấy là do chúng ta chưa thật sự quan tâm giáo dục



3

đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trước những biến đổi to lớn của đất nước. Nội
dung giáo dục đạo đức, lối sống còn thiếu chiều sâu, chưa thiết thực. Hình
thức giáo dục đạo đức, lối sống cịn sơ sài, chưa có sức hấp dẫn, lơi cuốn
thanh niên. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng, giữa nhà trường, gia
đình, xã hội cịn nhiều hạn chế. Việc tăng cường, đẩy mạnh sự nghiệp giáo
dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho sinh viên vừa là yêu cầu của công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội, vừa là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển con
người và xây dựng một môi trường đạo đức lành mạnh của xã hội.
Các trường đại học thuộc khối Khoa học Xã hội và Nhân văn là
những trung tâm đào tạo cán bộ công tác tư tưởng, công tác truyền thơng,
văn hóa, cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị, giảng viên các ngành lý luận
chính trị. Sinh viên sau khi ra trường thường đảm nhiệm công việc ở lĩnh
vực cơng tác có tính nhạy cảm chính trị cao. Họ không chỉ thực hiện nhiệm
vụ bằng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ nghề nghiệp mà cịn bằng nhiệt
huyết, tình cảm, đạo đức cách mạng. Do yêu cầu khách quan đó cơng tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên trở thành yêu cầu của chất lượng giáo dục
đạo đức của khối ngành này.
Mặc dù đã có những thành cơng đáng kể, công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên ở các trường thuộc khối ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn
vẫn chưa đạt được hiệu quả tương xứng với yêu cầu của xã hội. Trong điều
kiện đất nước đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta, việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên cần được đổi mới toàn diện trên cơ sở những kết quả
nghiên cứu nghiêm túc, công phu. Xuất phát từ u cầu đó, tơi lựa chọn đề
tài "Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học thuộc
khối Khoa học Xã hội và Nhân văn hiện nay"( Qua thực tế tại một số
trường đại học ở Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.



4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đạo đức và vấn đề giáo dục đạo đức được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết về
đạo đức của các lãnh tụ, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài
nước như:
Ở nước ngồi:
Có sách “Đạo đức học” của G.Bandzeladze; “Ngun lý đạo
đức mác xít” của A.F Shishkin; “Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường” (Từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung
Quốc) thơng tin khoa học xã hội - chuyên đề HN, 1998; “Tu dưỡng
đạo đức tư tưởng” (Chủ biên GS. La Quốc Kiệt, người dịch Nguyễn
Công Quỳ. Nxb CTQG. HN.2003).
Ở trong nước:
- “Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong
tình hình đổi mới”, của tác giả Phạm Đình Nghiệp, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 2000.
- Đề tài khoa học “Thực trạng cơng tác giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức cho sinh viên trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn ”
của PGS.TS Lê Khanh làm chủ nhiệm đề tài thực hiện từ 2000-2002.
- “Sự biến đổi của tháng giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức cho cán bộ quản lý của nước ta ”
của PGS, PTS Nguyễn Chí Mỳ, Nxb CTQG, H.1999.
- “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong
điều kiện kinh tế thị trường”, Thái Duy Tuyên, Hà Nội, 1994.
- “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị ”,
Nguyễn Quang Uẩn, Hà Nội, 1995.



5

- “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương
hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”, Mạc Văn Can làm
chủ nhiệm đề tài.
- “Giáo dục thanh niên kế thừa nhân cách Hồ Chí Minh để
trưởng thành và phát triển”, TS. Dương Tự Đam (2008).
- “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay”
của TS. Võ Minh Tuấn (2003), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
- “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong
tình hình mới”, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2000
- “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” luận án tiến sĩ triết học
của Trần Sĩ Phán, 1999.
-“Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sĩ triết học
của Hoàng Anh, 2001.
- “Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên đào tạo sĩ
quan quân đội”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thái Sinh (2003).
- “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay
ở Việt Nam-thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Triết học của
Vũ Thanh Hương, 2004.
-“Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Dỗn Thị Chín (2004)
- “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới
cho sinh viên Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần
Thị Phương Thảo, 2009.



6

Một số tác giả có các bài viết về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức
đồng thời khẳng định các giá trị đạo đức luôn chịu tác động hai mặt từ
mơi trường kinh tế. Qua đó các tác giả cũng đã chỉ ra sự phức tạp của
các vấn đề đạo đức xã hội; đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ
thống đạo đức khác, vừa phải đấu tranh tự đổi mới trong điều kiện nền
kinh tế thị trường hiện nay.
Trong các cơng trình này, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực
đạo đức, những nguyên tắc và yêu cầu đạo đức. Các tác giả cũng thống
nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức phải trên cơ sở của mơi trường
kinh tế, văn hố xã hội nhất định. Từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao đạo đức cho từng đối tượng cụ thể.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì vấn
đề giáo dục đạo đức trong sinh viên đang biến động hết sức phức tạp,
yêu cầu nâng cao giáo dục đạo đức cho đối tượng là sinh viên trở nên
rất cần thiết. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu thêm
nhằm có cái nhìn xác thực mới về vấn đề giáo dục đạo đức trong sinh
viên các trường khối Khoa học Xã hội và Nhân văn và có những giải
pháp thích hợp đúng đắn cho đội ngũ sinh viên hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Phân tích tầm quan trọng, yêu cầu, thực trạng của việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên khối Khoa học Xã hội và Nhân văn, trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:



7

Làm rõ tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn hiện nay.
Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức trong sinh viên, nguyên
nhân của những thực trạng đó.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong khối các trường Khoa học
Xã hội và Nhân văn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Vấn đề giáo dục đạo đức
của sinh viên trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Các trường đại học thuộc khối Khoa học
Xã hội và Nhân văn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề đạo đức, đạo đức sinh viên; các bài nói và viết của các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về đạo đức và xây dựng đạo đức.
- Phương pháp luận
Chủ yếu sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp
lơgíc - lịch sử phân tích - tổng hợp xã hội học...
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về công tác giáo dục
đạo đức và những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn hiện nay.



8

- Có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập, nghiên cứu trong
việc giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường. Những giải pháp có ý
nghĩa thiết thực để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức trong
các trường đại học và cao đẳng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


9

Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN KHỐI TRƯỜNG KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂN
1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, là
một trong những giá trị tinh thần quan trọng của con người, trong sự phát triển,
tiến bộ của xã hội. Vì vậy, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại,
vấn đề đạo đức luôn được xã hội quan tâm, đặc biệt là các nhà triết học.
Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó
thuộc về vấn đề tốt xấu, hơn nữa được xem như đúng-sai. Cho đến nay bàn về
đạo đức có nhiều hệ thống lý thuyết tiêu biểu, tiếp cận đạo đức theo các
khuynh hướng khác nhau.
Theo các nhà chủ nghĩa duy tâm khách quan và các nhà thần học:
Platon và Hêghen lấy “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối” để giải thích nguồn
gốc và bản chất của đạo đức. với các nhà thần học thì cho đạo đức là có

nguồn gốc từ thần thánh. Cịn theo các nhà chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì
coi đạo đức như là năng lực “tiên thiên”của lý trí con người, ý chí hay “thiện
ý” theo cách gọi của Cantơ là một năng lực có tính nhất thành, bất biến có
kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã
hội của con người.
Khuynh hướng tiếp cận đạo đức của các nhà chủ nghĩa duy vật trước
Mác: họ nhìn thấy đạo đức trong mối quan hệ của con người. nhưng con
người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến. Con người ở bên ngoài lịch sử,
giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Với quan niệm đúng đắn về đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin thì đạo
đức được hình thành và phát triển trong quá trình con người hoạt động, lao


10

động sản xuất, từ những quan hệ con người với con người trong quá trình hoạt
động. Sự hình thành những phẩm chất đạo đức của con người gắn với tình
cảm gia đình, với ý thức cộng đồng, giai cấp, dân tộc và nhân loại. Trong
Chống Đuyrinh, Ănghen viết “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức
đã có từ trước đến nay đề là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy
giờ”. [9,tr137]. Tiếp tục phát triển quan niệm đạo đức của chủ nghĩa Mác Lênin, G.Bandzeladze cho rằng “đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu
hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong xã hội với
nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung. Bản chất đạo đức là sự quan tâm
tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi ích của xã hội”
[32,tr104]; Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những
nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con
người đối với nhau và đối với xã hội”[66, tr101]
Các khái niệm về đạo đức đều phản ánh mối quan hệ tương hỗ của con
người một cách trực tiếp hay gián tiếp nhằm mang lại lợi ích cho người khác,
cho xã hội trên cơ sở những chuẩn mực, những quy tắc định hướng điều chỉnh

các hành vi của con người hướng tới mục tiêu thống nhất đó là mục tiêu đạo
đức. Vì thế, có thể hiểu khái niệm đạo đức một cách khái quát như sau: “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và tự đánh giá cách ứng xử của con người
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện với niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.[42,tr8]
Với tư cách là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người trong
các mối quan hệ thì đạo đức có 3 chức năng là: nhận thức, giáo dục và chức
năng điều chỉnh hành vi. Các chức năng đều có vai trị, vị trí nhất định và có
quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Trong đó chức năng giáo dục
và điều chỉnh hành vi có vai trị quan trọng nhất vì trên cơ sở nhận thức được


11

chức năng giáo dục đạo đức giúp con người hình thành nhân cách, định
hướng giá trị và các chuẩn mực đạo đức, điều chỉnh ý thức cho phù hợp với
lợi ích của xã hội. Quá trình điều chỉnh hành vi được tiến hành một cách tự
giác của các cá nhân đạo đức trên cơ sở của những chuẩn mực đạo đức xã hội
và nó cần được sự quan tâm đánh giá, khen ngợi, khuyến khích hay phê bình
của dư luận xã hội trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức chung. Đây chính là
chức năng xã hội hết sức quan trọng của đạo đức. Qua đó mới tạo nên sự phát
triển cân đối trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội.
1.1.2. Giáo dục đạo đức
Giáo dục là một trong những hình thức hoạt động từ lâu đã được lồi
người quan tâm. Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm về giáo dục như:
- “Giáo dục là một q trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm
hình thành ở người học những quan điểm, niềm tin, những phẩm chất, hành vi
đạo đức, đồng thời bồi dưỡng tình cảm, năng lực thẩm mỹ và năng lực rèn
luyện thể chất” [57,tr8].

- Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Giáo dục là hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển thể chất và tinh thần của đối
tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và
năng lực theo yêu cầu đặt ra” [66,tr158]
Giáo dục đạo đức là con đường, cách thức cơ bản chủ yếu để hình
thành những phẩm chất đạo đức cho sinh viên. Giáo dục đạo đức góp phần
chuyển những quan niệm đạo đức, những chuẩn mực và nguyên tắc đạo đức
từ yêu cầu của xã hội thành sự thôi thúc nội tâm của mỗi sinh viên giúp cho
họ nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và chủ động về nội dung, yêu cầu,
quy tắc đạo đức, qua đó góp phần điều chỉnh nhận thức, hành vi của sinh viên
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.


12

Trong nhà trường xã hội chủ nghĩa hiện nay, giáo dục đạo đức cho sinh
viên là xây dựng và phát triển các phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, là hình
thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức của
sinh viên sao cho phù hợp với sự phát triển, vì sự tiến bộ của xã hội. Giáo dục
đạo đức là mặt quan trọng của giáo dục nhân cách hướng tới sự phát triển
tồn diện, cùng với giáo dục tư tưởng chính trị đó là bộ phận nền tảng của
giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa. Hồ Chủ Tịch đã nói: “Dạy cũng như học,
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc
rất quan trọng” [37,tr252].
Trong vấn đề giáo dục con người thì điều quan trọng đầu tiên là giáo
dục đạo đức. Đặc biệt trong tình hình kinh tế hiện nay thì việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên luôn là vấn đề đặt ra, giáo dục đạo đức giúp cho sinh viên
biết lựa chọn những giá trị đạo đức tích cực, biết phân biệt cái thiện, cái ác,
tốt, xấu….Giáo dục đạo đức là cơng việc của tồn xã hội, nhà trường và gia
đình. Trong đó thì giáo dục trong nhà trường giữ vai trị định hướng cho sinh

viên. Đó là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm phát triển nhân
cách sinh viên để hình thành cho họ những chuẩn mực hành vi ứng xử đúng
mực trong các mối quan hệ xã hội, qua đó hình thành ý thức, tình cảm, niềm
tin và thói quen đạo đức đáp ứng yêu cầu xã hội, qua đó góp phần quan trọng
vào việc phát triển đất nước.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên có thể tiến hành bằng nhiều con đường,
cách thức khác nhau thong qua hệ thống những tác động mang tính nghiệp vụ
sư phạm được sự phối hợp từ nhiều lực lượng giáo dục theo những phương
pháp khác nhau. Đó chính là sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của
bộ máy chính quyền nhà nước và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội,
của gia đình. Tất cả những nhân tố đó thơng qua hoạt động của sinh viên để
hình thành nên nhân cách của họ. Giáo dục đạo đức sẽ giúp cho sinh viên


13

nhận thức được những giá trị đích thực của cuộc sống hiện tại, đó là tính nhân
bản, nhân ái và tính nhân văn sâu sắc. Giáo dục đạo đức góp phần to lớn làm
nhân đạo hố mơi trường sống của sinh viên, củng cố những phẩm chất và
những giá trị bền vững. Thông qua giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay sẽ
hình thành nên niềm tự hào dân tộc, u hồ bình, độc lập dân tộc, tự do, sẵn
sàng đấu tranh, hi sinh bảo vệ tổ quốc và tôn trọng chủ quyền của dân tộc
khác. Và cũng thông qua giáo dục đạo đức hình thành những tình cảm đạo
đức tốt đẹp như yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người, tơn trọng
con người, củng cố tình đồn kết, yêu thương giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Chính những tình cảm đạo đức là động lực thúc đẩy sinh viên thực hiện
những hành vi đạo đức tốt đẹp, thúc đẩy con người vươn lên trong cuộc sống.
Có được những tình cảm đạo đức sẽ là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn giúp
cho sinh viên phấn đấu đạt tới những giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Giáo dục đạo
đức không chỉ hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp mà cịn gắn liền

với việc hình thành và phát triển tài năng. Tài và đức là hai mặt không thể
tách rời. Tài năng được khẳng định và phát triển trên cơ sở đạo đức. Chính
đạọ đức giúp cho tài năng của sinh viên được phát huy và mang lại những giá
trị chân chính, chống lại những hành vi lệch lạc, phản đạo đức, gây hoạ cho
người khác. Tài năng được bộc lộ, phát triển khi nó thực hiện có mục đích
tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo ra những giá trị xã hội chất lượng và hiệu
quả cao, đó là biểu hiện về mặt đạo đức. Đồng thời chính những giá trị đạo
đức tốt đẹp mà sinh viên có được khẳng định ở kết quả học tập và những hành
vi, hành động sống tốt đẹp.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng để sinh
viên tiếp thu được những giá trị đích thực của cuộc sống. Để giáo dục đạo đức
đạt hiệu quả cao trong nhà trường cần phải giải quyết nhiều vấn đề giúp cho


14

sinh viên có ý thức về những phẩm chất đạo đức, có thái độ tích cực và thói
quen cùng những hành vi tương xứng.
1.2. Nét đặc thù của sinh viên và tầm quan trọng của việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn hiện nay
1.2.1. Nét đặc thù của sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và
Nhân văn hiện nay
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt
Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Hiện nay có
rất nhiều quan niệm khác nhau về sinh viên, nhưng quan niện được nhiều
người trong giới quan khoa học xã hội ủng hộ là quan niệm cho rằng: “Sinh
viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá
trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia, hoạt động lao động trong một
lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội hoặc sinh viên là
những người đang học tập ở các trường cao đẳng, đại học” [24,tr13].

Theo xã hội học và tâm lý học, sinh viên là đại biểu của nhóm xã hội
đặc biệt gồm những người đang chuẩn bị cho hoạt động lao động trong một
lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. ở cấp độ xã hội sinh viên là người đang
chuẩn bị để ra nhập vào đội ngũ trí thức của xã hội. Ở cấp độ cá nhân thì sinh
viên là giai đoạn của quá trình trưởng thành về xã hội, chín muồi về thể lực,
sự định hình về nhân cách đang học tập, tiếp thu những tri thức của một lĩnh
vực nghề nghiệp nhất định. Sinh viên trong xã hội thường ở lứa tuổi từ 17 24 tuổi có cùng học vấn, có đặc trưng là học tập để chiếm lĩnh nền văn minh
nhân loại và dân tộc, chuẩn bị gia nhập tầng lớp trí thức. Lênin đã từng đánh
giá sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất của giới trí thức, là tầng lớp có trình
độ tiên tiến nhất trong hàng ngũ thanh niên. Song bên cạnh đó, thanh niên,
sinh viên cịn thiếu kinh nghiệm sống cần được bổ sung bằng kinh nghiệm
của thế hệ trước, những người được hun đúc bằng truyền thống cách mạng và


15

tầm hiểu biết chính trị, xã hội rộng rãi làm cho họ sáng suốt lên. Vì vậy, phải
quan tâm để giáo dục rèn luyện thế hệ trẻ trong đó có sinh viên. Giáo dục là
yếu tố chủ đạo có ảnh hưởng đến việc phát triển nhân cách của sinh viên đến
tiến trình phát triển của xã hội.
-Về mặt tâm lý, trong nhóm tuổi sinh viên, sự phát triển trí tuệ được
đặc trưng bởi sự nâng cao trí tuệ, biểu hiện rõ nét nhất trong việc tư duy sâu
sắc và rộng mở, có năng lực giải quyết nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn
hơn, cũng như có sự khác biệt rõ nét trong lập luận logic, trong lĩnh vực tri
thức, trí tưởng tượng, sự chú ý ghi nhớ. Họ có tính nhạy bén cao cùng khả
năng giải thích và gắn ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào mặt kinh
nghiệm và tri thức đã có trước đây. Sự phát triển này cùng với óc quan sát
tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho sinh viên biết cách lĩnh hội một
cách tối ưu kiến thức của quá trình học tập. Họ có những hiểu biết về khoa
học kỹ thuật, năng lực nhận thức phát triển mạnh mẽ. Điều đó giúp họ giải

quyết độc lập những vấn đề đặt ra trong cuộc sống sinh viên. Đồng thời họ
còn mang trong mình khát vọng được cống hiến, họ khao khát vươn lên để
khẳng định bản thân. Đặc biệt trong giai đoạn thanh niên, sinh viên thì khả
năng tự ý thức phát triển cao. Họ có thể tự quan sát, tự phân tích đánh giá, tự
nhận thức và điều chỉnh về hành động và thái độ đối với bản thân và xung
quanh. Họ có thể tự đánh giá hồn thiện bản thân mình trong cuộc sống sao
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Về mặt xã hội: Trong giai đoạn này con người ngày càng hiểu biết môi
trường xã hội rộng lớn hơn nhiều. Ở lứa tuổi này sinh viên đang hình thành
những hứng thú và thái độ mới, quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển kỹ
năng mới, ứng xử mới. Ở độ tuổi sinh là giai đoạn chín muồi về thể lực sang
trưởng thành về phương diện xã hội. Đây là thời kỳ phát triển tích cực nhất về
tình cảm đạo đức và thẩm mỹ, hình thành và ổn định tính cách. Trong thời kỳ


16

này sinh viên có kế hoạch riêng cho hoạt động của mình và độc lập trong
phán đốn và hành vi. Họ xác định được cho mình con đường sống, tích cực
nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống. Sinh viên mong muốn xã hội đánh giá và có khả năng đánh giá
mình, mong muốn tự hồn thiện.
Tóm lại, sinh viên là sự tiếp nối giữa giai đoạn cuối vị thành niên sang
đầu giai đoạn người lớn trưởng thành. Ở tuổi này sinh viên có sự phát
triển của những nhu cầu có tính chất thế giới quan, nhân sinh quan, đạo
lý, hoài bão vươn tới lý tưởng. Vì vậy, đây là giai đoạn tốt nhất, quan
trọng nhất cho việc giáo dục đào tạo cho sinh viên, đồng thời phải coi
trọng giáo dục đạo đức cũng như đào tạo kiến thức khoa học chuyên
ngành. Các biện pháp giáo dục đạo đức chỉ thực sự có hiệu quả khi chúng
trở thành các hoạt động tự trải nghiệm mà mỗi sinh viên tham gia sẽ có cơ

hội để thể hiện năng lực của mình, sẽ có điều kiện đáp ứng tốt hơn các
nhu cầu, lợi ích thiết thực của chính họ.
Các hoạt động cơ bản của sinh viên:
Hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động nhận thức cơ bản được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên nhằm nắm vững hệ thống kiến
thức, kỹ năng về một loại nghề nghiệp nào đó làm cơ sở cho hoạt động nghề
nghiệp tương lai. Hoạt động học là việc chủ đạo của sinh viên, giữ vai trị chủ
đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách của người học. Cái
cốt lõi hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về hoạt động học tập
của mình. Tự ý thức về động cơ, mục đích, biện pháp học tập, nhận thức về
những chuẩn mực xã hội của sinh viên, chịu trách nhiệm trước việc học tập và
tương lai của mình.


17

Ngoài hoạt động học tập là chủ đạo sinh viên cịn có những hoạt động
khác như hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động thể dục thể thao, hoạt
động chính trị xã hội.
Chính những hoạt động học tập và rèn luyện của sinh viên trong nhà
trường làm cho sinh viên lớn lên về mọi mặt đặc biệt là khả năng trí tuệ, tư
duy độc lập, sáng tạo ngày càng phát triển, năng lực khái qt hố, trừu tượng
hóa được nâng cao. Các thế hệ sinh viên đã có sự đóng góp nhiều cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều thấy nổi bật nên một điều là mối quan
hệ khăng khít giữa tri thức khoa học và phẩm chất đạo đức. Nhờ có phẩm chất
đạo đức làm điểm tựa giúp cho sinh viên vượt lên trong học tập và nghiên cứu
khoa học cũng như hiểu biết hơn về các vấn đề chính trị xã hội. Sinh viên là
một bộ phận của thanh niên Việt Nam, là lớp người được trang bị tri thức,
nhạy bén năng động trong tiếp thu cái mới, nhưng họ cũng có những hạn chế
nhất định: bồng bột, chủ quan, thiếu thực tế, bốc đồng, chuộng hình thức,

bệnh cá nhân và bi chi phối bởi những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
dẫn đến mất phương hướng về chính trị, tha hố về đạo đức, lối sống vì thế dễ
bị lơi kéo, mua chuộc vào các hoạt động không lành mạnh làm ảnh hưởng đến
bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội. Xảy ra tình trạng này là do sinh viên
vẫn đang ở tuổi chưa chín chắn, đang định hình về nhân cách, thiếu kinh
nghiệm về cuộc sống, do đó việc định hướng rèn luyện cho sinh viên biết
khắc phục những mặt yếu phát huy mặt mạnh của mình trong học tập và đặc
biệt là trong rèn luyện đạo đức để trở thành những con người đủ đức, đủ tài
đáp ứng yêu cầu của xã hội là điều rất cần thiết. Vấn đề này còn trở nên quan
trọng hơn đối với sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn vì sinh
viên ở khối này sau này ra trường thường làm trong những lĩnh vực nhạy cảm,
sự tiếp xúc quan hệ và u cầu cao của tính tập thể, đồn kết thì vấn đề giáo
dục đạo đức lại càng trở nên quan trọng.


18

1.2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên khối
trường Khoa học Xã hội và Nhân văn
Hiện nay để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước do Đảng lãnh đạo, nhằm xây dựng xã hội ngày càng giàu mạnh,
tốt đẹp thì cúng ta cần phải có nguồn lực con người vững mạnh, đó phải là
những con người mới, những con người phát triển tồn diện về mọi mặt, trong
đó đức là gốc, là cái nền để sử dụng có ích tài năng của mình giúp mình, giúp
đất nước ngày một phát triển như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Vì có đức mà
khơng có tài thì khơng đủ năng lực để giải quyết cơng việc, có tài mà khơng
có đức dẫn tới hỏng việc có hại cho cách mạng. Với chiến lược phát triển con
người tồn diện thì thế hệ trẻ Việt Nam cần phải được chú ý đầu tiên, bởi lẽ
họ là người chủ tương lai của đất nước và muốn hồi sinh dân tộc phải hồi sinh
thanh niên, trong đó đội ngũ sinh viên có vai trị rất quan trọng.

Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên đặc biệt là sinh viên
khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn có một ý nghĩa quan trọng hơn cả,
khẳng định điều đó vì những lý do sau:
Thứ nhất, giáo dục đạo đức góp phần hồn thiện nhân cách sinh viên
phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước ta hiện nay
Sinh viên là lực lượng xã hội có vị trí vai trị quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sinh viên là một lực lượng chính trị -xã
hội đặc biệt, họ là lực lượng tinh tuý của thanh niên. Thực tiễn đã cho chúng
ta thấy: họ luôn là những người gắn bó với phong trào cách mạng của Đảng
bằng nhiệt huyết, bằng lương tâm, bằng những phẩm chất đạo đức của mình.
Những phong trào mà sinh viên tham gia ln mang lại hiệu quả cao như
phong trào sinh viên tình nguyện, hiến máu nhân đạo…họ đã chứng minh
được mình ln là một lực lượng chính trị xã hội đặc biệt.


19

Nhưng muốn có trí thức thì khơng thể khơng qua đào tạo cơ bản được,
và điều đó được tiến hành trong các trường đại học. Với sinh viên, quá trình
học tập tại trường đại học là q trình tích luỹ tri thức cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo
và phương pháp tư duy của nghề nghiệp sau này. Vì vậy, hơn bao giờ hết vấn
đề giáo dục đạo đức cho sinh viên càng trở nên cấp thiết, đạo đức giúp cho họ
ý thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước, biết sống vì mọi người,
giúp cho họ đủ nghị lực tránh xa những cám dỗ hư hỏng của cuộc sống, tăng
cường ý chí vượt qua khó khăn trong q trình học tập tu dưỡng bản thân,
sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và với cộng đồng. Đạo đức được
coi là động lực, là sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại cái ác,
cái xấu đi ngược lại lợi ích xã hội, bảo vệ và phát triển cái tốt, cái thiện làm
cho xã hội ngày càng phát triển.

Sinh viên là những người năng động, sáng tạo và nhiệt tình trong các
phong trào, nhưng sinh viên cịn thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống, còn bồng
bột trong hành động và xử lý mọi tình huống xảy ra nên việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên còn xuất phát từ chính u cầu, mục tiêu hồn thiện nhân
cách cho sinh viên để họ vươn lên nắm bắt tri thức, làm chủ bản thân và góp
phần quan trọng trong các hoạt động chung của xã hội.
Nhân cách con người nói chung, sinh viên nói riêng, giữa phẩm chất
đạo đức và năng lực bản thân ln có mối quan hệ khăng khít, trong đó ưu
tiên hàng đầu là vấn đề đạo đức. Trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật
phát triển như vũ bão, sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng mãnh liệt thì
hơn bao giờ hết sinh viên phải tìm mọi cách vươn lên nắm lấy trí thức, phải
thực sự trở thành người vững chuyên môn, nghiệp vụ, những người có đủ tài;
đồng thời sinh viên phải là người có đạo đức trong sáng để giải quyết mọi
việc cách hợp tình, hợp lý.


20

Thứ hai, giáo dục đạo đức góp phần củng cố bản lĩnh chính trị, ý chí
lập thân, lập nghiệp, vươn tới những giá trị nhân văn của thời đại.
Sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước nên họ luôn là đối
tượng tấn công của các thế lực thù địch, phản động đang cản trở con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với chiến lược diễn biến hồ bình,
chúng đang hàng ngày tác động vào sinh viên trên các mặt tư tưởng, chính trị,
lối sống đặc biệt là đạo đức nhằm làm suy giảm niềm tin với Đảng, làm băng
hoại về mặt đạo đức với mục đích biến họ thành những người ích kỷ, chỉ biết
mình, quay lưng với sự nghiệp phát triển chung của đất nước mà ông cha ta
đã và đang xây dựng, họ sống thực dụng, lạnh lùng vô cảm sống không có
tình nghĩa…. Chính vì vậy, bên cạnh việc học chữ thành tài, thì việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên càng trở nên cấp thiết hơn.

Việc giáo dục đạo đức sẽ giúp cho sinh viên nói chung và sinh viên
khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn nói riêng có niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội, vào sự nghiệp xây dựng đất nước, từ đó sinh viên có được quan
điểm đúng đắn, cùng những lý tưởng và hành động cao đẹp. Đạo đức giúp
cho sinh viên trở thành những con người có ý chí, học tập sáng tạo chăm chỉ,
có tình đồn kết, biết phấn đấu vì lợi ích chung, có lối sống lành mạnh, tơn
trọng kỷ cương phép nước, có ý thức bảo vệ và cải thiện mơi trường sinh thái.
Và điều quan trọng là sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn
thường làm việc trong mơi trường nhạy cảm với lĩnh vực chính trị xã hội cao
hơn so với các ngành khác nên việc giáo dục đạo đức giúp cho họ nhận thức
rõ âm mưu của các thế lực thù địch càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Thứ ba, giáo dục đạo đức cho sinh viên góp phần hạn chế tác động mặt
trái của kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập đang hàng ngày, hàng giờ tác
động tới sinh viên


21

Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển, pháp luật cịn
nhiều khe hở, những thói hư, tật xấu, tâm lý địi hỏi hưởng thụ, ích kỷ chỉ
muốn thoả mãn nhu cầu cá nhân bằng mọi giá bất chấp lương tâm, danh dự
cũng như lịng tự trọng, thì việc giáo dục đạo đức lúc này có tác dụng giúp
cho sinh viên nhận thức được hành vi ứng xử của mình. Việc giáo dục cho
sinh viên những quan điểm, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh làm cho
sinh viên nhận diện được những việc làm phi đạo đức, đấu tranh chống lại
những hiện tượng tiêu cực, phản văn hoá trong xã hội, hướng sinh viên phát
triển theo hướng lành mạnh, tích cực phịng chống sự băng hoại các giá trị
đạo đức của bản thân, tin tưởng vào tương lai. Từ đó, giúp họ xác định đúng
đắn động cơ học tập của mình, có hứng phấn đấu, rèn luyện để thành tài giúp
ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Trong điều kiện mở cửa giao lưu với thế giới bên ngồi vơ cùng phức
tạp, nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh
viên thì mới có thể giúp họ có đủ nhận thức, bản lĩnh để chống lại những tác
động tiêu cực, đồng thời góp phần vào việc thực hiện mục đích đào tạo con
người đáp ứng yêu cầu hiện nay của đất nước và thời đại.
1.3. Yêu cầu của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại
học thuộc khối Khoa học Xã hội và Nhân văn
1.3.1. Thống nhất tính mục đích và tính tư tưởng trong nội dung
chuẩn mực đạo đức cần giáo dục cho sinh viên khối trường Khoa học Xã
hội và Nhân văn
Ngày nay, cùng với sự phát triển và đi lên của xã hội, mỗi chúng ta
được sống trong môi trường văn minh, hiện đại hơn, nhưng kéo theo đó cũng
có nhiều vấn đề nảy sinh làm ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống xã hội. Một
trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay, đó là đạo đức học đường của một
bộ phận sinh viên đang bị xuống cấp dẫn đến tình tranh bạo lực học đường,


22

quan hệ thầy trị bị đảo lộn. Điều này khơng những gây hoang mang cho dư
luận xã hội mà còn gióng lên hồi chng cảnh báo về lối sống đạo đức, nhân
cách của giới trẻ ngày nay.
Vì vậy, chúng ta cần tăng cường giáo dục các giá trị đạo đức nhân văn
cho sinh viên với hệ thống giá trị đạo đức: Chân, Thiện, Mỹ, Nhân, Trí, Dũng,
Trung với nước, Hiếu với dân. Như vậy, cái đức, cái thiện, lòng yêu nước,
yêu dân là cốt lõi trong giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
Đối với sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn sau quá
trình đào tạo, họ sẽ là những cán bộ tri thức trẻ được đào tạo, rèn luyện rất cơ
bản, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, kỹ năng nghề nghiệp, có
trình độ lý luận chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức

tốt…đáp ứng sự nghiệp đổi mới của Đảng, của dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết trung ương VII về công tác thanh niên: Giáo dục
giá trị đạo đức nhân văn cho thế hệ trẻ. Các giá trị đạo đức cần giáo dục cho
sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn gồm các nội dung sau:
Trong quá trình phát triển đất nước, những con người Việt Nam luôn
hiểu rằng, muốn tồn tại và phát triển thì khơng cịn con đường nào khác là
phải chung lịng cùng nhau đóng cơng sức, trí tuệ, cùng nhau vượt qua thử
thách, gian nguy để đưa đất nước tiến lên. Phẩm chất con người Việt Nam với
tinh thần đồn kết cộng động, gắn bó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác đã tạo nên sức mạnh khơng gì ngăn nổi. Trong q trình bảo vệ tổ quốc
Việt Nam tinh thần đoàn kết của cả cộng đồng đã đưa đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Với tinh thần đồn kết đó đã làm cho dân tộc Việt Nam vững
bước trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể khẳng định những giá trị đạo đức của dân tộc đó là những tài sản
vơ cùng q giá mà cha ơng ta đã vun đắp, giữ gìn và truyền lại cho thế hệ sau.


23

Giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung và sinh viên khối các
trường Khoa học Xã hội và Nhân văn nói riêng trong giai đoạn hiện nay là rất
cần thiết, phải biết kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam.
Để kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn cần phải phấn đấu,
rèn luyện để có những phẩm chất đạo đức phù hợp với các giá trị đạo đức của
xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, thấm nhuần tư tưởng
đường lối chính chị của Đảng và nhà nước, có lịng u nước, có lịng nhân ái
bao dung, u thương con người, có tinh thần học hỏi, có chí vươn lên, sáng
tạo trong lao động.

Đối với sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn cần hình
thành đầy đủ những phẩm chất của người cơng dân nói chung trong các mối
quan hệ với người khác, với xã hội cũng như với chính bản thân mình. Đồng
thời sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân văn cần thiết phải được
giáo dục những phẩm chất đạo đức sau:
- Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tự cường dân tộc, phấn đấu vì
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi
nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân yêu hồ bình trên thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
- Có lý tưởng nghề nghiệp
- Có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, thường xuyên học tập
nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực
- Có ý thức đạo đức và lương tâm nghề nghiệp
- Có lịng nhân ái
- Đồn kết, tương trợ lẫn nhau, có ý thức tập thể phấn đấu vì lợi
ích chung.


24

- Biết tôn trọng giá trị đạo đức truyền thống
- Sáng tạo trong lao động
- Tôn trọng tập thể
- Trung thực, thẳng thắn, có tinh thần ham học hỏi,cầu tiến bộ
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung
thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng
đồng, có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái.
Trên cơ sở những giá trị đạo đức sinh viên cần có trên, Hội sinh viên
Việt Nam đã đưa ra mơ hình người sinh viên mới: “Có kiến thức vững
vàng, phong phú, có khả năng tiếp cận tri thức của thời đại, thiết tha với lý

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có hồi bão lớn, có lối sống đẹp,
có sức mạnh truyền thống và bản sắc văn hố dân tộc, có trách nhiệm cao
với cộng đồng”.
Đó là những tiêu chuẩn khái quát về sinh viên Việt Nam căn cứ trên
những phẩm chất đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định.
Khi cụ thể những phẩm chất ấy trong đời sống sinh viên thì nội dung
cần giáo dục đạo đức cho sinh viên khối trường Khoa học Xã hội và Nhân
văn hiện nay cần phải đạt được những nội dung sau:
Thứ nhất, Giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên.
Con người Việt Nam nói chung, sinh viên nói riêng có truyền thống
yêu nước, truyền thống cách mạng. Các thế hệ sinh viên hiện nay sinh ra và
lớn lên trong hồ bình thống nhất họ không phải chứng kiến những cuộc
chiến tranh gây ra nhiều đau thương mất mát cho dân tộc nên họ không hiểu
những mất mát mà thế hệ trước phải gánh chịu. Chính vì thế, việc giáo dục
nâng cao nhận thức cho sinh viên về lịch sử, về truyền thống cách mạng mà
cha ông chúng ta đã tạo dựng là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm nâng cao lòng


25

tự hào dân tộc, bồi đắp thêm hành trang cho sinh viên trước yêu cầu, và
nhiệm vụ mới sau khi tốt nghiệp ra trường.
Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trước tiên phải nói tới đó
là lịng yêu nước: Tinh thần yêu nước đã trở thành nguyên tắc đạo đức cao
nhất, thành lẽ sống và đạo lý làm người của mỗi người dân Việt Nam. Yêu
nước được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác,
trở thành truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó

lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước”. Ngày nay trong xây dựng và phát triển đất nước theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát huy lịng u nước chính là nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Sinh viên là
những người đang ngồi trên ghế nhà trường, nên trình độ nhận thức và giác
ngộ chính trị cịn hạn chế, lập trường giai cấp chưa được rèn luyện và thử
thách, lại thiếu thực tế…. Vì vậy, giáo dục lịng u nước đối với sinh viên là
có ý chí tự lực, tự cường, sự nỗ lực trong học tập, lao động, sáng tạo trong tư
duy và hành động, khơi dậy lịng nhiệt tình cách mạng, biết kế thừa và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống, có hồi bão lớn lao và tinh thần vượt
khó vươn lên đang tiềm ẩn trong mỗi một cá nhân sinh viên.
Lòng yêu nước sẽ tiếp thêm sức mạnh cho sinh viên tiếp nối sự nghiệp
của lớp người đi trước, yêu nước đối với sinh viên được thể hiện trong tình
cảm, trong nhận thức và trong sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhằm phát
huy mọi tiềm năng để đưa đất nước chiến thắng đói nghèo, nhân dân được ấm
no, hạnh phúc, đất nước vươn lên ngang tầm thời đại.


×